Nhiều bà mẹ xem thường và không điều trị bệnh da, đặc biệt những bệnh da có sẵn trước khi mang thai. Tuy nhiên, bệnh da có thể ảnh hưởng đến sức khỏe và sinh mạng của mẹ và con.
Mang thai được hai tháng, chị Nguyễn Thị Hương (27tuổi, TP.HCM) đột nhiên bị nổi mụn trứng cá khắp người, thâm đen từ mặt cho tới lưng. Đồng thời chị còn bị ngứa ngoài da suốt thời gian mang thai. Điều đáng lo ngại trước đó, chị từng bị mắc bệnh chàm, nhưng điều trị nửa chừng. Các bác sĩ chẩn đoán chị mắc bệnh dị ứng do thai nghén. May mắn, em bé chào đời không bị dị tật. Hơn 50% thai phụ mang thai đều có những vấn đề về da. Tuy nhiên, do quan niệm bệnh da không ảnh hưởng đến sức khỏe mà chỉ ảnh hưởng đến thẩm mỹ nên nhiều bà mẹ đã xem thường và không điều trị bệnh da, đặc biệt những bệnh da có sẵn trước khi mang thai. ThS. BS. Lê Thái Vân Thanh - Giảng viên bộ môn Da liễu ĐH Y Dược TP.HCM cảnh báo, da và thai kỳ có mối liên hệ mật thiết với nhau. Bệnh da có ảnh hưởng đáng kể đến thai phụ. Bệnh da trong thai kỳ có thể là các bệnh da chuyên biệt do thai hoặc bệnh da do thay đổi sinh lý.
Mang thai, bệnh về da tiến triển khó lường
Theo một nghiên cứu của ThS. BS. Lê Thái Vân Thanh, bệnh da gặp rất nhiều ở thai phụ, chiếm tới hơn 50%. Trong đó có đến 11.02% thai phụ mắc cùng lúc 2 hoặc 3 bệnh da trong thai kỳ. Bệnh da chuyên biệt do thai thường nặng và có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và sinh mạng của mẹ và con. Bao gồm sẩn ngứa thai kỳ, viêm nang lông ngứa của thai kỳ, vàng da ứ mật thai kỳ... May thay, các bệnh có tiên lượng xấu cho cả mẹ lẫn con như Lupus đỏ, Pemphigoid thai kỳ, chốc dạng Herpes đều rất ít gặp. Đa số bệnh da trong thai kỳ là các bệnh da có thể gặp ở bất cứ phụ nữ bình thường. Bệnh nhiễm chiếm tỉ lệ cao nhất (22.56), nổi bật là mụn trứng cá (15.01%), kế đến là nhóm bệnh hắc tố (10.44%) và bệnh da dị ứng (6.23%). "Các bệnh này có thể xuất hiện trước khi mang thai hoặc xuất hiện trong khi mang thai, cũng đều có ảnh hưởng đáng kể đến mẹ và con và thường diễn tiến phức tạp trong thai kỳ, có thể nặng lên, có thể được cải thiện, có thể không thay đổi hoặc có thể không tiên đoán được diễn tiến khi có thai. Do quan niệm bệnh da không ảnh hưởng đến sức khỏe mà chỉ ảnh hưởng đến thẩm mỹ nên nhiều bà mẹ đã xem thường và không điều trị bệnh da, đặc biệt những bệnh da có sẵn trước khi mang thai." - Bs. Vân Thanh nói. Theo các chuyên gia da liễu, bệnh da và thai kỳ có mối liên quan mật thiết với nhau. Mối liên quan này bị tác động bởi nhiều yếu tố như văn hóa, xã hội, tiền thai, sự thay đổi nội tiết tố trong thai kỳ...
