Tác dụng chữa bệnh của cây ba kích

seminoon seminoon @seminoon

Tác dụng chữa bệnh của cây ba kích

19/04/2015 02:09 AM
729

Vị thuốc Ba kích (Bản Thảo Đồ Kinh), còn gọi là Bất điêu thảo (Nhật Hoa Tử Bản Thảo), Ba cức, Diệp liễu thảo, Đan điền  lâm vũ, Lão thử thích căn, Nữ bản (Hòa Hán Dược Khảo), Kê nhãn đằng, Đường đằng, Tam giác đằng, Hắc đằng cổ (Trung Dược Đại Từ Điển),  Kê trường phong (Trung Dược Chí), Tam mạn thảo (Đường Bản Thảo), Thỏ tử trường (Trung Dược Tài Thủ Sách), Dây ruột gà (Việt Nam).

Ba kích, ba kich, bakichTác dụng:

+Chủ đại phong tà khí, cường cân cốt, an ngũ tạng, bổ trung, tăng chí, ích khí (Bản Kinh).

+Hạ khí, bổ ngũ lao, ích tinh (Biệt Lục).

+Khứ phong, bổ huyết hải (Bản Thảo Cương Mục).

+An ngũ tạng, định tâm khí, trừ các loại phong  ( Nhật Hoa Tử Bản Thảo).

+Bổ thận, ích tinh, tán phong thấp (Bản Thảo Bị Yếu).

+Hóa đờm (Bản Thảo Cầu Nguyên).

+Cường âm, hạ khí (Dược Tính Luận).

+Ôn thận, tráng dương, cường tráng cân cốt, khứ phong thấp (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

+Bổ thận âm, tráng cân cốt, khứ phong thấp (Trung Dược Đại Từ Điển).

+Bổ thận dương, cường cân cốt, khứ phong thấp (Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc Dược Điển).

+Bổ thận, tráng dương, cường cân cốt, khứ phong thấp (Thường Dụng Trung Thảo Dược Thủ Sách - Quảng Châu). 

Ba kích, ba kich, bakichChủ trị:

+Trị liệt dương [âm nuy bất khởi] (Bản Kinh).

+Trị đầu diện du phong, bụng dưới đau xuống âm hộ (Biệt Lục).

+Trị các chứng phong, thủy thũng (Nhật Hoa Tử Bản Thảo).

+Trị ngũ lao, thất thương, phong khí, cước khí, thủy thũng (Bản Thảo Bị Yếu). 

+Trị nam giới bị mộng tinh, di tinh, đầu mặt bị trúng phong (Dược Tính Luận). 

+Trị cước khí (Bản Thảo Cương Mục).

+Trị ho suyễn, chóng mặt, tiêu chảy, ăn ít (Bản Thảo Cầu Nguyên).

+Trị liệt dương, bụng dưới lạnh đau, tiểu không tự chủ, tử cung lạnh, phong hàn thấp,lưng gối đau (Trung Dược Đại Từ Điển).  

+Trị liệt dương, di tinh, không thụ thai do tử cung lạnh, kinh nguyệt không đều, bụng dưới lạnh đau, phong  thấp đau nhức, gân xương mềm yếu (Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc Dược Điển).

+Trị thận hư, lưng gối mỏi, tê bại, phong thấp đau nhức, thần kinh suy nhược, liệt dương, di tinh, tảo tinh, tiết tinh, lãnh cảm, mất ngủ (Thường Dụng Trung Thảo Dược Thủ Sách - Quảng Châu).  

-Liều dùng: 6-12g dạng thuốc thang. Có thể ngâm rượu hoặc nấu thành cao, làm thành hoàn, tán...

Ba kích, ba kich, bakichKiêng Kỵ:

+Phúc Bồn Tử làm sứ, ghét Lôi Hoàn, Đan Sâm (Bản Thảo Kinh Tập Chú).

+Những người bệnh tướng hỏa quá thịnh, âm hư hỏa vượng, đại tiện bón, tiểu đỏ, miệng đắng, mắt mờ, mắt đau, bứt rứt, khát nước, cấm dùng (Bản Thảo Kinh Sơ).

+Âm hư, tiết tinh (do hỏa động), tiểu tiện không thông, miệng lưỡi khô, táo bón, kiêng dùng(Đắc Phối Bản Thảo).

+Âm hư hỏa vượng, cấm dùng (Trung Dược Đại Từ Điển).

+Người âm hư và bệnh tim không dùng (Trung Dược Học).

+ Âm hư hỏa vượng, táo bón: không dùng (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

-Đơn thuốc kinh nghiệm:

+ Trị liệt dương, ngũ lao, thất thương, ăn nhiều, hạ khí: Ba kích thiên, Ngưu tất (sống)  đều 3 cân ngâm với 5 đấu rượu, uống (Thiên Kim Phương).

+ Trị phụ nữ tử cung bị lạnh, kinh nguyệt không đều, xích bạch đới hạ: Ba kích 120g, Lương khương 20g, Tử kim đằng 640g, Thanh diêm 80g, Nhục quế (bỏ vỏ)160g, Ngô thù du 160g. Tán bột. Dùng rượu hồ làm hoàn. Ngày uống 20 hoàn với rượu pha muối nhạt (Ba Kích Hoàn - Cục Phương).

+ Trị lưng đau do phong hàn, đi đứng khó khăn: Ba kích 60g, Ngưu tất 120g, Khương hoạt 60g, Quế tâm 60g, Ngũ gia bì 60g, Đỗ trọng (bỏ vỏ, sao hơi vàng) 80g, Can khương (bào) 60g. Tán bột, trộn mật làm hoàn, uống với rượu ấm (Ba Kích Hoàn - Thánh Huệ Phương).

+ Trị tiểu nhiều: Ích trí nhân, Ba kích thiên (bỏ lõi), 2 vị chưng với rượu và muối, Tang phiêu tiêu, Thỏ ty tử (chưng  với rượu). Lượng bằng nhau. Tán bột. Dùng rượu chưng hồ làm hoàn to bằng hạt ngô đồng lớn, mỗi lần uống 12 viên với rượu pha muối hoặc sắc thành thang uống với muối ( Kỳ Hiệu Lương Phương).

