Suy dinh dưỡng do thiếu protein nǎng lượng (thường gọi là suy dinh dưỡng) là tình trạng thiếu dinh dưỡng quan trọng và phổ biến ở trẻ em nước ta. Biểu hiện của suy dinh dưỡng là trẻ chậm lớn và thường hay mắc bệnh nhiễm khuẩn như tiêu chảy và viêm đường hô hấp, trẻ bị giảm khả nǎng học tập, nǎng suất lao động kém khi trưởng thành.
Tầm quan trọng của suy dinh dưỡng:
Làm thế nào để biết trẻ bị suy dinh dưỡng?
Tại sao trẻ bị suy dinh dưỡng?
Trẻ dưới 5 tuổi có nhu cầu dinh dưỡng cao để phát triển cơ thể. Để đáp ứng nhu cầu đó, cần cho trẻ ǎn uống đầy đủ theo lứa tuổi. Trẻ dưới 6 tháng tuổi cần được bú mẹ hoàn toàn. Sữa mẹ là thức ǎn lý tưởng của trẻ nhỏ. Từ tháng thứ 7 trẻ bắt đầu ǎn thêm ngoài sữa mẹ. Từ tháng tuổi này, thực hành nuôi dưỡng trẻ có ý nghĩa quan trọng đối với suy dinh dưỡng. Nhiều bà mẹ chỉ cho trẻ ǎn bột muối, thức ǎn sam (dặm) thiếu dầu mỡ, thức ǎn động vật, rau xanh, hoa quả. Đây là những tập quán nuôi dưỡng chưa hợp lý cần được khắc phục. Mặt khác, để đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng, trẻ cần được ǎn nhiều bữa trong ngày vì trẻ nhỏ không thể ǎn một lần với khối lượng lớn như trẻ lớn hoặc người lớn. Điều này có liên quan đến vấn đề chǎm sóc trẻ.
Người mẹ bị suy dinh dưỡng: Người mẹ trước và trong khi mang thai ǎn uống không đầy đủ dẫn đến bị suy dinh dưỡng và có thể đẻ ra đưa con nhẹ cân, còi cọc. Đứa trẻ bị suy dinh dưỡng từ trong bào thai sẽ dễ bị suy dinh dưỡng sau này. Người mẹ bị suy dinh dưỡng, ǎn uống kém trong những tháng đầu sau đẻ dễ bị thiếu sữa hoặc mất sữa, do đó đứa con dễ bị suy dinh dưỡng.
Các bệnh nhiễm khuẩn như viêm đường hô hấp, tiêu chảy, các bệnh ký sinh trùng như nhiễm giun, sán: Đây là tình trạng hay gặp ở nước ta. Chế độ nuôi dưỡng không hợp lý khi trẻ bệnh là một nguyên nhân dẫn đến suy dinh dưỡng sau mắc bệnh ở trẻ dưới 5 tuổi.
Ngoài chǎm sóc về ǎn uống, đứa trẻ cần chǎm sóc về sức khoẻ (tiêm chủng, phòng chống nhiễm khuẩn), chǎm sóc về tâm lý, tình cảm và chǎm sóc về vệ sinh. Môi trường sống ở gia đình bị ô nhiễm, sử dụng nguồn nước không sạch để nấu ǎn, tắm giặt cho trẻ, sử lý nước thải, phân, rác không đảm bảo là những yếu tố dẫn đến suy dinh dưỡng.
Những đứa trẻ nào dễ bị suy dinh dưỡng?
Trẻ không được bú sữa mẹ hoặc không đủ sữa.
Trẻ đẻ nhẹ cân (<2500g), trẻ đẻ sinh đôi, sinh ba.
Trẻ ở gia đình đông con, điều kiện vệ sinh kém, gia đình không hoà thuận.
Trẻ hiện đang mắc các bệnh nhiễm khuẩn như: bệnh sởi, tiêu chảy hay viêm đường hô hấp ...
Cần làm gì để phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em tại mỗi gia đình?
1.Chǎm sóc ǎn uống của phụ nữ có thai để đạt mức tǎng cân 10- 12 kg trong thời gian có thai. Khám thai ít nhất 3 lần, tiêm đủ 2 mũi phòng uốn ván.
