Lễ dạm là khi hai người đã yêu thương nhau, chàng trai về thưa với cha mẹ nhờ người quen thân làm mai mối đến nhà cô gái hỏi để xem bên nhà gái có ưng thuận hay không. Nếu có kết quả như ý thì làm lễ chạm ngõ hay xem mặt (coi mắt). Lễ này gộp cả các công việc của lễ Nạp thái và Vấn danh.
Lễ ăn hỏi (đính hôn ): Đây là một lễ quan trọng, có nơi coi quan trọng hơn là lễ cưới vì sau lễ này, trai gái đã chính thức đính hôn nhau. Nhà trai mang đến 4 mâm lễ vật: trầu cau, rượu trà, đùi heo cùng bánh trái. Còn các mâm khác nữa thì tùy nhà trai. Nhưng một điều quan trọng cần lưu ý là tất cả các loại lễ vật đều phải là số chẵn mới tốt., số lượng mâm càng nhiều thì biểu hiện sự khá giả của nhà trai. Thường là 8, 10, 12 mâm. Còn nữ trang cho cô dâu nhiều hay ít tùy thuộc vào khả năng kinh tế của nhà trai, nhưng đôi bông tai bắt buộc phải có và mẹ chồng là người trực tiếp đeo vào tai cô dâu trong ngày đính hôn.
Lễ cưới: Thông thường thì ngày trước đám cưới, bạn bè họ hàng sẽ qua nhà cô dâu. Cô dâu thì nên có bạn bè qua nhà vào buổi tối, coi như điều tốt lành, nghĩa là có bạn "hộ giá". Vậy là cô dâu mới sẽ không thấy cô đơn khi về nhà chồng sau này. Còn đối với chú rễ, mang liễn đến dán cửa nhà cô dâu. Khi dán xong thì về, gặp bậc cha chú chỉ cuối đầu chào, tuyệt đối không được nói gì. Tối hôm đó, nhà gái sẽ chọn sẵn giờ lành để chải đầu cho cô dâu. Thường người ta sẽ tìm một người trong họ hàng có phước để chải đầu cho cô dâu. Không thì mẹ cô dâu hoặc tự cô dâu chải cũng được (xem như mình sẽ tự quyết định cuộc sống của mình, không cần mượn phước lộc của ai ).Theo tục lệ là chải 3 cái và nói: "1 chải tới đuôi (nghĩa là tình duyên không đứt đọan), 2 chải răng long đầu bạc, 3 chải con cháu đầy nhà ", sau khi chải đầu xong, cô dâu sẽ được ăn bánh trôi nước (ở trong là nhân đường) với ý nghĩa là điền viên và mật ngọt. Sau khi ăn xong thì cô buộc phải vô phòng ngủ, không được ra phòng khách nữa. Lễ rước dâu, đến nhà gái thì chú rễ và ông mai vào trước. Tới cổng 1 bé trai hoặc gái là em hoặc cháu cô dâu bưng mâm có 2 ly nước trà mời chú rễ. Chú rễ uống nước cám ơn và trao tiền lì xì (chuẩn bị sẵn để trong bao giấy màu đỏ). Người Hoa có tục lệ là nhà gái sẽ chặn cửa không cho nhà trai vào, nhà trai phải phá cửa (dùng nhiều biện pháp như đưa lì xì, hoặc là chịu một số hình phạt của bạn cô dâu đưa ra hoặc là nếu phá được cửa thì vào thẳng luôn), chú rễ mới được vô rước dâu.
Lễ cưới nhà trai cũng mang đến như lể hỏi, nhưng phải có đầu heo và thịt đùi heo. Lễ hỏi là đùi heo trước, lễ cưới là đùi heo sau. Mà đùi phải còn dính liền đuôi heo. Đuôi phải còn 1 túm lông ở chót đuôi. Vì người Hoa quan niệm phải có tiền có hậu.
Sau khi phá cửa xong thì chú rễ sẽ được lên tận phòng cô dâu để nhận cô dâu từ tay của ba cô dâu. Trước đó, ba cô dâu sẽ đóng cái lúp đầu cô dâu lại, khi chú rễ lên thì tự tay chú rễ sẽ mở lúp ra. Xong rồi thì chú rễ rước xuống để lạy tổ tiên và rót trà cho mọi người trong nhà và họ hàng. Thứ tự là từ lớn đến nhỏ và từ bên nội đến bên ngọai.