+ Trị bạch trọc: Thỏ ty tử (chưng rượu 1 ngày, sấy khô), Ba kích (bỏ lõi, chưng rượu), Phá cố chỉ (sao), Lộc nhung, Sơn dược, Xích thạch chi, Ngũ vị tử đều 40g. Tán bột, Dùng rượu hồ làm hoàn, uống lúc đói với nước pha rượu (Phổ Tế Phương). 

+ Trị bụng đau, tiểu không tự chủ: Ba kích (bỏ lõi), Nhục thung dung, Sinh địa đều 60g, Tang phiêu tiêu, Thỏ ty tử, Sơn dược, Tục đoạn đều 40g, Sơn thù du, Phụ tử (chế), Long cốt, Quan quế, Ngũ vị tử đều 20g, Viễn chí 16g, Đỗ trọng (ngâm rượu, sao) 12g, Lộc nhung 4g. Tán bột, làm hoàn 10g. Ngày uống 2-3 hoàn (Ba Kích Hoàn - Chứng Trị Chuẩn Thằng).

+ Trị mạch yếu, mặt trắng nhạt, buồn sầu ca khóc: Ba kích (bỏ lõi), Hồi hương (sao), Nhục thung dung (tẩm rượu), Bạch long cốt, Ích trí nhân, Phúc bồn tử, Bạch truật, Mẫu lệ, Thỏ ty tử, Cốt toái bổ (bỏ lông), Nhân sâm đều 40g. Tán bột, ngày uống 2 lần, mỗi lần 10-20g (Ba Kích Hoàn - Y Học Phát Minh).   

+ Trị Thận bị hư hàn, lưng và gối đau, liệt dương, tiểu nhiều, không muốn ăn uống, xương khớp yếu, đứng ngồi không có sức, bàng quang bị yếu lạnh, vùng rốn và bụng đầy trướng: Ba kích 30g, Bạch linh 22g, Chỉ xác 22g, Hoàng kỳ 22g, Lộc nhung 30g, Mẫu đơn 22g, Mộc hương 22g, Ngưu tất 22g, Nhân sâm22g, Nhục thung dung  30g, Phụ tử  30g, Phúc bồn tử 22g, Quế tâm 22g, Sơn thù 22g, Tân lang 22g, Thạch hộc 30g, Thục địa 30g, Thự dự 22g, Tiên linh tỳ 22g, Trạch tả 22g, Tục đọan 22g Viễn chí 22g, Xà sàng tử 22g. Tán bột, hoà mật làm hoàn. Ngày uống 16 - 20g với rượu nóng, lúc đói (Ba Kích Hoàn - Thái Bình Thánh Huệ Phương).

+ Trị thận bị hư lao, lưng và chân đau, chảy nước mắt sống, hoảng sợ, khát, ăn uống không tiêu, bụng ngực thường đầy trướng, tay chân tê đau, nôn ra nước chua, bụng dưới lạnh đau, tiểu són, táo bón: Ba kích 30g, Bá tử nhân  22g, Bạch linh 22g, Đỗ trọng 22g, Ngũ gia bì 22g, Ngưu tất 22g, Nhục thung dung 30g, Phòng phong 22g, Phúc bồn tử 22g, Thạch hộc 22g, Thạch long nhục 22g, Thạch nam 22g, Thiên hùng 30g, Thiên môn 40g, Thỏ ty tử  30g, Thục địa30g, Thự dự  22g, Trầm hương 30g, Tục đoạn 30g, Tỳ giải22g, Viễn chí 22g, Xà sàng tử  22g. Tán bột, trộn mật làm hoàn, ngày uống 16 -20g với rượu nóng, lúc đói (Ba Kích Hoàn - Thánh Huệ Phương).

+ Trị nguyên khí bị hư thoát, mặt xạm đen, miệng khô, lưởi dính, hay mơ, hoảng sợ, chảy nước mắt sống, tai ù như ve kêu lưng nặng, đau, các khớp xương đau nhức, âm hư, ra mồ hôi trộm tay chân không có sức, tử cung bị lạnh, kinh nguyệt không đều xích bạch đới hạ: Ba kích 90g, Lương khương 180g, Ngô thù 120g, Nhục quế 120g, Thanh diêm 60g, Tử kim đằng 500g.  Tán bột, trộn với rượu nếp làm hoàn. Ngày uống 16 - 20g với rượu hoà ít muối hoặc nước muối loãng (Ba Kích Hoàn - Thái Bình Huệ Dân Hòa Tễ Cục Phương).

+ Trị liệt dương: Ba kích 30g, Đỗ trọng 30g, Ích trí nhân 30g, Ngũ vị tử 30g, Ngưu tất 30g, Nhục thung dung 60g, Phục linh 30g, Sơn dược 30g, Sơn thù 30g, Thỏ ty tử 30g, Tục đoạn 30g, Viễn chí  30g, Xà sàng tử 30g. Tán bột. Luyện mật làm hoàn, ngày uống 12 - 16 g với rượu, lúc đói (Ba Kích Hoàn - Ngự Dược Viện).

+ Trị bụng ứ kết lạnh đau, lưng đau, gối mỏi, 2 chân yếu, khớp xương đau, chuột rútû, thận hư, liệt dương : Ba kích 18g, Đương quy 20g, Khương hoạt 27g, Ngưu tất 18g,   Sinh khương  27g, Thạch hộc 18g, Tiêu 2g.   Giã nát, cho vào bình, thêm 2 lít rượu vào, đậy kín, bắc lên bếp, nấu 1 giờ, sau đó ngâm trong nước lạnh cho nguội. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 15  -  20ml (Ba Kích Thiên - Thánh Tế Tổng Lục).

+ Bổ thận, tráng dương, tăng trưởng cơ nhục, dưỡng sắc đẹp: Ba kích (bỏ lõi )   60g, Cam cúc hoa 60g, Câu kỷ tử 30g, Phụ tử (chế) 20g, Thục địa 46g, Thục tiêu 30g. Tán bột, cho vào bình, ngâm với 3 lít rượu. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 15 -  20ml,  lúc đói (Ba Kích Thục Địa Tửu -  Nghiệm Phương)

+ Trị sán khí do Thận hư: Ba kích thiên +  Hoàng bá +  Quất hạch +  Lệ chi hạch + Ngưu tất +  Tỳ giải +  Mộc qua +  Kim linh tử +  Hoài sơn +  Địa hoàng (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

+ Trị liệt dương: Ba kích thiên + Bá tử nhân + Bổ cốt chỉ + Câu kỷ tử  + Lộc nhung + Ngũ vị tử + Nhục thung dung + Sơn thù du (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).   

