Tác dụng chữa bệnh của hoa sứ trắng: hạ huyết áp

seminoon seminoon @seminoon

Tác dụng chữa bệnh của hoa sứ trắng: hạ huyết áp

18/08/2015 12:00 AM
518

Hoa Sứ Chữa Bệnh

lkt1366039971Các bài thuốc chữa bệnh từ Cây Sứ Trắng
Cây Sứ Trắng (Sứ Đại, Sứ Lá Bầu, Sứ Hột gà)
Cây sứ có tên khoa học là Plumeria rubra L. var. acutifolia (Poir.) Bailey, thuộc họ trúc đào (Apocynaceae), nguồn gốc từ Trung Mỹ và Caribe, là quốc hoa của Nicaragua và Lào. Các tên gọi phổ biến trong tiếng Việt là cây đại, bông sứ, chămpa; ngoài ra còn có tên miễn chi, kê đảm tử. Cây sứ ra hoa có màu từ trắng, vàng tới hồng, đỏ.
Đây là loài cây bụi lớn hay cây thân gỗ nhỏ, có thể cao đến 15 – 20m, mủ trắng. Hoa thơm, nở vào mùa hè và mùa thu. Hoa chủ yếu toả hương về đêm nhằm lôi kéo các loài bướm nhân sư (họ Sphingidae) thụ phấn cho chúng. Lá mọc so le, bản to, hình bầu dục hay xoan thuôn, có mũi ngắn, không lông hoặc ít khi có lông ở mặt dưới. Hoa thường có tâm vàng, cánh hoa dày, nhuỵ nhiều dính trên ống tràng. Quả choãi ra thẳng hàng, dài khoảng 10 – 15cm. Hạt có cánh mỏng.
Cây thường mọc ở các đình chùa, các vườn hoa và được trồng bằng cành. Các loài sứ rất dễ nhân giống bằng cách: lấy các đoạn cắt ra từ phía đầu của các cành không có lá về mùa xuân, để khô phần gốc trước khi cắm vào đất. Cũng có thể giâm cành hay cho hạt nảy mầm. Cây được trồng nhiều vì có hoa đẹp, mùi thơm, nhiều bộ phận của cây có thể dùng làm thuốc.
Công dụng của Cây Sứ Trắng
Trong y học cổ truyền, các bộ phận của Cây Hoa Sứ (còn gọi hoa đại) đều có thể dùng làm thuốc. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể sử dụng các chế phẩm được tinh chế từ loại cây kiểng quen thuộc này.
Theo các thầy thuốc, các bộ phận của hoa sứ đều có thể dùng làm thuốc như vỏ thân, vỏ rễ, hoa, nụ hoa, lá tươi và nhựa cây, nhưng sử dụng nhiều nhất là hoa. Toàn cây có chứa một loại kháng sinh thực vật là fulvo plumierin, có tác dụng ức chế sự tăng sinh và phát triển của một số vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis. Từng bộ phận khác nhau của cây có những công dụng khác nhau:
Vỏ thân, vỏ rễ: Trong vỏ thân có glucozit là agoniadin và một chất đắng là plumierit. Vỏ thân và rễ hơi có độc, vị đắng, tính mát. Dân gian sử dụng để làm thuốc tẩy xổ (dùng 8 – 15 g), nhuận tràng (dùng 3 – 5 g), chữa táo bón (thay thế cho đại hoàng) và chữa thuỷ thũng. Người suy nhược, già yếu, phụ nữ có thai, tiêu chảy không nên dùng do các thành phần trong cây có tác dụng tẩy xổ khá mạnh và hơi có độc. Cần tham vấn thầy thuốc trước khi sử dụng.
Lá sứ: Kinh nghiệm dân gian dùng lá cây sứ chữa bong gân, sai khớp, mụn nhọt.
Nhựa mủ: Thành phần chủ yếu là axít plumeric. Cũng có thể dùng nhựa mủ để tẩy xổ, nhưng liều thấp hơn nhiều so với vỏ thân, 0,5 – 0,7g/ngày dưới dạng nhũ dịch.
Hoa: Hoa sứ có công dụng tiêu đờm, trừ ho, hạ áp. Trong dân gian thường sử dụng hoa sứ phơi khô để làm thuốc chữa ho, kiết lỵ… Hoa khô có tác dụng mạnh hơn hoa tươi. Nên thu hái hoa khi vừa nở hết, phơi hay sấy khô dùng dần.
Một số bài thuốc từ Cây Sứ Trắng
Chữa cao huyết áp, bằng cách dùng như sau: Hằng ngày sử dụng 12 – 20g hoa sứ (loại khô), đem sắc (nấu) lấy nước, uống thay trà trong ngày.
Bong gân: Dùng một lá tươi rửa sạch, giã nhuyễn, trộn với một ít muối ăn đắp lên chỗ sưng. Lại dùng một ít lá tươi khác, hơ lên lửa cho héo và đắp phía ngoài rồi cố định bằng băng hoặc vải sạch. Ngày đắp 1 – 3 lần liên tục như vậy 1 – 2 ngày.