Sau khi lạy tổ tiên và rót trà bên nhà gái xong thì chú rễ sẽ rước cô dâu về nhà trai. Theo phong tục người Hoa thì lúc cô dâu bước ra cổng nhà, sẽ có 1 người lớn tuổi cầm dù màu đỏ che nắng cho cô dâu, ý là không để cô dâu bị thần mặt trời bắt mất. Ngoài ra sẽ có thêm 1 đến 2 người bạn xách vali áo cưới và quần áo giúp cô dâu. Người cầm dù, cầm vali chỉ được cầm bằng 1 tay và không được đổi tay (không đổi chồng). Lúc cô dâu bước ra cổng cũng không được quay đầu lại nhìn, mà phải đi thẳng. Còn ba mẹ cô dâu sẽ đứng ở cổng nhà nhìn theo và sẽ không đi theo qua nhà chồng. Cũng như lúc rước dâu, ba má chú rễ cũng không đi theo. Trước khi động phòng, cô dâu và chú rễ cùng uống rượu giao bôi và dắt tay nhau bước qua 1 bếp lửa hàm ý sẽ vượt qua khó khăn thử thách. Trong phòng, cô dâu và chú rễ cùng ăn chung 1 chén chè, quan niệm là được như ý muốn. Chè có màu đỏ, vị ngọt, mặn cay hàm ý cùng chia ngọt sẻ ngọt bùi, son sắt thuỷ chung.
Tham khảo thêm
Nghi thức cưới - hỏi của người Hoa ở Bạc Liêu - Cà Mau
Người Việt gốc Hoa ở Cà Mau- Bạc Liêu luôn có ý thức giữ gìn truyền thống văn hóa cội nguồn, nhất là việc gìn giữ những phong tục lễ nghi, trong đó có nghi thức cưới hỏi.
Lễ hỏi, cũng coi như là lễ đính hôn, khi đoàn người của đàng trai đến thì không có chú rể đi cùng. Một số người ở Cà Mau nhận thấy trong buổi lễ quan trọng này mà lại thiếu nhân vật trung tâm (chú rể), chỉ có một mình cô dâu thì đơn điệu và lạnh lẽo nên đề xuất phải có sự hiện diện của chú rể. Ý kiến trên được nhiều người ủng hộ nên gần đây ở Cà Mau trong lễ đính hôn đã có mặt chú rể bên cạnh cô dâu như trong lễ hỏi của người Việt. Trong nghi lễ đính hôn nhà trai bắt buộc phải mang đến bốn mâm lễ vật gồm: trầu cau, rượu, trà, đùi heo cùng bánh trái. Các mâm khác nữa thì tùy đàng trai nhưng phải là số chẵn, số lượng mâm càng nhiều thể hiện sự khá giả của nhà trai. Thường thường là 8- 10-12 mâm. Riêng mâm quần áo cho cô dâu thì không tính vào trong số đó. Còn nữ trang cho cô dâu thì tùy thuộc vào khả năng kinh tế của nhà trai, nhưng đôi bông tai bắt buộc phải có và mẹ chồng là người trực tiếp đeo vào tai cho cô dâu .
Trong lễ này, đàng trai còn mang đến trao cho đàng gái số tiền “nợ”. Số tiền này luôn là bốn con số bốn như : 4.444.000 đồng hay 44.440.000 đồng. Thường thì đàng gái lấy hai con số giữa (như lấy 440.000 đồng hay 4.400.000 đồng ) còn thì hoàn lại cho đàng nhà trai (lúc trả lễ cũng công khai ngay sau đó), chưa bao giờ có trường hợp nhà gái lấy nhiều hơn hai con số giữa, vì người Hoa quan niệm con số 44 là con số đẹp, là sự vuông tròn, bền vững và việc trả lại con số 4 đầu và số 4 cuối là có “tiền”, có “hậu”.