+ Trị mộng tinh: Ba kích thiên + Bá tử nhân + Hoàng bá + Liên tu + Lộc giác + Phúc bồn tử + Thiên môn + Viễn chí (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

+ Trị liệt dương, di tinh, tiết tinh do Thận dương hư:  Thỏ ty tử, Nhục thung dung (Trung Dược Học).

+ Trị tiểu nhiều, tiểu không tự chủ do Thận dương hư: Bổ cốt chỉ, Phúc bồn tử (Trung Dược Học).

+ Trị gân cơ sưng đau, gân cơ suy yếu, teo cơ, khớp đau mạn tính do Thận hư:  Đỗ trọng, Ngưu tất, Tục Đoạn (Trung Dược Học).

+ Trị liệt dương, tảo tinh, tiết tinh, lưng đau, vô sinh (ở nữ) do Thận dương hư: Ba kích thiên 12g, Ngũ vị tử 6g, Nhân sâm 8g, Thục địa 16g, Nhục thung dung, Long cốt, Cốt toái bổ đều 12g. Tán bột, trộn mật làm hoàn 12g. Ngày uống 2-3 lần  (Ba Kích Thiên Hoàn – Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

+ Trị lưng đau, di tinh, hoạt tinh do Thận hư: Ba kích thiên, Đảng sâm, Phúc bồn tử, Thỏ ty tử, Thần khúc đều 12g, Sơn dược 24g. Tán bột, luyện mật làm hoàn. Mỗi lần uống 12g, ngày 2-3 lần (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

+ Trị người lớn tuổi lưng đau, chân tê, chân yếu, chân mỏi: Ba kích thiên, Xuyên tỳ giải, Nhục thung dung, Đỗ trọng, Thỏ ty tử, lượng bằng nhau, Lộc thai 1 bộ. Tán nhuyễn, trộn với mật làm hoàn. Mỗi lần  uống 8g, ngày 2-3 lần với nước ấm  (Kim Cương Hoàn - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

+ Trị phong thấp đau nhức, cước khí, phù: Ba kích, Đỗ trọng, Ngưu tất, Tục đoạn đều 12g, Tang ký sinh 10g, Sơn thù nhục 8g, Hoài sơn 16g. Sắc uống (Ba Kích Khu Tý Thang - Trung Dược Ưùng Dụng Lâm Sàng).

+ Trị huyết áp cao thời kỳ tiền mãn kinh: Ba kích thiên, Tiên mao, Hoàng bá, Dâm dương hoắc, Tri mẫu, Đương qui, mỗi thứ 20 - 28g, sắc uống (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

Hiểu thêm về Ba kích

Ba kích, ba kich, bakichTên khoa học:

Morinda officinalis How. Họ Cà Phê (Rubiaceae).

Ba kích, ba kich, bakichMô tả:

Cây thảo, sống lâu năm, leo bằng thân quấn. Thân non mầu tím, có lông, phía sau nhẵn. Cành non, có cạnh. Lá mọc đối, hình mác hoặc bầu dục, thuôn nhọn, cứng, dài 6-14cm, rộng 2,5-6cm, lúc non mầu xanh lục, khi già mầu trắng mốc. Lá kèm mỏng ôm sát thân. Hoa nhỏ, lúc non mầu trắng, sau hơi vàng, tập trung thành tán ở đầu cành, dài 0,3-1,5cm, đài hoa hình chén hoặc hình ống gồm những lá đài nhỏ phát triển không đều. Tràng hoa dính liền ở phia dưới thành ống ngắn. Quả hình cầu, khi chín mầu đỏ, mang đài còn lại ở đỉnh. Mùa hoa: tháng 5-6, mùa quả: tháng 7-10.

Rễ dùng làm thuốc thường khô, thường được cắt thành từng đoạn ngắn, dài trên 5cm, đường kính khỏang 5mm, có nhiều chỗ đứt để lộ ra lõi nhỏ bên trong.Vỏ ngoài mầu nâu nhạt hoặc hồng nhạt, có vân dọc. Bên trong là thịt mầu hồng hoặc tím, vị hơi ngọt. Ba Kích mọc hoang, phân bố nhiều ở vùng đồi núi thấp của miền núi và trung du ở các tỉnh phía Bắc. Ba Kích có nhiều ở Quảng Ninh, Vĩnh Phú, Hà Bắc, Lạng Sơn, Hà Giang, Hà Tây. Ba Kích trồng được 3 năm có thể thu hoạch. Thời gian thu hoạch thường vào tháng 10-11. Dùng cuốc đào rộng chung quanh gốc, lấy toàn bộ rễ rửa sạch. Loại rễ to, mập, cùi dầy, mầu tía là loại tốt. Rễ nhỏ, gầy, cùi mỏng, mầu trong là loại vừa.   

Ba kích, ba kich, bakichMô Tả Dược Liệu:

Ba kích thiên hình trụ tròn, hơi cong, dài không nhất định, đường kinh 0,7-1,3cm. Mặt ngoài mầu vàng tro, nhám, có vân dọc. Vỏ ngoài và trong gẫy lộ ra phần lõi gỗ và vân nứt ngang, giống như chuỗi hạt trai. Chất cứng, cùi dầy, dễ bóc. Mặt gẫy mầu tím nhạt, ở giữa mầu nâu vàng. Không mùi, vị ngọt nhưng hơi chát.

Ba kích, ba kich, bakichBào chế:

1. Dùng nước Câu Kỷ Tử ngâm Ba Kích 1 đêm cho mềm, lấy ra ngâm rượu 1 đêm, vớt ra, sao với Cúc Hoa cho vàng thuốc, dùng vải lau sạch, để dành dùng (Lôi Công Bào Chích Luận).

2. Ngâm với rượu 1 đêm cho mềm, xắt nhỏ, sấy khô, để dành dùng (Bản Thảo Cương Mục).

3.  Dùng Cam Thảo, giã dập, sắc, bỏ bã. Cho Ba Kích vào nấu cho đến khi xốp mềm, rút lõi, phơi khô. Liều lượng: 6kg Cam Thảo cho 100kg Ba Kích (Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc Dược Điển)

4. Diêm Ba Kích: Trộn Ba Kích với nước Muối (20g Muối cho 1kg Ba Kích), cho vào chõ, đồ, rút lõi, phơi khô (Trung Dược Đại Từ Điển).