2.Cho trẻ bú sớm trong nửa giờ đầu sau khi sinh, bú hoàn toàn sữa mẹ trong 6 tháng đầu và tiếp tục cho bú đến 18- 24 tháng.
3.Cho trẻ ǎn bổ sung (ǎn sam, dặm) từ tháng thứ 7. Tô màu đĩa bột, tǎng thêm chất béo (dầu, mỡ, lạc, vừng). ǎn nhiều bữa.
4.Thực hiện phòng chống thiếu vi chất dinh dưỡng: Phụ nữ có thai uống viên sắt/ acid folic hàng ngày. Trẻ em 6- 36 tháng uống vitamin A liều cao 2 lần một nǎm. Phòng chống các bệnh nhiễm khuẩn (tiêu chảy, viêm đường hô hấp). Thực hiện tiêm phòng đầy đủ. Chǎm sóc và nuôi dưỡng hợp lý trẻ bị bệnh.
5.Phát triển ô dinh dưỡng trong hệ sinh thái VAC (vườn, ao, chuồng) để có thêm thực phẩm cải thiện bữa ǎn gia đình. Chú ý nuôi gà, vịt để trứng, trồng rau ngót, đu đủ, gấc.
6.Phấn đấu bữa ǎn nào cũng có đủ 4 món cân đối. Ngoài cơm (cung cấp nǎng lượng), cần có đủ 3 món nữa là: rau quả (cung cấp vitamin, chất khoáng và chất xơ); đậu phụ, vừng lạc, cá, thịt, trứng (cung cấp chất đạm, béo) và canh cung cấp nước và các chất dinh dưỡng bổ sung giúp ǎn ngon miệng.
7.Thực hiện vệ sinh môi trường, dùng nguồn nước sạch, tẩy giun theo định kỳ, rửa tay trước khi ǎn và sau khi đi đại tiểu tiện. Đảm bảo vệ sinh thực phẩm, thức ǎn không là nguồn gây bệnh.
8.Thực hiện gia đình hạnh phúc, có nếp sống vǎn hoá, nǎng động, lành mạnh. Có biểu đồ tǎng trưởng để theo dõi sức khoẻ của trẻ. Không có trẻ suy dinh dưỡng, không sinh con thứ ba.
Đề phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em
Chế độ ăn cho trẻ suy dinh dưỡng
1. Nguyên nhân dẫn đến suy dinh dưỡng ở trẻ em
Thường là do tổng hợp từ nhiều yếu tố:
- Do dinh dưỡng: Nuôi trẻ không đúng phương pháp khi mẹ thiếu hoặc mất sữa, cho trẻ ăn bổ sung không đúng cả về số lượng và chất lượng, nguyên nhân quan trọng nhất hay gặp là do bà mẹ thiếu kiến thức dinh dưỡng hoặc không có thời gian chăm sóc con cái.
- Do ốm đau kéo dài: Trẻ mắc các bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp, tiêu hóa nhiều lần, biến chứng sau các bệnh viêm phổi, sởi, lỵ…
- Do thể tạng dị tật: Trẻ đẻ non, suy dinh dưỡng bào thai, các dị tật sứt môi, hở hàm ếch, tim bẩm sinh.
- Do điều kiện kinh tế xã hội: Suy dinh dưỡng là một bệnh của nghèo nàn và lạc hậu, có liên quan đến kinh tế, văn hóa, dân trí. Đây là mô hình hệ bệnh tật đặc trưng của các nước đang phát triển.
Muốn biết trẻ có bị suy dinh dưỡng hay không các bà mẹ cần phải theo dõi cân nặng thường xuyên cho trẻ trên biểu đồ phát triển. Nếu thấy 2-3 tháng liền trẻ không tăng cân cần phải đưa trẻ đi khám bác sĩ để tìm hiểu nguyên nhân.
Theo tiêu chuẩn cân nặng/tuổi người ta chia suy dinh dưỡng làm 3 độ:
- Suy dinh dưỡng Độ I: Trọng lượng còn 90% so với tuổi
- Suy dinh dưỡng Độ II: Trọng lượng còn 75% so với tuổi
- Suy dinh dưỡng Độ III: Trọng lượng còn dưới 60% so với tuổi.