Điều trị bệnh da trước khi mang thai
Bệnh da do nhiễm bị ảnh hưởng tương đối nhiều bởi trình độ nhận thức và điều kiện kinh tế, cụ thể như: phụ nữ càng trẻ tuổi, mang thai con so trong tam cá nguyệt đầu càng dễ mắc mụn trứng cá. Trong khi đó, thai phụ lao động chân tay, có trình độ văn hóa thấp, sinh nhiều lần dễ bị các bệnh lang ben, nấm móng, ghẻ ngứa. Thai phụ càng lớn tuổi, sinh con rạ càng dễ bệnh sạm da. Còn sẩn ngứa thai kỳ gặp nhiều nhất ở lứa tuổi 30-34, có tỉ lệ tăng dần theo tuổi, trình độ văn hóa và thời gian mang thai. Bệnh chàm thể tạng gặp nhiều nhất ở lứa tuổi 20-24. Tuy không gây ảnh hưởng nặng nề đến thai kỳ nhưng những bệnh da trong thai kỳ vẫn có ảnh hưởng đến thẩm mỹ, sức khỏe của mẹ và con nên theo lời khuyên của các bác sĩ chuyên khoa, phụ nữ đang trong độ tuổi sinh đẻ phải chú trọng đến chăm sóc sức khoẻ ban đầu, cải thiện môi trường sống, giữ gìn vệ sinh nhằm giảm thiểu nguy cơ mắc các bệnh da do nhiễm. Phụ nữ càng phải ý thức và tự chăm sóc da từ chế độ ăn uống thích hợp cho sức khỏe; cho đến thận trọng trong việc dùng thuốc và mỹ phẩm; giữ vệ sinh và bảo vệ da khỏi các tác nhân gây bệnh như bụi bặm, vi trùng, ánh nắng... Đặc biệt, ánh nắng mặt trời là yếu tố thúc đẩy gây xạm da rõ rệt nhất, nhất là trên phụ nữ Việt Nam do nước ta thuộc vùng nhiệt đới. Điều quan trọng hơn nữa, phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ cần phải đi khám chuyên khoa và chữa triệt để những bệnh da nếu có trước khi có thai. Trong thai kỳ, nếu xuất hiện những biểu hiện bất thường trên da thì nên báo cho bác sĩ đang theo dõi thai biết.
.Một số biến đổi ngoài da ở phụ nữ có thai:
Phần lớn các thay đổi trên da ở phụ nữ có thai là do ảnh hưởng của hormon khi mang thai. Các thay đổi có thể là bình thường không liên quan đến bệnh lý, nhưng có thể là bất thường liên quan đến bệnh lý. Một vài thay đổi là lâu dài, nhưng có những thay đổi chỉ là tạm thời trong giai đoạn có thai hay một thời gian ngắn sau mang thai. Sau đây là một số thay đổi ngoài da thường gặp khi mang thai:
- Thay đổi sắc tố: phần lớn các thay đổi sắc tố trong thời kì có thai là tăng sắc tố gây nên những đám sạm trên da. Sự thay đổi trên da đầu tiên thường thấy là thâm đường giữa bụng, cũng có thể thâm quầng vú, núm vú, sinh dục, nách, mặt trong đùi...những vị trí trước khi có thai đã tăng sắc tố sẽ trở nên thâm hơn. Khoảng 50% các trường hợp phụ nữ mang thai sẽ xuất hiện những đám thâm ở mặt gọi là rám má (nám má hay melasma). Nám có thể ở khắp mũi, má, trán. Những phụ nữ da sáng và tiếp xúc với ánh sáng nhiều thì bị nhiều hơn. Nám da có thể giảm dần vài tháng sau sinh, nhưng đôi khi lại tồn tại vĩnh viễn.
Nguyên nhân của thâm da là do estrogen, progesterone tác động lên tế bào sắc tố gây sản xuất nhiều melanin hơn.
- Thay đổi ở lông, tóc và móng: các thay đổi ở lông, tóc trên phụ nữ có thai có thể rất nhiều hoặc rất ít. Khi mang thai, một số người thấy lông ở mặt, cánh tay, chân nhiều và đen hơn, trong khi tóc trên đầu có thể lại thưa hơn. Hiện tượng này là do rụng tóc telogen (tóc ở giai đoạn ngừng triển) Rụng tóc có thể kéo dài từ 1- 5 tháng cho đến 15 tháng sau khi sinh, tuy nhiên không cần điều trị vì tóc sẽ mọc lại hoàn toàn.
Khi mang thai móng có thể bị dòn, móng có rãnh khía hoặc tách móng ở cuối gốc móng còn gọi là bong móng.
- Thay đổi các tuyến: khi mang thai chức năng của tuyến mồ hôi tăng lên trong khi chức năng của tuyến bã lại giảm xuống. Hoạt động của tuyến giáp cũng tăng lên làm tăng hoạt động của tuyến mồ hôi. Các bệnh do ảnh hưởng của tuyến mồ hôi là miliaria (các ban do nóng) và tăng tiết mồ hôi. Các tuyến bã ở các vùng núm, tuyến Montgomery to ra trong thời kì có thai. Ngoài ra có thể gặp bệnh trứng cá trong thời kì mang thai.
Các thay đổi mô liên kết và mạch máu trong thời kì mang thai:
- Thay đổi của mô liên kết: phần lớn thay đổi của mô liên kết trong thời kì có thai là các vết rạn da, chiếm từ 50 đến 90% các trường hợp.
Các vết rạn da thường phát triển vào nửa sau của thai kì với biểu hiện là những vết màu đỏ sáng hoặc đỏ tím. Phần lớn vết rạn khu trú ở vùng bụng dưới, nhưng cũng có thể thấy ở đùi, mông, hông, vú và cánh tay. Ở người da trắng các rạn da thường có màu hồng nhạt, nhưng những người da sẫm thì các vết rạn sẽ có màu sáng hơn vùng da xung quanh. Các vết rạn thường không đau, nhưng do sự căng và duỗi ra của da nên có thể gây cảm giác ngứa và châm chích.