5. Rửa sạch, ủ mềm, bỏ lõi, thái nhỏ rồi tẩm rượu 2 giờ, sao qua hoặc nấu thành cao lỏng [1ml = 5g] (Phương Pháp  Bào chế Đông Dược Việt Nam).

-Thành phần hóa học: 

·   Trong Ba Kích có Gentianine, Carpaine, Choline, Trigonelline, Díogenin, Yamogenin, Gitogenin, Tigogenin, Vitexin, Orientin, Quercetin, Luteolin, Vitamin B1 (Chinese Hebral Medicine).

·   Morindin, Vitamin C  (Trung Dược Học).

·   Rễ chứa Antraglycozid, đường, nhựa, Acid hữu cơ, Phytosterol và ít tinh dầu, Morindin. Rễ tươi có sinh tố C (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).

·   Trong Ba kích có Rubiadin, Rubiadin-1-Methylether (Vương Yến Phương – Thực Vật Học Báo 1986, 28 (5): 566).

·   Palmitic acid, Vitamin C, Nonadecane (Chu Pháp Dữ - Trung Dược Thông Báo q986, 11 (9): 554).

·   24-Ethylcholesterol (lý Quán – Trung Quốc Trung Dược Tạp Chí 1991, 16 (11): 675).

Ba kích, ba kich, bakichTác dụng dược lý:

1. Tăng sức dẻo dai: Với phương pháp  chuột bơi, Ba Kích với liều 5-10g/kg dùng liên tiếp 7 ngày thấy có tác dụng tăng sức dẻo dai cho súc vật thí nghiệm (Trung Dược Học).

2. Tăng  sức đề kháng: dùng phương pháp  gây nhiễm độc cấp bằng Ammoni Clorua trên chuột nhắt trắng, với liều 15g/kg, Ba Kích có tác dụng tăng cường sức đề kháng chung của cơ thể đối với các yếu tố độc hại (Trung Dược Học).

3. Chống viêm: Trên mô hình gây viêm thực nghiệm ở chuột cống trắng bằng Kaolin với liều lượng 5-10g/kg, Ba Kích có tác dụng chống viêm rõ rệt (Trung Dược Học).

4. Đối với hệ thống nội tiết: thí nghiệm trên chuột lớn và chuột nhắt cho thấy Ba Kích không có tác dụng kiểu Androgen nhưng có thể có khả năng tăng cường hiệu lực của Androgen hoặc tăng cường quá trình chế tiết hormon Androgen (Trung Dược Học).

5. Nước sắc Ba Kích có tác dụng tương tự như ACTH làm cho tuyến ức chuột con bị teo (Trung Dược Học).

6. Nước sắc Ba Kích có tác dụng làm tăng co bóp của chuột và hạ huyết áp (Trung Dược Học).

7. Không có độc. LD50  của Ba Kích được xác định trên chuột nhắt trắng bằng đường uống là 193g/kg (Trung Dược Dược lý, Độc lý Dữ Lâm Sàng).

+ Rễ Ba kích chiết xuất bằng rượu có tác dụng giáng áp huyết; có tác dụng nhanh đối với các tuyến cơ năng; tăng cường não; chống ngủ ngon dùng Ba kích nhục (Trung Dược Dược lý, Độc lý Dữ Lâm Sàng).

+ Tác dụng đối với hệ nội tiết: Cho chuột và chuột nhắt uống Ba kích thiên thấy không có tác dụng giống như chất Androgen (Trung Dược Học).

+ Đối với những bệnh nhân nam có hoạt động sinh dục không bình thường, Ba Kích có tác dụng làm tăng khả năng gioa hợp, đặc biệt đối với những trường hợp giao hợp yếu và thưa. Ba Kích có tác dụng tăng cường sức dẻo dai, mặc dầu nó không làm tăng đòi hỏi tình dục, không thấy có tác dụng kiểu Androgen. Tuy không làm thay đổi tinh dịch đồ nhưng trên thực tế có tác dụng hỗ trợ và cải thiện hoạt động sinh dục cũng như điều trị vô sinh cho những nam giới có trạng thái vô sinh tương đối và suy nhược thể lực. Còn các trường hợp tinh dịch ít, tinh trùng chết nhiều, không có tinh trùng, không xuất tinh khi giao hợp thì xử dụng Ba Kích chưa thấy kết quả (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).

+ Đối với cơ thể những người tuổi già, những bệnh nhân không biểu hiện mệt mỏi, ăn kém, ngủ ít, gầy yếu mà không thấy có những yếu tố bệnh lý gây nên và 1 số trường hợp có đau mỏi các khớp, Ba Kích có tác dụng tăng lực rõ rệt, thể hiện qua những cảmgiác chủ quan như đỡ mệt mỏi, ăn ngon, ngủ ngon và những dấu hiệu khách quan như tăng cân nặng, tăng cơ lực. Còn đối với bệnh nhân đau mỏi các khớp thì sau khi dùng Ba Kích dài ngày, các triệu chứng đau mỏi giảm rõ rệt (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).  

Ba kích, ba kich, bakichTính vị:

+Vị cay, ngọt, tính hơi ấm (Trung Dược Học).

Ba kích, ba kich, bakichQuy kinh:

+Vào kinh Tỳ và Thận (Lôi Công Bào chế Dược Tính Giải).

+Vào kinh Tâm và Thận (Bản Thảo Tân Biên).

+Vào kinh túc quyết âm Can và túc dương minh Vị (Bản Thảo Kinh Giải).

+Vào kinh Thận (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

+Vào kinh Can và Thận (Trung Dược Đại Từ Điển).

+Vào kinh Thận và Can (Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc Dược Điển).

Ba kích, ba kich, bakichTham khảo:

+”Ba kích thiên chủ đại phong tà khí và đầu diện du phong. Phong thuộc dương tà, phần lớn bốc lên trên. Kinh viết: Tà khí thịnh thì chính khí suy, Ba kích thiên có tác dụng bổ tráng dương khí mà đẩy tà khí. Khi chân khí được bổ thì tà khí yên, vì vậy nó trừ được đại phong tà khí vậy. Trị âm nuy bất khởi (liệt dương), cường cân cốt, an ngũ tạng, bổ trung, tăng chí, ích khí; dưỡng 2 kinh Tỳ và Thận , vì vậy các chứng hư tự khỏi. Trị bụng dưới đau lan đến âm hộ, hạ khí, bổ ngũ lao, ích tinh, lợi nam tử, ngũ tạng bị lao (hư yếu), thận hư, hạ khí, giáng hỏa, hỏa giáng thì thủy thăng, âm dương hỗ trợ, tinh thần yên ổn, cho nên chủ Thận khí bị thấp trướng, làm mạnh nguyên dương, trị các chứng hư, không cần làm cho nó hết mà nó hết  vậy” (Bản Thảo Kinh Sơ).