2. Những dấu hiệu của trẻ bị suy dinh dưỡng
- Không lên cân hoặc giảm cân
- Teo mỡ ở cánh tay, thịt nhẽo.
- Teo nhỏ: mất hết lớp mỡ dưới da bụng.
Da xanh, tóc thưa rụng dễ gãy, đổi màu.- Ăn kém, hay bị rối loạn tiêu hóa: ỉa phân sống, ỉa chảy hay gặp.
- Thể nặng: Có phù hoặc teo đét, có thể biểu hiện của thiếu vitamin gây quáng gà, khô giác mạc đến loét giác mạc. Hiện nay thể nặng rất hiếm gặp.
3. Các bà mẹ cần phải làm gì khi trẻ bị suy dinh dưỡng
Với thể vừa và nhẹ (độ I và độ II): Điều trị tại nhà bằng chế độ ăn và chăm sóc.
- Chế độ ăn: Cho trẻ bú mẹ theo nhu cầu, bất cứ lúc nào kể cả ban đêm.
- Nếu mẹ thiếu hoặc mất sữa: Dùng các loại sữa bột công thức theo tháng tuổi, hoặc dùng sữa đậu nành (đậu tương).
- Đối với trẻ từ 6 tháng tuổi trở lên cho trẻ ăn bổ sung theo tháng tuổi nhưng số bữa ăn phải tăng lên, thức ăn phải nấu kỹ, nấu xong ăn ngay.
- Tăng đậm độ năng lượng của bữa ăn bằng cách cho tăng thêm enzym (men tiêu hóa) trong các hạt nảy mầm để làm lỏng thức ăn và tăng độ nhiệt lượng của thức ăn. Cụ thể là: có thể dùng giá đậu xanh để làm lỏng thức ăn cho trẻ, tức là có thể tăng lượng bột khô lên 2-3 lần mà độ lỏng của bột không thay đổi. Cứ 10g bột cho 10g giá đậu xanh giã nhỏ lọc lấy nước.
4. Những loại thực phẩm nên dùng cho trẻ suy dinh dưỡng
- Gạo, khoai tây.
- Thịt: gà, lợn, bò, tôm, cua, cá, trứng.
- Sữa bột giàu năng lượng: Theo hướng dẫn cụ thể của Bác sĩ.
- Dầu, mỡ.
- Các loại rau xanh và quả chín.
5. Chế độ ăn với trẻ suy dinh dưỡng nặng (độ III)
Cho nhiều bữa trong ngày.
- Tăng dần calo.
- Dùng sữa cao năng lượng: Theo chỉ định và tư vấn trực tiếp của Bác sĩ
Trẻ cần được ăn bổ sung theo các chế độ ăn giống như trẻ bình thường. Số lượng một bữa có thể ít hơn nhưng số bữa ăn nhiều hơn trẻ bình thường.
Những trẻ có suy dinh dưỡng nặng kèm theo tiêu chảy hoặc viêm phổi phải đưa vào điều trị tại bệnh viện.
6. Ngoài chế độ ăn còn cho trẻ ăn bổ sung thêm một số Vitamin và muối khoáng
- Các loại Vitamin tổng hợp.
- Chế phẩm có chứa sắt chống thiếu máu.
- Men tiêu hóa (nhưng phải dùng theo chỉ định của thầy thuốc).
7. Chăm sóc trẻ bị suy dinh dưỡng
- Trẻ phải được vệ sinh, tắm rửa sạch sẽ.
- Phải giữ ấm về mùa đông, phòng ở thoáng mát về mùa hè, đầy đủ ánh sáng.