Các yếu tố thường liên quan đến hình thành vết rạn là những người có mẹ bị rạn da thì dễ bị hơn; những người mang thai lần trước bị rạn thì lần mang thai sau dễ bị rạn; những người mang thai tăng cân nhanh và quá mức cũng dễ bị. Ngoài ra còn liên quan đến chủng tộc. Phụ nữ châu Phi thường hay bị hơn rạn hơn những phụ nữ chủng tộc khác.
Nguyên nhân rạn da là do có sự chia cắt sợi collagen của da.
Sau khi sinh, các vết rạn thường mờ đi thành màu bạc trắng, dần teo da và lõm xuống và tồn tại rất lâu.
Về điều trị, nhìn chung những loại kem bôi chống rạn, nứt da hiện nay chưa tỏ ra hiệu quả trong dự phòng cũng như điều trị.
- Các thay đổi về mạch máu: khi có thai thì các mạch máu nhỏ và các mao mạch sẽ tăng sinh. Phần lớn các mạch máu đều to hơn để cung cấp nhiều máu hơn. Khoảng 50% phụ nữ thấy dãn mạch hình mạng nhện ở mặt, cổ. Ngoài ra cũng có thể thấy ở ngực, bàn tay hay chân. Bàn tay có thể thấy đỏ lan tỏa. Lợi đỏ và dễ chảy máu.
Khoảng 40% phụ nữ có thai có dãn tĩnh mạch chi dưới do các thay đổi của mạch máu và áp lực đè nén của thai nhi lên tĩnh mạch chậu. Hiện tượng này thường xảy ra vào 3 tháng giữa hoặc 3 tháng cuối của thai kì.
Ngoài ra, do sự thay đổi nhanh chóng, thất thường của các mạch máu nhỏ có thể gây nên hiện tượng mặt đỏ hay nhợt nhạt, nóng hay lạnh, phát ban. Trầm trọng hơn có thể thấy hiện tượng Raynaud’s.
Các bệnh da trong thời kì mang thai
Phần lớn phụ nữ khi mang thai thấy khi xuất hiện bệnh trên da đều cho rằng do có thai. Tuy nhiên, người ta thấy rằng một số bệnh da xuất hiện trong thai kì không gây ảnh hưởng gì lớn cho mẹ và thai nhi, nhưng có những bệnh da lại gây nguy hiểm cho cả mẹ và thai nhi. Dưới đây là một số bệnh da có thể gặp trong thời kì mang thai:
- Mày đay sẩn ngứa ở phụ nữ có thai (Pruritic Urticarial Papules and Plaques of Pregancy - PUPPP) hay phát ban đa dạng ở phụ nữ có thai (Polymorphic Eruption of pregnancy):
Là bệnh phát ban hay gặp nhất ở phụ nữ có thai. Thông thường bệnh hay xuất hiện lần đầu tiên vào 3 tháng cuối thai, xấp xỉ tuần thứ 35 của thai kì.
Phần lớn PUPPP xuất hiện đầu tiên từ trên các vết rạn da ở vùng bụng. Thương tổn khởi phát là các ban mày đay nhỏ, màu đỏ, hơi phù nề. Các ban này liên kết với nhau thành đám sẩn mày đay ở vùng bụng. Đôi khi trên các ban có thể thấy mụn nước nhỏ. Sau vài tuần, các đám ban sẩn có thể lan đến đùi, mông, ngực, cánh tay, lưng... và thường rất ngứa.
Rất may là tình trạng PUPPP thường không nguy hại cho bà mẹ và em bé. Bệnh thường kéo dài khoảng 6 tuần và tự khỏi sau khi sinh khoảng 1 – 2 tuần, nhưng ngứa thì có thể tồn tại lâu hơn.
Căn nguyên gây PUPPP chưa rõ ràng. Bệnh không liên quan đến tiền sản giật, các rối loạn tự miễn, các bất thường về hormon hay bất thường thai nhi. Một vài nghiên cứu cho rằng có lẽ sự căng lên nhanh chóng của thành bụng đã phá hủy các sợi liên kết gây ra phản ứng viêm. Tuy nhiên, một nghiên cứu khác lại chỉ ra rằng DNA của thai nhi nam có thể tìm thấy trong mảnh da sinh thiết từ các ban sẩn. Người ta cũng thấy, khoảng 70% phụ nữ bị PUPPP sẽ sinh bé trai và vì thế một giả thuyết mới cho là DNA của thai nhi trai đóng vai trò như chất kích thích da.