+”Ba kích thiên là thuốc chữa phần huyết của Thận kinh, bổ cho nguyên dương mà dưỡng Vị khí, các chứng hư đều tự  hết; công dụng giống vị Tỳ giải và Thạch hộc. Trường hợp nhiệt nhiều, Ba kích hợp với Hoàng bá, Tri mẫu có tác dụng cường âm; Hợp với Nhục thung dung, Tỏa dương có tác dụng tráng dương, đó là cách dùng nhiệt để tránh nhiệt, dùng hàn để tránh hàn vậy”(Bản Thảo Hối).

+”Nếu mệnh môn hỏa suy thì Tỵ Vị bị hư hàn, không thể kích thích tiêu hóa, dùng Phụ tử, Nhục quế để làm ấm mệnh môn, nhưng lại quá nhiệt, còn nếu dùng Ba kích thiên, vị ngọt ấm, bổ hỏa mà không nung đốt thủy sao? Hoặc hỏi rằng Ba kích thiên  người đời sau dùng trong thuốc hoàn, tán, không dùng trong thuốc thang là sao ?  Đáp: Ba kích thiên chính là vị thuốc hay trong thang dược, vì nó ấm mà không nhiệt,  kiện Tỳ, khai Vị, ích nguyên dương, uống vào có thể trừ được âm thủy, là dụng cụ bồi tiếp trực tiếp, có công hiệu trực tiếp và gián tiếp”(Bản  Thảo Tân Biên).

+”Ba kích thiên là thuốc chủ yếu bổ Thận, năng trị ngũ lao, thất thương, cường âm, ích tinh, khí vị cay, ấm, có tác dụng khứ phong, trừ thấp, vì vậy, phàm các chứng lưng đau, gối mỏi, phong thấp, cước khí, thủy thủng,  dùng  Ba kích rất có ích. Xem trong bài ‘Địa Hoàng Ẩm Tử, dùng  để trị phong tà, lấy Ba kích làm đầu, vì nó bổ âm vậy”(Bản Thảo Cầu Chân).

+”Ba kích với Phá cố chỉ và Hồ lô ba đều có tác dụng ôn Thận nhưng Phá cố chỉ có sở trường đặc biệt là thu nạp được Thận khí, bình được suyễn nghịch do hư hàn; Hồ lô ba có tác dụng ôn tán hàn khí bên trong, trị bụng dưới đau do nội hàn; Ba kích thiên có tác dụng phát tán, thích hợp với chứng đau nội hàn do hàn tà bên ngoài gây ra. Tuy giống nhau về ôn Thận nhưng chủ trị khác nhau” (Đông Dược Học Thiết Yếu). 

+”Dâm dương hoắc bổ thận dương, thiên nhập vào phần khí của Thận kinh, có tính táo; Ba kích thiên bổ Thận dương, thiên nhập vào phần huyết của Thận kinh, không có tính táo. Nhục thung dung bổ Thận dương mà nhuận táo, thông tiện; Ba kích thiên bổ Thận dương mà có tác dụng trừ phong hàn, thấp tý. Ba kích thiên trị các chứng cước khí do:

1. Nội nhân: Thận dương hư, thủy thấp đình trệ.

2. Ngoại cảm phong hàn

Ba kích bổ Thận tráng dương công hiệu không giống vị Uy linh tiên “ (Trung Dược Dược lý Độc lý Dữ Lâm Sàng).

+ Ba kích có tác dụng giống với Dâm dương hoắc, cũng có tác dụng làm mạnh gân xương, tán phong thấp. Nhưng Ba kích vị cay kèm ngọt, tính hoà hoãn hơn, tác dụng của nó chuyên về hạ tiêu, đa số dùng trong trường hợp lưng đau, mỏi gối, cước khí, còn tác dụng đối với trị chứng dương nuy thì không bằng Dâm dương hoắc  (Thực Dụng Trung Y Học).



Công dụng của Ba Kích theo y học hiện đại:


1. Tăng sức dẻo dai: Trên thực nghiệm Ba kích với liều 5-10g/kg dùng liên tiếp 7 ngày thấy có tác dụng tăng sức dẻo dai cho súc vật thí nghiệm.


2. Tăng sức đề kháng: Ba kích có tác dụng tăng cường sức đề kháng của cơ thể đối với các yếu tố độc hại.
Đối với người già hoặc những bệnh nhân không biểu hiện mệt mỏi, ăn kém, ngủ ít, gầy yếu mà không thấy có những yếu tố bệnh lý gây nên và một số trường hợp có đau mỏi các khớp, Ba kích có tác dụng tăng lực rõ rệt thể hiện qua những cảm giác chủ quan như giảm mệt mỏi, ăn ngon, ngủ ngon và những dấu hiệu khách quan như tăng cân nặng, tăng cơ lực. Đối với bệnh nhân đau mỏi các khớp thì sau khi dùng Ba kích dài ngày cho thấy có hiệu quả.


3. Chống viêm: Các kết quả nghiên cứu ở chuột cống trắng đã cho thấy Ba kích có tác dụng chống viêm rõ rệt.


4. Đối với hệ thống nội tiết: Các thí nghiệm trên chuột lớn và chuột nhắt cho thấy Ba kích không có tác dụng kiểu Androgen nhưng có thể có khả năng tăng cường hiệu lực của Androgen hoặc tăng cường quá trình chế tiết hormon Androgen.
Đối với nam giới có hoạt động sinh lý yếu Ba kích có tác dụng làm tăng khả năng giao hợp (đặc biệt đối với những trường hợp giao hợp yếu, ít). Ba kích còn có tác dụng tăng cường sức dẻo dai, mặc dù nó không làm tăng nhu cầu sinh lý, không thấy có tác dụng kiểu Androgen. Tuy không làm thay đổi tinh dịch đồ nhưng trên thực tế có tác dụng hỗ trợ và cải thiện hoạt động sinh lý cũng như điều trị vô sinh cho nam giới có biểu hiện vô sinh tương đối và suy nhược cơ thể. Đối với các trường hợp tinh dịch ít, tinh trùng chết nhiều, không có tinh trùng, không xuất tinh khi giao hợp thì sử dụng Ba kích chưa thấy có kết quả.
Rễ Ba kích chiết xuất bằng rượu có tác dụng hạ huyết áp, có tác dụng nhanh đối với các tuyến cơ năng, tăng cường hoạt động của não, giúp ngủ ngon.
5. Nước sắc Ba kích có tác dụng tương tự như ACTH làm cho tuyến ức chuột con bị teo, ngoài ra còn có tác dụng làm hạ huyết áp.
7. Không có tính độc, LD50 của Ba kích được xác định trên chuột nhắt trắng bằng đường miệng là 193g/kg.