Trước lễ cưới khoảng 10 ngày, đàng gái cử người qua nhà trai cung cấp danh sách tên, thứ tự vai vế của các vị lớn tuổi trong gia tộc để bên đàng trai biết, tiện việc xưng hô, giao tiếp và những vấn đề liên quan đến nghi lễ. Trước lễ cưới một ngày, chú rể mang liễn đến dán ở cửa nhà cô dâu. Khi dán xong thì về, gặp bậc cha chú chỉ cúi đầu chào, tuyệt đối không được nói gì. Tuy nhiên thời gian gần đây tục lệ này cũng không còn khắt khe như nguyên thủy. Liễn dán này gồm một tấm ngang (dán trên cửa nhà), viết chữ Hán, nội dung (ví dụ) như: Loan Phụng Hòa Minh, Thiên Trác Tri Hiệp (ý nghĩa: Nam nữ được Trời ban duyên, sắp đặt, đẹp đôi). Hai tấm dán cột đối xứng có nội dung, ví dụ như: “Vĩnh kết đồng tâm sơn hải cố” và Bách niên hảo hiệp sắc như cầm”... Tại nhà chú rể cũng dán ba tấm liễn tương tự, nhưng nội dung có khác.
Khi rước dâu, đến nhà gái thì chú rể và ông mai vào trước. Tới cổng, một bé trai (hoặc gái) là em hoặc cháu cô dâu, bưng mâm có hai ly nước trà mời chú rể. Chú rể uống nước, cám ơn và trao tiền lì xì (thường đã chuẩn bị sẵn trong bao giấy màu đỏ). Mâm lễ cưới nhà trai mang đến cũng tương tự như kỳ lễ hỏi nhưng khác ở mâm thịt đùi heo. Lễ hỏi thì luôn luôn là đùi heo trước nhưng lễ cưới phải là đùi heo sau. Mà đùi phải còn dính liền đuôi heo. Đuôi phải còn một túm lông ở chót đuôi. Vì người Hoa quan niệm phải có tiền có hậu. Người nhà trai cũng mang theo một bao thơ đựng tiền trao tận tay cho mẹ cô dâu với hàm ý biết ơn và trả công sinh đẻ, công giặt tã lót vì vậy mà có kèm theo một tấm vải may quần tặng cho bà mẹ. Nhà gái cũng đáp từ, gởi gắm đôi lời mong cha mẹ đàng trai, thương yêu, bảo ban cô dâu còn trẻ người, non dạ.
Khi cô dâu chú rể về tới cổng nhà trai thì cũng có một em nhỏ ăn mặc chỉnh tề bưng nước mời, hàm ý chúc mừng hạnh phúc. Cô dâu cũng tươi cười nâng ly, cảm ơn rồi lấy tiền ra “lì xì”, nếu chưa có sự chuẩn bị thì chú rể có thể làm thay cô dâu. Các nghi thức tiếp theo thì ngày nay nói chung cũng giống như trong lễ cưới của người Việt. Chú rể và cô dâu cũng có thể mặc côm-lê, váy cưới Tây hoặc trang phục truyền thống. Riêng trong buổi lễ đính hôn, cô dâu duyên dáng trong bộ áo dài Thượng Hải truyền thống- đây là nghi thức bắt buộc.
Nhìn chung, trong nghi thức cưới hỏi cũng như nghi lễ tôn giáo, tâm linh, trong buôn bán, hoạt động xã hội... người Hoa luôn luôn có quan niệm, phải coi trọng và giữ gìn chữ tín, làm việc gì thì cũng phải có hậu- như một luân lý đạo đức - để lại phúc đức cho đời sau.
10 phong tục lạ về cưới hỏi của người Trung Quốc
Đất nước Trung Quốc rộng lớn với hàng trăm dân tộc. Mỗi dân tộc lại có những nét văn hóa độc đáo, trong đó có điều lạ lùng về cưới hỏi, hôn nhân. Mời bạn cùng khám phá.
1. Anh em chung vợ
Hôn nhân của dân tộc Tạng rất phức tạp. Nói chung, có 3 chế độ: 1 vợ 1 chồng, 1 chồng nhiều vợ, 1 vợ nhiều chồng. Chế độ 1 chồng nhiều vợ thường xảy ra ở những gia đình giàu có và những chủ nô. Thường là chị em lấy chung 1 chồng.
Một vợ nhiều chồng chỉ nhiều anh em lấy chung 1 vợ. Gia đình kiểu này thường là mẫu hệ. Lại có chuyện nhiều bạn bè lấy chung 1 vợ. Có trường hợp 1 người bạn thân đến nhà bạn và nhà bạn thiếu người làm cho nên ở lại nhà bạn và quan hệ luôn với vợ bạn.