Chẩn đoán PUPPP chủ yếu dựa vào lâm sàng với sự xuất hiện đơn thuần của các ban sẩn mày đay. Không có các xét nghiệm đặc hiệu để chẩn đoán. Không cần sinh thiết da trừ trường hợp cần phải phân biệt với các tình trạng bệnh lý khác.
Điều trị PUPPP chủ yếu là điều trị triệu chứng. Dùng thuốc bôi mỡ hoặc kem steroide loại mạnh như Temovat (clobetason) hay Diplrolene (betametasone) từ 5 – 6 lần/ngày có thể hạn chế ngứa và phòng thương tổn lan rộng ra. Khi các dát sẩn đã đỡ thì có thể dùng loại thuốc bôi steroide nhẹ hơn. Các trường hợp nặng có thể dùng steroide đường uống. Uống kháng Histamin nhìn chung ít hiệu quả chống ngứa hơn là steroide, nhưng có thể sử dụng vào ban đêm để giúp giấc ngủ.
- Ứ mật trong gan (ICP):
Ứ mật trong gan là hiện tượng gây vàng da thường gặp thứ hai ở phụ nữ có thai. Tỷ lệ bệnh gặp khác nhau theo từng quốc gia. Ở Mỹ, Thụy điển và Pháp tỉ lệ ICP gặp dưới 0,5% ở phụ nữ mang thai. Tuy nhiên, ở xa mạc Araucanian Indian (Chi lê) tỉ lệ này xuất hiện từ 11,8 – 27,6%.
Biểu hiện thường gặp nhất của ứ mật trong gan là ngứa, điển hình là xuất hiện vào 3 tháng cuối thai và thường thấy ở những phụ nữ mang thai đôi, thai ba.
Ngứa bắt đầu ở lòng bàn tay, bàn chân sau đó lan ra các vùng còn lại của cơ thể. Có thể thấy các ban đỏ xuất hiện trên các vết ngứa, cào xước. Khoảng 10 – 15% các trường hợp xuất hiện vàng da, điển hình là vào tuần thứ 2 đến thứ 4 sau khi có ngứa. Tuy nhiên, sau khi đẻ cả ngứa và vàng da đều tự khỏi. Khoảng 40 -50% trường hợp ICP có thể tái phát ở lần có thai sau.
Các dấu hiệu kèm theo thường là chán ăn, mệt mỏi, phân nâu, nước tiểu thẫm và khó chịu vùng thượng vị. Nhiễm khuẩn đường tiết niệu cũng thường gặp hơn ở phụ nữ bị ICP so với những phụ nữ không bị. Thiếu VitaminK mắc phải có thể thấy ở phụ nữ bị ICP kéo dài
Căn nguyên của hiện tượng này là do tổn thương quá trình bài tiết mật gây ứ đọng những hồ muối mật trong gan. Acid mật tăng lên trong máu làm tăng lượng mật vào cơ thể, lắng đọng trong da gây ra ngứa dữ dội. Nồng độ cholesterol, triglyceride và bilirubin cũng tăng lên.
Nguyên nhân chính xác gây ra hiện tượng này chưa rõ ràng. Người ta thấy có sự liên quan đến một số yếu tố trong đó có vai trò của gen và estrogen. Những phụ nữ có mẹ hoặc chị gái bị ICP thì có nguy cơ khi có thai bị ứ mật cao hơn. Estrogen gây cản trở cho việc thông mật trong gan và progesteron cũng gây cản trở cho việc thông estrogen từ gan.
Chẩn đoán ứ mật trong gan chủ yếu dựa vào xét nghiệm lượng acid mật và các men gan. Ngứa mà không thấy các ban đỏ ngoài da tiên phát cũng giúp khẳng định chẩn đoán. Sinh thiết gan hoặc siêu âm ít khi dùng để chẩn đoán.
Ảnh hưởng đến thai nhi: do thiếu khả năng điều hòa mật, gan thai nhi cũng chịu ảnh hưởng do hiện tượng thừa mật. Tình trạng này có thể làm tăng nguy cơ thay đổi màu phân xu của đứa trẻ khi sinh, sinh non và thai chết trong tử cung. Một trong những nguy cơ nữa là cơn co dạ con trước đẻ, vì thế phụ nữ có chứng ứ mật trong gan cần được theo dõi thường xuyên.
Về điều trị: có thể dùng các sản phẩm làm mềm da, sữa tắm nhẹ nhàng để chống ngứa. Các thuốc hỗ trợ tiết mật như ursodeoxycholic acid (UDCA), cholestyramin và S - adenosylmethionin có tác dụng giảm ngứa và tiết mật khác nhau. Uống liều cao steroide cũng có thể sử dụng điều trị ICP.
- Chốc dạng herpes (Impetigo herpetiformis):
Là tình trạng hiếm gặp. Theo Thomas J Lawley có khoảng 100 trường hợp được thông báo.