Công dụng dược lý theo Y học cổ truyền:


Tính vị-Quy kinh:
Rễ Ba kích vị ngọt, cay, hơi ấm không độc Vào kinh Tỳ, Tâm, Can và Thận.
Tác dụng:
Bổ thận, tráng dương, ích tinh, cường cân cốt, khứ phong thấp.
Bổ thận âm, khứ phong thấp (Trung dược ®ại từ ®iển), an ngũ tạng, bổ trung, ích khí, tăng chí, (Bản kinh), bổ huyết hải (Bản thảo cương mục), an ngũ tạng, định tâm khí, trừ các loại phong (Nhật Hoa Tử bản thảo), hóa đờm (Bản thảo cầu nguyên), cường âm, hạ khí (Dược tính luận).
Chủ trị:
Trị thận hư, liệt dương, di tinh, mộng tinh, tảo tiết, lãnh cảm, lưng gối mỏi, tê bại, phong thấp, thần kinh suy nhược, mất ngủ, tiểu không tự chủ, tử cung lạnh, kinh nguyệt không đều, (Trung dược đại từ điển, Bản kinh), đầu mặt bị trúng phong, ho suyễn, chóng mặt, tiêu chảy, ăn ít (Bản thảo cầu nguyên)
Liều dùng: 6-12g dạng thuốc thang, có thể ngâm rượu hoặc nấu thành cao, làm thành hoàn, tán thành bột...

Tài liệu tham khảo:
Bộ y tế (2002), Dược điển Việt Nam, NXB Y học lần xuất bản thứ 3
Võ Văn Chi (1997), Từ điển cây thuốc Việt Nam, NXB Y học
Đỗ Tất Lợi (2005), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, NXB Y học

So sánh rượu Ba Kích Rừng lâu năm và Ba Kích Trồng: Chỉ cần nhìn qua màu nước giữa Ba Kích Rừng và Ba Kích trồng là biết ngay.

Rượu ba kích - món quà vùng cao




 Ai một lần tới thăm Tây Giang (Quảng Nam) mà không uống rượu ba kích thì xem như chưa tới huyện lỵ miền núi này. Nhưng thú vị hơn là còn được khám phá cách làm rượu, cách thưởng thức rượu của người dân nơi đây.

........... ..........................ba kích rừng

Ba Kích Trồng mầu nước vàng nhạt ............Ba Kích RừngQuảng Ninh Đen đậm đặc


Thẩu rượu ba kích thơm nồng - Ảnh: T.Ly

Từ trung tâm huyện lỵ miền núi Tây Giang chúng tôi ngược về xã Lăng khi trời đã nhá nhem tối. Tới nơi sớm hơn dự định vậy mà bà con đã đến chật nhà sàn, những cái nắm tay mừng rỡ, rồi tiếng cười nói, hỏi thăm ríu rít… Giữa ánh lửa bập bùng, trong tiếng cồng chiêng rộn rã, thiếu nữ người Cơ Tu với đôi má đỏ hây hây rót từng ly rượu mời khách. Mùi thơm nồng của cơm lam, của thịt xông khói… cùng với men rượu ba kích khiến khách phương xa nghe lòng mình ấm lại.

Rượu ba kích, mới nghe tên thôi đã khiến con người ta tò mò muốn “nếm tận miệng, uống tận gốc”. Tò mò cũng đúng vì đây là loại rượu đặc trưng của vùng đất Tây Giang, lại có tên gọi khá kêu “ba kích”.

Rượu ba kích có từ bao giờ? Chỉ biết rằng từ xưa đồng bào Cơ Tu vẫn hay vào núi đào củ ba kích về ngâm rượu uống. Ba kích mọc nhiều ở vùng đồi núi phía tây tỉnh Quảng Nam. Bộ phận để dầm rượu là rễ ba kích, không mùi, vị ngọt nhưng hơi chát.

Theo kinh nghiệm của người dân, ba kích có rễ to, mập, cùi dày, màu tía là loại tốt. Dùng cuốc đào rộng xung quanh gốc, lấy toàn bộ rễ. Rễ sau khi đào lên rửa sạch đất, loại bỏ rễ con, phơi gần khô dùng chày gỗ đập nhẹ cho bẹp phần thịt (tránh giập nát) để lộ lõi nhỏ bên trong, rồi phơi hoặc sấy tiếp cho thật khô sau đó cắt thành từng đoạn ngắn.

Người ta thường dùng ba kích khô hầm cùng thịt gà hoặc sắc nước uống. Nhưng hầu như gia đình nào cũng có một thẩu rượu ba kích trong nhà. Ba kích ngâm cùng rượu gạo hoặc nếp, chừng hơn 30 ngày là có thể uống được, để càng lâu rượu càng đặc, càng ngọt. Nét đặc thù của rượu ba kích là khi ngâm lâu, rượu chuyển sang màu xanh tím, uống có mùi thơm ngậy. Đặc biệt, loại củ này hầu như chỉ ngâm được một lần.

........................................rượu ba kích

Củ Ba Kích Rừng . Sau khi ngâm 3 ngày sẽ chuyển thành màu đen thẫm,nước đen không nhìn thấy củ.Củ ba Kích trồng nước nhạt,vàng,nâu... có thể nhìn thấy cả củ


Thiếu nữ Cơ Tu rót rượu mời khách - Ảnh: T.Ly

Rượu ba kích uống ít hay nhiều đều không đau đầu, ngủ sáng dậy trong người tươi tỉnh hẳn, vì vậy cả nam lẫn nữ đều có thể dùng được. Ban đầu dân làng cứ rót thẳng từ hũ ra uống. Về sau, vào mùa rét người dân bày ra hâm nóng trước khi uống, mùa hè khí trời nóng quá lại đổ cả hũ vào xô nước đá, rót ra uống lạnh ngắt mà thấy thật thú vị.