2. Cưới cô dâu “cao số”
Ở tỉnh Triết Giang, nếu trước ngày cưới đi xem bói, cô dâu nào không may bị bà thầy phán là có số “phá gia chi nữ” thì cô ấy sẽ không được đi kiệu về nhà chồng như các đám cưới bình thường. Trước khi cưới chừng 2,3 ngày, cô dâu phải làm ra vẻ trốn ra khỏi nhà, ra ở nhờ 1 miếu hay đền.
Cô mang theo vài bộ quần áo không lành lặn lắm, 1 cái ô cũ kỹ,1 cái làn cói có bát, đĩa cũ và 1 đôi đũa. Hành trang của cô giống như 1 kẻ đi ăn xin.
Đến ngày cưới, lúc chập choạng tối, bên nhà gái phải trốn tránh, không ai xuất đầu lộ diện. Mọi việc do phía nhà trai cáng đáng. Cô dâu thay quần áo mới, trang điểm, xách theo đồ dùng đẹp đẽ, dưới sự giúp sức của 2 cô gái do nhà trai cử đến.
Cô cùng đi bộ với 2 cô bạn gái chừng 20 tuổi rồi mới bước lên kiệu hoa và được rước về nhà trai bằng con đường tắt. Phải 126 ngày cô ở bên nhà chồng, rồi mới được thăm mẹ đẻ. Khi về nhà mình rồi, bên nhà gái mới ăn mừng, con gái mới đi lấy chồng trở về thăm mẹ. Nhà gái làm cỗ linh đình, mời bà con thân thuộc đến dự.
3. Đốt đuốc đón cô dâu
Dân tộc Đồng ở huyện Tĩnh (tỉnh Hồ Nam) đón cô dâu vào giữa đêm. Đi đón cô dâu, phía nhà trai có chừng 30 người. Mỗi người cầm 1 bó đuốc nhựa thông ra khỏi nhà, vượt núi, vượt suối đến nhà cô dâu. Họ vừa đi vừa đánh trống, thổi kèn và chơi nhạc cụ, đầy nhiệt tình vui vẻ giữa mênh mông vắng lặng.
Đến nhà cô dâu, bên nhà gái rước dâu, cô dâu quàng khăn lên đầu, cổ đeo kiềng, vai khoác vòng hoa, tay phải cầm chiếc ô bằng giấy có phết dầu trẩu (trừ tà). Cô dâu đi theo nhà trai cùng 2 cô gái phù dâu trong tiếng nhạc rộn ràng. Nếu trên đường về nhà chồng gặp 1 đám cưới khác, cô dâu phải trao đổi thắt lưng với cô dâu ở đám cưới kia để chúc mừng hạnh phúc nhau.
Khi đám rước dâu về tới cổng nhà, người ta đốt pháo mừng. Một vị trưởng lão trên 50 tuổi đứng ra làm mọi nghi thức đón cô dâu vào nhà. Sau khi làm lễ, cô dâu được mời vào phòng trong, ăn với chú rể bữa cơm đêm. Ngày hôm sau, cô dâu được mời 1 bữa thật ngon, gọi là “yến nhiều món” rồi cùng 2 cô phù dâu trở về nhà mẹ đẻ. Từ đó, chú rể thường đi lại làm khách của cô dâu. Đến khi cô dâu có mang, cô mới mang 1 chiếc xe quay sợi về nhà trai định cư.
4. Mùa xuân ném cô dâu
Vùng núi Ô Long bên bờ sông Tân An thuộc Vân Nam có mấy làng chài. Người dân ở đây biết bơi từ trong bụng mẹ. Các gia đình thường lấy vợ cho con trước Tết Nguyên đán chừng 10 ngày để đón năm mới và cô dâu mới. Người dân ở đây có tục “ném cô dâu” trong lễ cưới.
Thuyền cưới nhà trai kết hoa xanh đỏ, áp vào thuyền nhà gái, lá xanh và dây hoa rừng trắng. Ném cô dâu là 1 động tác vui vẻ, mạo hiểm và thượng võ. Chỉ cần không thận trọng là cô dâu và người ném có thể lăn xuống nước. Đó là điềm gở cho 2 gia đình và làm cho ngày Tết mất vui.