8. Một số mẫu thực đơn phục hồi trẻ suy dinh dưỡng tại nhà (SDD độ I và II)
Các bạn có thể tham khảo và áp dụng một số thực đơn sau để phục hồi trẻ suy dinh dưỡng tại nhà:
a. Trẻ dưới 6 tháng: Bú sữa mẹ theo nhu cầu của trẻ. Chú ý chăm sóc dinh dưỡng cho Bà mẹ để mẹ có đủ sữa nuôi con (Bà mẹ cần ăn đủ, ngủ tốt, làm việc nhẹ nhàng). Trường hợp mẹ không đủ sữa mà phải dùng các sản phẩm thay thế sữa mẹ thì phải có chỉ định của Bác sĩ.
b. Trẻ từ 6 – 12 tháng:
Cho trẻ ăn nước cháo xay trộn sữa như trên nhưng tăng thêm lượng thịt, gạo và rau củ, trường hợp trẻ không thích ăn cháo trộn sữa thì dùng sữa cao năng lượng pha với nước sôi để ấm theo hư��ng dẫn mỗi ngày uống 500ml và cho ăn bột hoặc cháo xay 3 -4 bữa/ngày, trẻ ăn ít có thể tăng số bữa lên, dùng nước giá đậu xanh để làm lỏng thức ăn: 10g giá đậu xanh/10g bột (giá đậu xanh giã nhỏ lọc lấy nước nấu bột).
c. Trẻ 13 -24 tháng:
6h: 150 – 200ml sữa cao năng lượng
9h: Cháo thịt + rau: 200ml (1 bát ăn cơm)
- Gạo tẻ: 30g (1 nắm tay)
- Thịt nạc: 50g (hoặc cá, tôm, cua: 50g, trứng gà: 1 quả)
- Dầu: 10ml (2 thìa cà phê)
- Rau xanh: 20g (2 thìa cà phê)
12h: Sữa: 200ml
14h: Chuối tiêu: 1 quả hoặc đu đủ 1 miếng
17h: Cháo thịt (cá, tôm, trứng) + rau + dầu
Nếu trẻ đang bú mẹ vẫn phải tiếp tục cho bú và thời gian cho bú kéo dài từ 18 – 24 tháng. Khi cai sữa vẫn nên cho trẻ ăn thêm sữa bò hoặc sữa đậu nành.
d. Trẻ 25 – 36 tháng:
7h: Sữa cao năng lượng: 200ml
11h: Cơm nát + thịt (cá, trứng, tôm...) + canh rau.
Cơm: 2 lưng bát (70g gạo), thịt: 50g (hoặc trứng: 1 quả), rau: 100g, dầu (mỡ): 5g
14h: Cháo + thịt + rau + dầu: 200ml
Gạo tẻ: 30g (1 nắm tay), thịt nạc: 50g (hoặc cá, tôm, cua: 50g, trứng gà: 1 quả), dầu: 10ml (2 thìa cà phê), rau xanh: 20g (2 thìa cà phê).
17h: Cơm nát + trứng (thịt, cá, tôm...) + canh rau
20h: Hỗn hợp bột dinh dưỡng: 200ml, hoặc súp: khoai tây thịt + rau + dầu (mỡ): 1 bát con.
Súp khoai tây gồm có khoai tây: 100g (1 củ to), thịt (gà, bò, lợn): 50g, bắp cải: 50g, dầu (mỡ): 1 thìa cà phê. Ăn thêm các loại quả chín theo nhu cầu của trẻ.
Chế độ dinh dưỡng cho trẻ suy dinh dưỡng thấp còi
Hầu hết các bậc cha mẹ thường chỉ quan tâm đến cân nặng của cn, ít khi chú ý đến chiều cao của trẻ, ngay cả khi sinh các nữ hộ sinh cũng chỉ cần trẻ mà ít khi đo chiều dài của trẻ là bao nhiêu. Chiều dài của trẻ khi sinh cũng rất quan trọng, nó phản ánh tình trạng dinh dưỡng sau này của trẻ.
Có 3 giai đoạn quan trọng để trẻ phát triển chiều cao:
- Giai đoạn bào thai: nếu trẻ bị suy dinh dưỡng bào thai hoặc sinh non tháng nhẹ cân thấp chiều cao thì nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi rất cao.
- Giai đoạn trẻ dưới 2 tuổi: chiều cao lúc trẻ 2 tuổi bằng 1/2 chiều cao lúc trẻ trưởng thành, vì vậy nuôi trẻ dưới 2 tuổi là vô cùng quan trọng.