Đau nhức hay mụn nhọt: Cũng dùng lá tươi giã nhuyễn đắp vào.
Chân răng sưng đau: Vỏ rễ ngâm rượu, dùng ngậm rất hiệu quả (chú ý không được nuốt).
Ho: Sử dụng 4 – 12g hoa sứ khô, sắc lấy nước, uống thay trà trong ngày (dùng loại hoa cánh trắng, tâm điểm vàng).
caysudBài thuốc từ cây sứ
Cây sứ được trồng trong vườn nhà thường là để lấy bóng mát và cho hoa đẹp. Ngoài ra, loài cây này còn có công dụng chữa bệnh.
Điều cần lưu ý là dùng bài thuốc từ cây sứ phải có sự hướng dẫn của nhà chuyên môn.
Nhiều công dụng
Theo lương y Vũ Quốc Trung, cây hoa sứ còn có tên là cây đại, miễn chi, kê đảm tử… Hoa sứ thuộc họ trúc đào. Trong y học cổ truyền, các bộ phận của cây hoa sứ đều có thể dùng làm thuốc chữa bệnh – từ vỏ của thân cây, vỏ của rễ, hoa, nụ hoa, lá tươi và nhựa cây. Bộ phận được sử dụng nhiều nhất trong các bài thuốc là hoa sứ. Toàn cây hoa sứ có chứa chất kháng sinh thực vật là fulvo plumierin, có tác dụng ức chế sự tăng sinh và phát triển của một số vi khuẩn mycobacterium tuberculosis. Còn các bộ phận khác của cây này có những công dụng khác nhau, chẳng hạn như trong vỏ thân cây có glucozit là agoniadin và một chất đắng là plumierit; vỏ thân và rễ hơi có độc, vị đắng, tính mát, được dân gian sử dụng để làm thuốc tẩy xổ (dùng 8 – 15 gr), nhuận tràng (dùng 3 – 5 gr), chữa táo bón…
Người suy nhược, già yếu, phụ nữ có thai, người bị tiêu chảy không nên dùng vỏ thân, vỏ rễ, mủ cây sứ – do tác dụng tẩy xổ mạnh và hơi độc. Dân gian thường dùng lá cây sứ chữa bong gân, sai khớp, mụn nhọt. Nhựa cây cũng dùng để tẩy xổ, nhưng liều thấp hơn nhiều so với vỏ thân. Còn hoa thì có công dụng tiêu đờm, trừ ho, hạ áp. Trong dân gian thường sử dụng hoa sứ phơi khô để làm thuốc chữa ho, kiết lỵ… Hoa khô có tác dụng mạnh hơn hoa tươi. Nên thu hái hoa khi vừa nở hết, phơi (hay sấy) khô để dành dùng dần. Vào những năm 1960, trong nước cũng từng có công trình nghiên cứu chỉ ra hoa sứ có tác dụng hạ huyết áp.
Bài thuốc ứng dụng thực tế
Theo lương y Vũ Quốc Trung, hoa sứ có nhiều loài (khoảng 40 loài) và có nhiều màu từ trắng, vàng, hồng đỏ. Và chỉ có loài hoa cánh trắng, điểm vàng mới có tác dụng làm thuốc. Dưới đây là một số bài thuốc hay có dùng đến loài hoa sứ:
– Nếu bị ho do thời tiết thì dùng 12 gr hoa sứ khô (dùng loại hoa cánh trắng, tâm điểm vàng), sắc lấy nước, uống thay trà trong ngày.
– Với người có huyết áp cao, hằng ngày sử dụng từ 12 – 20 gr hoa sứ (đã phơi khô), đem sắc lấy nước uống thay trà trong ngày.
– Nếu bị bong gân thì dùng một ít lá sứ tươi rửa sạch, giã nhuyễn, trộn với một ít muối ăn đắp lên chỗ bị sưng, bong. Và dùng một ít lá tươi hơ trên lửa cho héo và đắp phía bên ngoài, sau đó lấy băng để băng giữ lại. Ngày đắp vài lần như vậy, làm trong vài ngày.
– Nếu bị mụn nhọt thì dùng lá sứ tươi giã nhuyễn đắp lên.
– Đau ở chân răng có sưng, thì dùng bộ phận vỏ của rễ sứ đem ngâm rượu (vài ngày), lấy rượu này ngậm (không được nuốt) rất hay.
Hiện nay có một số người thường đi nhặt hoa sứ khô, có thể là đem bán vì ở Đài Loan, Hồng Kông người ta kết hợp hoa sứ với một số loài hoa khác để làm bài thuốc hỗ trợ điều trị bệnh cao huyết áp.
Khánh Vy
6521d883eb21b8154d2f1796e85ba2f9Hoa sứ chữa bệnh
Trong y học cổ truyền, các bộ phận của hoa sứ (còn gọi hoa đại) đều có thể dùng làm thuốc. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể sử dụng các chế phẩm được tinh chế từ loại cây kiểng quen thuộc này.