Khi cô dâu bị ném, 1 chàng trai là anh em hoặc có họ với cô sẽ ôm ngang lưng cô, 1 tay giữ phần mông, dùng sức ném cô dâu sang thuyền nhà trai trong tiếng hô “1,2,3…”. Người đỡ cô dâu ở bên nhà trai có thể là chú rể hoặc là 1 người đứng tuổi. Trong lễ ném cô dâu, thuyền nhà trai cho nổ 3 phát pháo, bên thuyền nhà gái nổ 2 phát pháo.
Sau lễ ném cô dâu, mọi người đều trở về làng, đẩy ra cho cô dâu và chú rể 1 chiếc thuyền nhỏ, có đủ thức ăn dùng trong mấy ngày, cô dâu và chú rể bơi thuyền đến 1 nơi khuất nẻo, sống với nhau mấy ngày. Họ phải trở về nhà với bố mẹ vào ngày 23 tháng Chạp để chuẩn bị Tết.
5. Tạ hôn và cưới chịu
Phía Nam Trung Quốc gần Việt Nam, người Mán có phong tục lạ là tạ hôn và cưới chịu. Các cô gái thường có 3,4 người tình. Nhưng một khi cô đã chính thức đính hôn với ai, cô sẽ cắt bỏ quan hệ với người khác. Điều lạ là đêm tân hôn, cô dâu không làm lễ động phòng với chú rể mà đến với người tình cũ để tạ ơn và hưởng đêm xuân với anh ta.
Cô gái phải đi tạ ơn mỗi người tình 1 đêm rồi trở về với chồng. Khi trai gái kết hôn, nhà trai phải mang sang nhà gái nhiều của cải và vật phẩm, tổ chức yến tiệc linh đình chiêu đãi cả bộ tộc. Nếu nhà trai không có tiền thì nhà gái cho chịu, rồi sẽ phải trả. Do vậy, có đám cưới đến khi con cái đầy đàn mới trả hết nợ.
6. Lễ cưới vào ban đêm
Các dân tộc người Trung Quốc thường tổ chức làm lễ cưới vào ban ngày, riêng dân tộc Mãn làm đám cưới vào ban đêm. Ngày cưới, nhà gái dùng xe mui đưa cô dâu về nhà chồng, nhà trai dùng chiếc xe trang trí để rước dâu. Hai bên gặp nhau giữa đường, anh ruột hoặc anh họ cô dâu bế cô dâu từ mui xe của nhà gái lên xe hoa của nhà trai. Dù giữa mùa hè nóng nực, cô dâu cũng phải mặc áo kép, chỗ vai và đầu gối còn phải độn ít bông, mang ý nghĩa đầy đặn và trung hậu.
Khi xe cô dâu về đến nhà trai, chú rể đứng đợi ở trước cổng và giương cung đặt tên, nhằm xe cô dâu vờ bắn 3 phát. Sau đó, chú rể dẫn cô dâu đến trước bàn thờ đặt giữa sân, 2 vợ chồng cùng vái trời đất. Tiếp đó, chú rể dùng cán cân hoặc roi ngựa nâng chiếc khăn trùm đầu của cô dâu, đặt trên nóc nhà bạt đã cắm sẵn từ trước, có ý nghĩa là vừa lòng thuận ý.
Lúc khều khăn trùm đầu, chú rể dùng tay xoa đầu tóc của cô dâu, tượng trưng cho đôi vợ chồng kết tóc xe tơ. Cô dâu bước qua 1 chậu lửa, lại nhảy qua yên ngựa rồi vào nhà bạt, mặt hướng về nam, làm lễ an tọa.
Làm lễ xong, cô dâu phải đi giày của mẹ chồng, tỏ ý sẽ đi theo bước chân của mẹ chồng. Tục lệ đó nói lên nguyện vọng tốt đẹp của lớp già mong con dâu mới cưới sẽ noi theo người trước ăn ở thuận hòa với láng giềng, làng trên xóm dưới. Lễ tân hôn có cỗ, cô dâu chú rể uống chén rượu tơ hồng, ăn bánh treo nửa chín nửa sống, có ý nghĩa mong muốn con cháu đầy đàn.
Đêm tân hôn, trên bàn thờ có đôi nến thắp sáng suốt đêm. Gian ngoài của nhà bạt có những người hát các khúc ca chúc mừng. Một số bạn bè hoặc láng giềng vãi những hạt đậu nành, đậu đen vào nhà, chúc vợ chồng mới làm ăn giàu có, dư dật, con đàn cháu lũ. Lễ cưới kéo dài cho đến khuya.