- Giai đoạn tuổi tiền dậy thì: 10 – 13 tuổi ở trẻ gái, 13 - 17 tuổi ở trẻ trai. Vì vậy, nếu trẻ gái sau khi hành kinh, trẻ trai sau 17 tuổi sẽ rất khó có thể cao được nữa.
Suy dinh dưỡng thấp còi là gì?
Đây là tình trạng trẻ chậm phát triển chiều cao, chỉ đạt dưới 90% so với chiều cao chuẩn. Suy dinh dưỡng (SDD) thấp còi phản ánh tình trạng suy dinh dưỡng mãn tính kéo dài. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), hiện nay có khoảng 29,5% số trẻ em dưới 5 tuổi ở các nước đang phát triển bị SDD thấp còi, với khoảng 154 triệu trẻ em. Hầu hết các trường hợp thấp còi xảy ra trước khi trẻ được 3 tuổi. Trẻ em bị thấp còi sau này trở thành người lớn cũng có chiều cao thấp. Hơn nữa, những người bị SDD thấp còi thường có nguy cơ tử vong cao, dễ mắc bệnh hơn, lao động kém hơn so với người bình thường.
Theo mô hình chu trình dinh dưỡng - vòng đời do Tiểu ban dinh dưỡng của Liên Hợp Quốc đưa ra tại Hội nghị dinh dưỡng về những thách thức cho thế kỷ XXI thì trẻ em thấp còi về sau trở thành người lớn cũng có chiều cao thấp. Trẻ em gái bị SDD thấp còi lớn lên trở thành người phụ nữ thấp còi và khi đẻ con thì nguy cơ SDD thấp còi cho con cao hơn.
Những trẻ có nguy cơ bị suy dinh dưỡng thấp còi
- Trẻ sinh non.
- Trẻ bị suy dinh dưỡng bào thai: trẻ sinh đủ tháng nhưng có cân nặng sơ sinh < 2.500g.
- Trẻ bị dị tật bẩm sinh.
- Trẻ bị rối loạn tiêu hóa kéo dài.
- Trẻ bị nhiễm khuẩn đường hô hấp và tiêu hóa.
- Trẻ bị còi xương.
- Trẻ được nuôi dưỡng không hợp lý.
Hậu quả của suy dinh dưỡng thấp còi:
- Ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất, trí tuệ của trẻ.
- Ảnh hưởng đến chất lượng nòi giống.
- Trẻ dễ bị béo phì do thấp chiều cao.
Làm gì để giúp trẻ?
Chiều cao của trẻ do nhiều yếu tố quyết định, trong đó có 3 yếu tố chính:
- Di truyền.
- Chế độ dinh dưỡng.
- Luyện tập thể dục thể thao.
Như vậy, có 2 yếu tố có thể tác động và can thiệp được đó là chế độ dinh dưỡng và luyện tập thể dục thể thao.
Về chế độ dinh dưỡng:
- Cung cấp đủ năng lượng theo lứa tuổi của trẻ, trẻ không thể cao được nếu chế độ ăn thiếu năng lượng, bằng cách ăn đủ các bữa cháo, bột, cơm… hàng ngày theo tháng tuổi, bổ sung đầy đủ dầu mỡ trong các bữa ăn.
- Ưu tiên các thức ăn chứa nhiều chất đạm: thịt, cá, tôm ,cua, trứng, sữa.
- Chọn các thực phẩm giàu canxi, sắt, kẽm: cũng chính là các thức ăn có nguồn gốc động vật, giàu chất đạm: trứng, sữa, thủy sản, thịt… đặc biệt các loại thức ăn có chứa nhiều kẽm như: thịt gà, thịt cóc, con hàu... vì thiếu kẽm là một trong những nguyên nhân gây chậm phát triển chiều cao ở trẻ em.
- Nên cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng và tiếp tục bú đến 2 tuổi, nếu mẹ thiếu hoặc mất sữa thì phải được bổ sung sữa bột công thức theo tháng tuổi, khi trẻ đã lớn vẫn phải duy trì uống sữa hàng ngày vì sữa là nguồn cung cấp canxi chính trong bữa ăn của trẻ, nhất là trẻ còn nhỏ chưa ăn được nhiều tôm, cua, cá. Hơn nữa canxi trong sữa lại dễ hấp thu hơn trong các loại thực phẩm khác.