Bệnh được coi là một hình thái lâm sàng của vảy nến thể mủ mặc dù người bị chốc dạng herpes thường không có tiền sử cá nhân hoặc gia đình bị bệnh vảy nến. Căn nguyên của bệnh chưa thật rõ ràng. Người ta cũng chưa rõ chốc dạng herpes có phải là bệnh riêng biệt do thai nghén hay là một hình thái vảy nến thể mủ bị nặng lên khi mang thai.
Biểu hiện điển hình thường bắt đầu vào 3 tháng cuối của thai kì. Thương tổn đầu tiên là những mảng đỏ xuất hiện ở mặt trong đùi hay bẹn, phần trước và sau cổ. Trên các mảng đỏ da là những mụn mủ nhỏ li ti chứa đầy mủ, cụm lại thành đám và có khuynh hướng lan ra xung quanh. Những mụn mủ mới xuất hiện trên nền ban đỏ gờ lên ở ngoại vi, trong khi đó những mụn mủ ở trung tâm xẹp xuống bong vảy và lành giữa. Các mụn mủ sẽ lan đến vùng thân mình và chi, nhưng rất ít khi ở mặt, bàn tay và bàn chân. Tuy nhiên các ban có thể thấy thương tổn ở niêm mạc miệng và giường móng. Các mụn mủ này không bị nhiễm khuẩn.
Hầu hết bệnh nhân có các triệu chứng toàn thân như sốt, rét run, buồn nôn, nôn, ỉa chảy và mệt mỏi. Một vài người có hiện tượng hạ calci, phosphat, albmin trong máu nhất là những người có tiền sử bị suygiảm tuyến cận giáp.
Chẩn đoán bệnh chủ yếu dựa vào lâm sàng các biểu hiện là các ban đỏ, mụn mủ. Sinh thiết ở thương tổn mới, điển hình có sự xuất hiện của bạch cầu đa nhân trung tính trong xốp bào thượng bì, gọi là mụn mủ dạng xốp của Kogoj.
Điều trị chủ yếu bằng glucocorticoide toàn thân. Prednisolon thường được bắt đầu với liều khá cao 60mg/ngày để kiểm soát sự phát ban. Ngay khi kiểm soát được bệnh, prednisolon cần hạ liều một cách thận trọng vì có nguy cơ bệnh nặng lên do hạ liều quá nhanh.
Bệnh nhân nên được theo dõi nhiễm trùng da tại chỗ và nhiễm trùng toàn thân, điều trị kháng sinh thích hợp khi có chỉ định. Cần theo dõi calci máu, albumin máu và bù kịp thời khi có biểu hiện thấp.
Ảnh hưởng đến thai nhi: chốc dạng herpes có thể gây nguy cơ cao cho thai nhi như trẻ bị đẻ non hay chết thai nên những bà mẹ bị tình trạng này cần được các thầy thuốc chuyên khoa da liễu, sản khoa và nhi khoa theo dõi chặt chẽ.
- Sẩn ngứa nang lông (pruritic folliculitis):
Bệnh lần đầu tiên được Zoberman và Farmet mô tả năm 1981, thường gặp hơn các biểu hiện trên. Một nghiên cứu thấy rằng tỉ lệ phát hiện của bệnh là 1 trên 3000 phụ nữ có thai.
Sẩn ngứa nang lông điển hình thường phát vào 3 tháng giữa của thai kì. Khởi phát là các nốt màu đỏ nhỏ không có mủ. Các thương tổn thường ở vai, nửa lưng trên, cánh tay, ngực và bụng tương tự trứng cá. Nuôi cấy thương tổn không thấy vi khuẩn. Có thể rất ngứa. Có thể tự khỏi sau sinh 2 – 3 tuần.
Căn nguyên bệnh chưa rõ ràng. Một vài nghiên cứu thấy rằng bệnh xuất hiện là do thay đổi hormon. Tuy nhiên trong một nghiên cứu lại cho thấy các phụ nữ bị tình trạng này không có sự bất thường về nồng độ hormon.
Điều trị sẩn ngứa nang lông tương tự như trứng cá mức độ nhẹ. Một số trường hợp được bôi bằng Benzoyl peroxide có hiệu quả, không cần cho kháng sinh. Uống kháng Histamin có thể có tác dụng điều trị ngứa.
Ảnh hưởng đến thai nhi: có nhiều báo cáo khác nhau về ảnh hưởng sẩn ngứa nang lông trên phụ nữ có thai. Một nghiên cứu thấy bệnh làm tăng tỉ lệ trẻ đẻ cân thấp. Tuy nhiên một nghiên cứu khác lại không thấy như vậy. Tình trạng này không làm tăng nguy cơ đẻ non hay sảy thai.