Rước dâu bằng thuyền
7. Tục ném bùn trong đám cưới
Dân tộc Đồng ở Trung Quốc có tục ném bùn vào nhau đúng ngày cô gái đi lấy chồng được 1 năm. Cô gái cùng 9 cô bạn chơi ném bùn với chồng và các bạn của chồng trên mảnh ruộng đầy bùn. Khi chơi đã mệt, họ nhảy ùm xuống sông, té nước vào nhau. Trong số đó, có đôi nào để ý nhau thì bơi ra xa và anh chàng trong đôi đó sẽ được mời tham gia hội ném bùn năm sau.
8. Kính chó hơn người
Thanh niên Hà Nhì Trung Quốc rất tiết kiệm lời nói khi yêu đương. Họ dùng cách tặng hoa cho nhau để nói về tình yêu. Chàng trai tặng cho cô gái 2 bông hoa, 1 vàng 1 đỏ. Cô gái tặng lại cho chàng trai 1 bông hoa đỏ hoặc vàng. Màu vàng chỉ sự lưỡng lự, màu đỏ là yêu.
Cô gái tặng bó hoa mà ở giữa có giò hoa cánh đơn, tức là cô ấy còn đơn chiếc, chưa có bạn trai chính thức. Nếu ở giữa có giò hoa cánh kép tức là cô gái đã có người yêu rồi.Gia đình người Hà Nhì rất kén con dâu. Trong gia đình cô dâu mới được cưới về, mẹ chồng được gọi là chó nhà trời.Truyền thuyết kể rằng xưa kia người Hà Nhì không biết trồng cây, cũng như dệt vải.
Cô con út nhà trời đã lấy cắp giống lúa của cha cho người Hà Nhì, dạy mọi người cách dệt vải để may quần áo. Cô út bị gọi về trời, bị biến thành con chó và bị đày xuống trần gian. Từ đó, người Hà Nhì rất kính trọng chó. Ngày Tết của người Hà Nhì thường được tổ chức long trọng. Nhưng bát cơm đầu tiên phải dành cho chó, rồi mọi người mới được vào tiệc.
9. Tình yêu cắn
Mùa thu sau vụ thu hoạch, thanh niên Mèo chưa vợ sẽ mang những gói gạo mới tặng người yêu. Thanh niên các trại tổ chức ở 1 trại nào đó 1 bữa ăn có rượu thịt linh đình. Trong bữa ăn, các đôi đã tìm dược đến nhau. Nến ưng nhau, họ cắn vào bả vai nhau.
Cắn cũng là 1 nghệ thuật, làm sao cho vết cắn hằn lên, thậm chí chảy máu. Sau đó, chàng trai buộc vào cổ tay cô gái mấy sợi dây nhỏ màu xanh và màu đen. Cô gái cũng buộc vào cổ tay chàng trai vài sợi màu đỏ. Sau đó, lễ cưới được tổ chức vào 1 ngày lành tháng tốt.
10. Tục thử giường
Vùng Lạc Dương Trung Quốc có tục thử giường trước khi cưới. Trước hôm làm lễ 1 ngày, nhà cửa các phòng phải gọn gàng sạch sẽ, nhất là buồng cô dâu chú rể. Chiếc giường được lưu ý đặc biệt. Giường, đệm, chăn, gối phải dùng mới.
Đêm hôm đó, chú rể phải mời 1 người hoặc 2 chú bé đến ngủ cùng ở giường cưới. Tục lệ này được gọi là thử giường lấy phước. Nếu không có em nhỏ thì mời bạn trai đến, nhưng nhất thiết bạn trai đó phải chưa có vợ.Người được mời đến ngủ cùng chú rể trước ngày cưới cảm thấy rất vinh dự. Nếu em nhỏ được mời đến ngủ cùng chú rể mà đang đêm có được ..bãi đái dầm thì thật là điều tốt lành.
Lễ chạm ngõ (Lễ dạm ngõ)
Nghi lễ đám cưới người Việt
Phong tục trải giường cưới cho đôi uyên ương
Phong tục cưới cổ truyền của người Việt
Chọn đội bê tráp cho lễ ăn hỏ
Lễ vật cưới hỏi Việt Nam
Lễ vật cưới hỏi cần chuẩn bị những gì
(st)