Tác dụng của rượu ngâm ba kích thì không phải bàn cãi, đã có tiếng từ xa xưa. Nên nếu theo giờ giấc, liều lượng nhất định thì rượu ba kích không những là đặc sản mà còn là vị thuốc bổ, giúp con người ta cường gân cốt, bổ thận, tráng dương - ba tác dụng trên chính là nguyên nhân người ta đặt tên cho loại rượu này.

Đêm vùng cao chớm lạnh khi về khuya. Ánh lửa thiêng vẫn còn bập bùng, tiếng cồng chiêng vẫn còn rộn rã, vậy mà đã đến lúc kẻ đi người ở lại. Mọi người cùng trao nhau ly rượu ba kích như lời chúc sức khỏe thay cho lời chia tay.

Rời xa vùng Tây Giang, có lẽ trong mỗi chúng tôi không chỉ nhớ đến những ngôi nhà sàn nho nhỏ, đến cồng chiêng hay đôi má đỏ hồng e lệ của thiếu nữ tuổi đôi mươi… mà còn nhớ hoài hương vị ba kích đặc trưng của núi rừng.


Ba kích - bổ thận tráng dương


Y học cổ truyền có rất nhiều cây thuốc, vị thuốc giúp tăng cường sức khỏe tình dục của nam giới. Ba kích (ba kích thiên) là một trong những cây thuốc mà nếu bạn biết kết hợp với các vị thuốc, bảo đảm quý ông sẽ sung mãn mỗi khi “gặp gỡ”.

Tác dụng chủ yếu của ba kích là cường gân cốt, bổ thận ích tinh, ôn thận tráng dương. Chủ trị các bệnh liệt dương, di tinh, mộng tinh, chóng mặt, tiêu chảy, gân xương mềm yếu. Ba kích có tác dụng làm tăng khả năng giao hợp đối với những người yếu và sinh hoạt tình dục ít.

Ba kích nấu thịt trai: Ba kích 30g, thịt trai 300g, gừng tươi, gia vị, nước đủ dùng. Thịt trai rửa sạch, thái miếng. Ba kích rửa sạch. Cho tất cả vào nồi nước đã đun sôi, rồi vặn nhỏ lửa hầm khoảng 3 giờ, nêm gia vị là dùng được. Ăn cùng với cơm. Món ăn có công dụng chữa trị liệt dương, giúp bổ thận tráng dương.

Rượu ba kích: Ba kích đã bỏ lõi 40g, thục địa, nhục thung dung, ngũ vị tử 20g, nhân sâm 10g, 1 lít rượu trắng. Các vị thuốc trên rửa sạch, sấy khô rồi cho vào 1 lít rượu trắng ngâm trong vòng 7 ngày có thể dùng được. Những người bị liệt dương, thiểu năng tình dục nên ngâm và sử dụng loại rượu thuốc này.

Ba kích hầm ngưu tiên (dương vật bò): Ngưu tiên 1 cái, ba kích 10g, gia vị, nước đủ dùng. Ba kích cho vào túi vải, buộc kín cho vào nồi cùng với ngưu tiên, đổ nước hầm tới khi ngưu tiên chín nhừ, nêm gia vị là dùng được. Ăn liên tục trong vòng 1 tháng. Món ăn có công dụng bổ thận tráng dương.        


Rễ cây ruột gà - Ba kích

Cây Ruột gà là một trong số cây đặc sản của vùng Á Đông, trong đó có Việt Nam, tên khoa học Radix Morindae officinalis. Rễ cây ruột gà là vị thuốc Ba kích trong Đông y. Xin giới thiệu với bạn đọc một số tóm lược về Ba kích để ứng dụng vào thực tế.



@ TRÊN NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM


* Tác dụng trên huyết áp: Tuỳ thuộc vào nống độ của thuốc thử và cách thử (tiêm hay uống), nói chung liều cao mới có tác dụng hạ huyết áp. Trên thực nghiệm tác dụng hạ huyết áp chưa rõ, trên người có lẽ phải ở tình trạng mà theo Y học cổ truyền là dương hư, Ba kích mới thể hiện được tác dụng hạ áp.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phần nào trùng hợp với kết quả của các tác giả khác đã tiêm cho chó với liều Ba kích có nồng độ cao trên 20% mới gây hạ huyết áp. Trong cơ chế tác dụng nên quan tâm hiện tượng ức chế tim ếch, cô lập gây giảm biên độ co bóp (P < 1%) ở nồng độc 20% và cao hơn. Hình ảnh điện tâm đồ cũng cho thấy cần thiết xem xét lại giá trị của tác dụng hạ huyết áp của Ba kích. Mặc dầu huyết áp giảm (có tính chất tạm thời), nhưng thí nghiệm mạch ếch cô lập chỉ mới cho kết quả có xu hướng dãn mạch mà thôi (dãn chưa rõ).

Vậy cần thiết thăm khám và có chẩn đoán bệnh của những bệnh nhân này (theo đông y) để có hướng nghiên cứu mới. Chúng tôi có ý kiến đề nghị không nêu tác dụng hạ áp của Ba kích một cách chung chung như một số tài liệu đã công bố.

* Trong bào chế công nghiệp có cần thiết loại bỏ lõi Ba kích không?


Tuy rằng công trình mới nghiên cứu sơ bộ nhưng vẫn có giá trị gợi ý rằng lõi cũng có thành phần hoá học và tác dụng dược lý tương đối rõ rệt. Do đó vẫn cần lưu ý tham khảo nội dung y học cổ truyền, đồng thời không nên xem thường nội dung đó. Không vội nghĩ rằng lõi gỗ không có tác dụng gì dẫn đến việc sử dụng thiếu thận trọng. Có lẽ tác dụng "gây phiền" trong y học cổ truyền khi nói đến các loại lõi là tác dụng ảnh hưởng trên hệ tim mạch? Do đó trước mắt vẫn nên tôn trọng kinh nghiệm cổ truyền là loại bỏ lõi khi dùng Ba kích theo cổ truyền. Hoặc hạn chế tối đa khối lượng lõi trong thuốc.