- Bệnh Pemphigoide ở phụ nữ có thai (pemphigoide gestationis):
Bệnh Pemphigoid ở phụ nữ có thai (Pemphigoid gestationis - PG) còn được gọi là bệnh herpes thai nghén (Herpes gestationis - HG) mặc dù bản chất bệnh này không liên quan đến nhiễm bất kì loại virus nào. Milton (1872) lần đầu tiên mô tả bệnh này với tên gọi là Herpes ở phụ nữ có thai (HG), tuy nhiên đến 1973 Provost và Tomasi lại xác định bệnh thuộc nhóm miễn dịch. Đây là bệnh tự miễn, có ngứa và hiếm gặp với tỉ lệ khoảng 1/7.000 đến 50.000 phụ nữ mang thai. Bệnh thường xuất hiện trong 3 tháng giữa, 3 tháng cuối của thai kì hay một thời gian ngắn sau khi sinh, xấp xỉ tuần thứ 21. Cũng có vài báo cáo nói rằng bệnh xuất hiện vào 3 tháng đầu thai kì.
PG thường bắt đầu bằng ngứa dữ dội sau đó hình thành những mảng đỏ cứng thường ở quanh rốn. Sau 2 – 4 tuần các mảng đỏ này rộng ra, xuất hiện mụn nước và mụn mủ ở xung quanh bờ, sau liên kết với nhau thành hình zic zắc, hình vòng vèo hoặc thành chùm, thành đám kiểu herpes nên mới có tên gọi bệnh herpes ở phụ nữ có thai (herpes gestationis). Các thương tổn dần lan rộng ra thân mình, lưng, mông cánh tay, bàn tay và bàn chân, nhưng không có ở mặt, trên đầu và trong miệng. Giai đoạn muộn khi có thai, bệnh có thể tự khỏi nhưng hầu hết các trường hợp (75 – 80%) bệnh sẽ bùng phát mạnh lên trước sinh. Bọng nước khỏi không để lại sẹo trừ khi có bội nhiễm.
Các ban đỏ - bọng nước cũng có thể tái phát khi bắt đầu có kinh hoặc dùng thuốc uống tránh thai. Trường hợp có thai sau, PG thường tái phát sớm và có thể trầm trọng hơn. Chỉ khoảng 8% ph��� nữ không phát triển PG trong lần có thai tiếp theo.
Nguyên nhân gây PG là do tự miễn. Kháng thể sẽ kết hợp với một típ của tổ chức liên kết nhất định trên da và gây ra đáp ứng viêm. Đáp ứng này được thể hiện bằng triệu chứng đỏ, ngứa, hình thành bọng nước.
PG được chẩn đoán chủ yếu vào sinh thiết trên vùng da cạnh thương tổn và vùng da bình thường. Các xét nghiệm đặc hiệu để phát hiện kháng thể là miễn dịch huỳnh quang trực tiếp trên mảnh sinh thiết da.
Điều trị: một số trường hợp PG nhẹ thì có thể bôi kem steroide và kháng Histamin. Tuy nhiên, các trường hợp nặng phải được uống steroide mới kiểm soát được bệnh.
Ảnh hưởng đến thai nhi: do kháng thể đi qua rau thai nên PG có thể ảnh hưởng đến thai nhi. Một báo cáo thấy khoảng 5% trẻ sinh ra từ các bà mẹ này có bị phát ban. Tuy nhiên các ban ở trẻ sơ sinh thường tồn tại trong thời gian ngắn và có thể tự khỏi mà không cần điều trị. Cũng có chứng cứ thấy phụ nữ bị PG có nguy cơ cao đẻ non. Các nghiên cứu gần đây lại cho thấy PG không tăng nguy cơ sảy thai hay thai chết khi lọt lòng.
Tóm lại khi mang thai, các bà mẹ phải đối mặt với một số thay đổi trên da hay xuất hiện một số bệnh da, trong đó một số bệnh có thể ảnh hưởng lớn ở cả người mẹ và thai nhi. Vì thế các bà mẹ mang thai cần được theo dõi cẩn thận, phát hiện và chẩn đoán sớm các biểu hiện bệnh để có được trị liệu tốt và an toàn cho cả mẹ và thai nhi.
Phụ nữ thường hay nhạy cảm với những thay đổi trong cơ thể của mình nhất là khi họ mang thai, đôi khi cũng làm cho các bà mẹ trẻ cảm thấy rất khó chịu, trong đó bao gồm cả các bệnh ngoài da trong suốt 9 tháng thai kỳ.