Quốc hoa nhiều nước
Cây sứ có tên khoa học là Plumeria rubra L. var. acutifolia (Poir.) Bailey, thuộc họ trúc đào (Apocynaceae), nguồn gốc từ Trung Mỹ và Caribe, là quốc hoa của Nicaragua và Lào. Các tên gọi phổ biến trong tiếng Việt là cây đại, bông sứ, chămpa; ngoài ra còn có tên miễn chi, kê đảm tử. Cây sứ ra hoa có màu từ trắng, vàng tới hồng, đỏ.
Đây là loài cây bụi lớn hay cây thân gỗ nhỏ, có thể cao đến 8 – 10m, mủ trắng. Hoa thơm, nở vào mùa hè và mùa thu. Hoa chủ yếu toả hương về đêm nhằm lôi kéo các loài bướm nhân sư (họ Sphingidae) thụ phấn cho chúng. Lá mọc so le, bản to, hình bầu dục hay xoan thuôn, có mũi ngắn, không lông hoặc ít khi có lông ở mặt dưới. Hoa thường có tâm vàng, cánh hoa dày, nhuỵ nhiều dính trên ống tràng. Quả choãi ra thẳng hàng, dài khoảng 10 – 15cm. Hạt có cánh mỏng.
Cây thường mọc ở các đình chùa, các vườn hoa và được trồng bằng cành. Các loài sứ rất dễ nhân giống bằng cách: lấy các đoạn cắt ra từ phía đầu của các cành không có lá về mùa xuân, để khô phần gốc trước khi cắm vào đất. Cũng có thể giâm cành hay cho hạt nảy mầm. Cây được trồng nhiều vì có hoa đẹp, mùi thơm, nhiều bộ phận của cây có thể dùng làm thuốc.
Hương gây mùi thuốc
Theo y học cổ truyền, các bộ phận sau của cây sứ có thể dùng làm thuốc: vỏ thân, vỏ rễ, hoa, nụ hoa, lá tươi và nhựa cây, nhưng sử dụng nhiều nhất là hoa. Toàn cây có chứa một loại kháng sinh thực vật là fulvo plumierin, có tác dụng ức chế sự tăng sinh và phát triển của một số vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis. Từng bộ phận khác nhau của cây có những công dụng khác nhau:
Vỏ thân, vỏ rễ: trong vỏ thân có glucozit là agoniadin và một chất đắng là plumierit. Vỏ thân và rễ hơi có độc, vị đắng, tính mát. Dân gian sử dụng để làm thuốc tẩy xổ, nhuận tràng, chữa táo bón (thay thế cho đại hoàng) và chữa thuỷ thũng.
Nhựa mủ: thành phần chủ yếu là axít plumeric. Cũng có thể dùng nhựa mủ để tẩy xổ, nhưng liều thấp hơn nhiều so với vỏ thân, 0,5 – 0,8g/ngày dưới dạng nhũ dịch. Nhựa còn được bôi ngoài để chữa chai chân và vết loét viêm tấy
Lá cây: kinh nghiệm dân gian dùng lá cây sứ chữa bong gân, sai khớp, mụn nhọt. Hoa: chứa tinh dầu, mùi thơm đặc trưng, là bộ phận được sử dụng nhiều nhất. Theo y học cổ truyền, hoa sứ có công dụng tiêu đờm, trừ ho, hạ áp.
Người dân thường sử dụng hoa sứ phơi khô để làm thuốc chữa ho, kiết lỵ và tiêu chảy. Hoa khô có tác dụng mạnh hơn hoa tươi. Nên thu hái hoa khi vừa nở hết, phơi hay sấy khô dùng dần. Hoa sứ còn có tác dụng hạ huyết áp đã được chứng minh qua thực nghiệm. Tác dụng hạ áp, xuất hiện nhanh và tương đối bền vững, không làm giãn mạch, không tác dụng với tuần hoàn ngoại biên.
Ai kỵ hoa sứ?
Hầu hết các bộ phận của cây đều có thể dùng để làm thuốc. Cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu so sánh tác dụng sinh học của loài sứ cho hoa trắng với những loại có màu hoa khác. Với trường hợp ho đờm, tăng huyết áp, khó ngủ, dân gian thường dùng loại hoa cánh trắng, tâm điểm vàng, được trồng làm cảnh ở đình chùa, nơi công cộng.
Lưu ý, nếu bạn đang sử dụng thuốc điều trị bệnh mạn tính, cần tham khảo ý kiến thầy thuốc trước khi dùng hoa sứ. Người suy nhược, già yếu, phụ nữ có thai, tiêu chảy không nên dùng do các thành phần trong cây có tác dụng tẩy xổ khá mạnh.
BS Nguyễn Lê Việt Hùng

Hỏi đáp, bình luận, trả bài:
*địa chỉ email của bạn được bảo mật

Hot nhất
Top xink
Bộ sưu tập
Chợ xink
Thanh lý