Chúng tôi thấy:

Thành phần Ba kích Fe = 7,5mg%, Ca < 1mg%, Cu < 1mg%, Zn = 0.

Phần lõi chúng tôi đã phát hiện thêm các hoá chất khác mà từ trước chưa thấy nói đến. Phần nghiên cứu này cần được nghiên cứu sâu thêm. Các công trình nghiên cứu về xơ của củ Sắn dây (Cát căn) ở nước ngoài đã lưu ý chúng ta cần quan tâm đến các phần "ít quan trọng" này của dược liệu để ứng dụng vào công tác chế biến các dược liệu có lõi như thiên môn, mạch môn...

* Hai loại tím và trắng: Trên sắc ký lớp mỏng loại tím cho số vết và độ đậm của vết  nhiều hơn loại trắng. Khi nước ngoài thu mua họ chỉ mua loại màu tím. Nên nghiên cứu sâu hơn sự khác biệt hai loại này và tìm nguyên nhân vì sao để có những biện pháp hữu hiệu cho ta luôn có Ba kích tím, góp phần tiêu chuẩn hoá dược liệu nói chung và đáp ứng yêu cầu xuất khẩu nói riêng.

* Tác dụng làm tăng nhóm - SH tự do:
Đây được xem là một phát hiện mới về tác dụng chống oxy hoá của Ba kích, cần được nghiên cứu thêm để khẳng định và phát huy.

Thí nghiệm ở chuột nhắt trắng uống nước sắc phần thịt Ba kích cho thấy hàm lượng nhóm – SH tự do g/01ml huyết tương cho thấy:

- SH lô chứng  2,70  0,85 g/01ml huyết thanh chuột 

- SH lô trị 3,60  0.31 g/01ml huyết thanh chuột   

P < 1%    

Có thể tạm sơ bộ giải thích do sự có mặt của selen trong Ba kích.

Cần lưu ý việc bảo quản Ba kích vì ta đã thấy Ba kích của Viện đặc sản rừng tác dụng khác biệt (mạnh hơn) so với Ba kích Viện Đông y. Tham khảo tài liệu của các tác giả khác, ta thấy nói riêng về thành phần vitamin C chỉ có ở loại tươi, không có ở loại khô.

@  TRÊN LÂM SÀNG

Qua nhận xét sơ bộ của chúng tôi nên lưu ý:

- Chỉ mới thấy rõ hơn tác dụng của Viên Ba kích là đã "kích" sức bền "dẻo dai" trong hoạt động tình dục. Tuy rằng hiện tượng này còn tản mạn, nhưng cũng đã gợi ý cho chúng ta cần có công trình nghiên cứu về "phân biệt tính chất kích dục khác nhau của các vị thuốc nằm trong nhóm tráng dương để chữa liệt dương của Đông y" để sử dụng chúng an toàn, hợp lý hơn và thu được kết quả mong muốn.

- Để dùng Ba kích an toàn và hợp lý hơn cần lưu ý không tuỳ tiện kích dục:

a. Đặc tính của Ba kích tuy nằm trong nhóm ôn thận nhưng Ba kích có tác dụng phát tán, thích hợp chứng đau nội hàn do hàn tà từ bên ngoài gây nên.

b. Kiêng kỵ: Phàm thận hư, nóng trong, hoặc hư hoả bốc lên mắt kém, kèm nhèm cấm dùng! Người nóng, khát nước, miệng đắng, táo bón, nước tiểu đỏ xẻn đều cấm dùng.





Uống rượu ba kích: Lợi bất cập hại!


Ba kích tính hàn, có tác dụng cố tinh, làm chậm xuất tinh. Người bị khó xuất tinh khi uống ba kích sẽ gây rối loạn cường dương, thậm chí bị ngộ độc, tử vong.


 Uống rượu ba kích: Lợi bất cập hại!
 

Anh Nguyễn Văn Minh (42 tuổi ở Hải Dương) tự dưng thấy kém hứng khởi và khó xuất tinh khi “yêu vợ”. Ngại đi khám anh đã nghe theo một người bạn mua ba kích về ngâm uống. Lúc đầu anh thấy hài lòng vì cải thiện được đáng kể chuyện “vợ chồng” của anh nhưng sau đó anh yếu dần, không thể “xuất” nổi. Đi khám anh mới biết mình bị rối loạn cương dương và việc tự ý dùng ba kích đã khiến bệnh nặng thêm, nhiều khả năng anh sẽ bị liệt dương vĩnh viễn.

Không chỉ bị bệnh, ông Huỳnh Xuân Tùng (61 tuổi, trú thôn Hội Yên, xã Ân Thạnh, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định) đã tử vong trên đường đi cấp cứu vì uống rượu ngâm ba kích. Ngoài ra, cùng uống với ông còn có 20 người khác cũng bị ngộ độc.

BS.TTND Nguyễn Xuân Hướng, nguyên Chủ tịch Hội Đông y Việt Nam cho biết, ba kích không dùng để bổ dương, mà là một vị cố tinh, làm xuất tinh chậm. Mặc dù nó giữ được khả năng cương cứng lâu nhưng không phải bổ dương. Vì Ba kích có tính hàn nên phải sao với rượu để giảm bớt tính hàn, vào khí và huyết cho nhanh.

Do là cố tinh nên nếu người nào bị khó xuất tinh, uống ba kích vào lại càng khó thêm. Đặc biệt, lõi rễ cây ba kích có chất độc, khi chế biến không bỏ lõi sẽ gây hại tim. Hơn nữa, ba kích có tính hàn nên nếu uống nhiều, đàn ông dễ bị “Tào tháo đuổi”.



Tác dụng chữa bệnh của bắp cải
Hoàn ngọc-cây thuốc quý
Tác dụng của cây nhân trần
Công dụng của cây chè dây
Tác dụng chữa bệnh của tỏi
Công dụng của cây ngô đồng -



(st)



Hỏi đáp, bình luận, trả bài:
còn một tác dụng nữa mà ít người nói tới ... Dùng củ ba kích nấu nước cho chị em uống da sẽ rất đẹp,Nhưng nhớ phải phân biệt giữa ba kích tự nhiên và ba kích trồng ... chị em xem thêm tại www.bannamlimxanh.vn
hơn 1 tháng trước - Thích (9) - Trả lời
*địa chỉ email của bạn được bảo mật

Hot nhất
Top xink
Bộ sưu tập
Chợ xink
Thanh lý