- Ăn nhiều rau xanh quả chín, cũng giúp trẻ phát triển chiều cao vì rau quả cung cấp nhiều vi chất dinh dưỡng, hơn nữa lại phòng ngừa táo bón giúp trẻ hấp thu tốt các vi chất như: canxi, sắt, kẽm…
Chế độ ăn cũng cần bổ sung các vi chất dinh dưỡng dưới dạng thuốc như: vitamin D, vitamin A, canxi, kẽm, sắt… theo hướng dẫn của bác sĩ.
- Điều trị kịp thời các bệnh còi xương, rối loạn tiêu hóa khi trẻ mắc phải.
Chế độ luyện tập thể dục thể thao cũng đóng một vai trò quan trọng trong phát triển chiều cao của trẻ: các môn thể thao giúp trẻ phát triển chiều cao: bơi lội, đạp xe, chạy, chơi cầu lông… khi trẻ đã lớn chọn các môn thể thao phù hợp với tuổi của trẻ. Như vậy, để trẻ lớn lên khỏe mạnh thông minh, các bà mẹ không chỉ quan tâm đến cân nặng của trẻ mà còn phải quan tâm đến chiều cao, vì chiều cao chỉ có từng giai đoạn để trẻ phát triển, nếu bỏ qua sẽ không thể lấy lại được.
Chế độ ăn để phòng bệnh còi xương và suy dinh dưỡng cho trẻ
Đối với trẻ, chế độ ăn uống là vô cùng quan trọng để cơ thể trẻ hấp thu và phát triển một cách khỏe mạnh nhất
Nhờ bác sỹ tư vấn giúp em. Em có 01 bé gái , lúc mới sinh được 3.3 kg, nay đã 6 tháng mà bé chỉ nặng được 6.8 kg, cao 66 cm. 2 tháng liền bé không tăng cân từ tháng thứ 5, tháng 6. Em đi làm từ khi bé được 04 tháng, vì đi làm nên 04 tháng em đã cho bé tập ăn bột Hipp. Bé được 6 tháng em bắt đầu cho bé ăn bột mặn, thời gian cho bé ăn như sau:
Sáng 06h00 uống sữa công thức (Anfalac A+): 90ml
09h00: Uống sữa 90ml
10h00: Ăn 01 hộp váng sữa
11h30: Ăn bột
13h00: Ăn nước ép trái cây hoặc da ua
15h00: Ăn bột
17h00: Ăn bánh dành cho bé
Bé không thích uống sữa công thức, em đã đổi nhiều sữa nhưng bé uống rất ít, đút thìa cho bé nhưng bé cũng không thích nhưng cho bé ăn bột bé ăn rất ngon miệng. Em không dám cho bé ăn bột nhiều sợ tiêu hóa của bé chưa hoàn thiện. Hiện nay 2 răng dưới của bé đang nhú lên. em đang cho uống canxi ống mỗi ngày 01 ống vào buổi sáng.
Nhờ bác sỹ tư vấn giúp em làm sao cho bé tăng cân và bé chịu uống sữa ngoài, chế độ ăn như vậy có đạt cho bé chưa?
Em nấu cháo hạt sen cho bé ăn + 01 muổng thịt + 01 muỗng rau.
Nhìn bề ngoài bé rất nhanh nhẹn, cứng cáp, ngồi chưa vững nhưng rất thích ngồi. Bé nhà em có bị suy dinh dưỡng không?
(Nguyen Thi Thanh My - nguyenthithanhmy@...)
Tìm hiểu về phòng chống suy dinh dưỡng ở trẻ em
Suy dinh dưỡng ở trẻ
Thai nhi bị suy dinh dưỡng
Nguyên nhân, cách phòng và điều trị bệnh kiết lỵ ở trẻ em
Thực phẩm chứa nhiều kẽm nhất
Dinh dưỡng cho bé mới ốm dậy thế nào là hợp lý
(st)