Giãn tĩnh mạch hình mạng nhện
Đây là hiện tượng những đường tĩnh mạch nhỏ xuất hiện ở chân, mặt hay các vùng da khác trên cơ thể. Nguyên nhân là do thay đổi lượng hormone trong thai kỳ và sự gia tăng vận chuyển máu sẽ gây áp lực lên thành mạch máu, khiến các mạch máu dưới da bị sưng nhẹ, nổi lên trên bề mặt của da. Hiện tượng này hơi mất thẩm mỹ với chị em nhưng nó vô hại và sẽ biến mất sau khi sinh.
Gần 90% phụ nữ bị rạn da khi mang thai. (ảnh minh họa)
Vết rạn da
Theo các chuyên gia thai sản thì có đến gần 90% phụ nữ bị rạn da khi mang thai. Các vết rạn nhiều nhất là ở bụng vì trong suốt thai kỳ phải thích nghi với sự phát triển của thai nhi. Ngoài ra, ngực, đùi, mông cũng bị rạn nhưng ít hơn bụng. Những vết rạn da là do các sợi đàn hồi collagen và elastin không đáp ứng kịp thời việc tăng kích thước của bụng và mông nên xảy ra tình trạng đứt, gãy các mô liên kết của da, để lại những vết sẹo màu trắng hoặc nâu.
Gương mặt đặc trưng
Nhiều phụ nữ cảm thấy mình như mang mặt nạ vì những thay đổi khi mang thai. Có khi phù nề nhưng nhiều nhất vẫn là sạm da do xuất hiện của các vết da sẫm màu hoặc nâu chủ yếu ở trên trán, má, thái dương. Bạn có thể dùng kem chống nắng trong thời gian này để hạn chế điều đó.
Rụng tóc
Sự thay đổi hàm lượng hormone có thể là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng rụng tóc ở phụ nữ mang thai. Trường hợp này hay gặp ở một số phụ nữ có tiền sử sảy thai và thai lưu khi mang thai trở lại. Điều này có thể khắc phục được sau khi sinh con.
Thay đổi hormone có thể là nguyên nhân dẫn đến rụng tóc ở phụ nữ mang thai. (ảnh minh họa)
Ngứa
Chứng bệnh phổ biến của phụ nữ mang thai mà nguyên nhân chính là do sự giãn da quá mức và sự thay đổi nội tiết tố trong cơ thể. Thông thường, nhiều người bị ngứa ở bụng, đùi, ngực và đôi khi ngứa cả ở cơ quan sinh dục. Nhưng nếu ngứa quá nhiều được hãy hỏi ý kiến bác sĩ, tuyệt đối không được tự ý uống thuốc.
Móng tay và chân
Trong thời gian mang thai móng tay và chân của phụ nữ thường cứng hơn, nó sẽ trở lại bình thường sau khi sinh. Các chuyên gia khuyến cáo, trong thời gian này phụ nữ không được để móng tay, chân dài và không nên sơn móng làm đẹp vì rất có thể sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của em bé trong bụng.
Ngứa do ứ mật Ứ mật do thai nghén xuất hiện vào 3 tháng cuối của thai kỳ do thai nhi phát triển chèn ép vào ống mật, mật không xuống được ruột ứ lại trong gan, gây ngứa và vàng da. Bệnh làm tăng tỷ lệ biến chứng cho thai, thường khỏi sau khi sinh và tái phát ở lần có thai sau. Thai phụ cần phải đi khám để được hướng dẫn điều trị. Việc đi bộ, tư thế nửa nằm nửa ngồi có tác dụng giảm triệu chứng.
Sẩn mề đay Thường xuất hiện vào 3 tháng cuối của thai kỳ với các biểu hiện sẩn phù liên kết thành mảng rộng ở vùng bụng dưới, lan ra mông, bẹn, đùi, chân, tay. Phần trên ngực, mặt và niêm mạc hoàn toàn bình thường. Bệnh chỉ thấy ở lần có thai đầu tiên và tự khỏi sau đẻ. Nhiều nghiên cứu thấy sẩn mề đay do thai nghén có liên quan đến tình trạng quá cân của người mẹ. Bệnh hoàn toàn không ảnh hưởng đến thai nhi. Bôi flucinar, mề đay sẽ thuyên giảm.
Sẩn ngứa Besnier Phát ban dạng sẩn vảy, ngứa, tập trung ở tay chân và phần trên thân mình. Bệnh xuất hiện vào giữa tuần thứ 20-34 của thai kỳ, khỏi sau khi sinh và không tái phát ở lần có thai sau. Điều trị bằng cách bôi corticoide loại mạnh như betnovate, temovate... Kết quả nghiên cứu cho thấy thuốc không ảnh hưởng đến sức khỏe của mẹ và thai.
Viêm nang lông Phát vào 3 tháng cuối của thai kỳ, biểu hiện là những sẩn mủ ở nang lông rải rác toàn thân, ngứa. Đây là một dạng của trứng cá nội tiết. Bệnh tự khỏi sau khi sinh 3 tuần, không cần điều trị
Herper thai kỳ Đây là bệnh rất hiếm, tỷ lệ mắc 1/50.000 thai phụ, biểu hiện là viêm da bọng nước gặp trong thời kỳ mang thai và sau đẻ. Bệnh xuất hiện vào tuần thứ 20-21 của thai kỳ, lúc đầu là những sẩn, mảng mề đay, mụn nước, bỏng nước ở vùng quanh rốn và đùi, sau lan ra toàn bộ bụng, lưng, ngực và chi, gồm cả lòng bàn tay, bàn chân. Nhưng mặt, đầu và niêm mạc hoàn toàn bình thường. Bỏng nước dập vỡ tạo thành hình vòng cung hoặc nhiều vòng cung, gây ngứa dữ dội. Bệnh thường phát nặng vài ngày sau đẻ và thuyên giảm sau 3 tháng, tái phát khi uống thuốc tránh thai, khi thấy kinh và lần có thai sau. Bệnh khỏi không để lại sẹo trừ khi cào xước hoặc nhiễm khuẩn thứ phát. Herpes thai kỳ rất ít ảnh hưởng đến thai nhi. Khi thấy biểu hiện ngứa và mụn nước xuất hiện ở vùng bụng, quanh rốn, thai phụ nên đi khám để điều trị kịp thời bằng thuốc ức chế miễn dịch duy trì.
Thai phụ cần chú ý để phòng chữa bởi bệnh về da có thể ảnh hưởng đến sức khỏe và sinh mạng của mẹ và con.
Nám da mặt
Trong thời gian mang thai, cơ thể phụ nữ có nhiều biến đổi, rối loạn ở các cơ quan nội tạng như: da, đường tiêu hóa, tĩnh mạch, thần kinh, trong đó biến đổi về nội tiết thường gây nhiều phiền muộn cho bà bầu, bởi nó để lại những hậu quả lâu dài trên làn da. Phần lớn, khi mang thai, da của phụ nữ trở nên xỉn màu, lỗ chân lông to, vùng chữ T bóng nhờn, môi thâm, vùng da ở gò má xuất hiện các vết nám... Nguyên nhân của hiện tượng trên là do nội tiết trong cơ thể thay đổi làm rối loạn sắc tố da. Mặt khác, khi mang thai, lượng hormone estrogen và progesteron tăng, cùng với lưu lượng máu tăng cao.
Viêm nang lông
Phát vào 3 tháng cuối của thai kỳ, biểu hiện là những sẩn mủ ở nang lông rải rác toàn thân, ngứa. Đây là một dạng của trứng cá nội tiết. Bệnh tự khỏi sau khi sinh 3 tuần, không cần điều trị
Vàng da
Bệnh ngoài da khi mang thai
Xuất hiện ở một số phụ nữ mang thai vào 3 tháng cuối kèm ngứa toàn thân, ngứa ở ngực và hai chi trên, không đau, không buồn nôn. Sau đẻ khoảng 15 ngày, vàng da biến mất. Nếu vàng da xảy ra mỗi lần có thai hoặc thứ phát do bất thường về enzim thì có thể có nguồn gốc gia đình, trong trường hợp này thai có nguy cơ sinh non nhưng hiếm khi chết trong tử cung.
Không có nhiều phương pháp điều trị, dùng thuốc chống histamin có thể giảm được ngứa. Vấn đề quan trọng là không bỏ sót những nguyên nhân gây vàng da nghiêm trọng khác khi có thai (viêm gan do virus…).
Mụn trứng cá
Hầu hết phụ nữ đều bị mọc mụn trứng cá trong thời gian mang thai và thường mọc ở mặt, lưng và ngực. Nguyên nhân là do mất cân bằng nội tiết tố gây ra, trong đó có thể do dùng thuốc tránh thai nội tiết tố trước khi quyết định có thai trở lại. Nếu có quá nhiều mụn và gây phát ban chị em nên hỏi ý kiến bác sĩ để được tư vấn và điều trị phù hợp.
Da sẫm màu ở vú và bụng
Những hạt nhỏ có tên là hạt Montgomery thực chất là những tuyến bã quanh đầu vú. Những tuyến này to lên hay tăng thể tích khi có thai, tạo nên những hạt có bề mặt tròn nhô lên trên bề mặt da sẫm màu. Vì thế quầng vú cũng như đường giữa đi từ rốn đến xương vệ trở nên sẫm màu hơn khi có thai.
Phòng ngừa bệnh ngoài da phổ biến ở bà bầu
Điều trị ngứa âm đạo khi mang thai
Ngứa vùng kín khi mang thai
Phòng chữa bệnh ngoài da
Nguyên nhân và cách điều trị bệnh mề đay
Đau bụng dưới khi mang thai
(st)