Nhìn qua các quảng cáo cho các sản phẩm hoặc dịch vụ "Thương hiệu Việt", dường như những nỗ lực quảng bá vẫn là tập trung sự chú ý, bắt mắt, thú vị chứ chưa thực sự đi vào bản chất của vấn đề là tạo chỗ đứng trong tâm trí khách hàng tiềm năng.
Với nhiều Doanh nghiệp Việt, việc "tạo một chỗ đứng trong tâm trí khách hàng" có vẻ không được quan tâm bằng "tạo chỗ đứng trên thị trường".
Điều này có lẽ bắt nguồn từ nhận thức coi thị trường là một khu vực địa lý cụ thể với một số người tiêu dùng nào đó.
Trong khi đó, cách đây khoảng 25 năm, các công ty lớn quốc tế đã coi thị trường chỉ là một khối nặng cỡ 2 ký, rộng vài chục inch vuông - trí não con người.
Và với nhận thức đó, họ không tiếc tiền của nhằm tạo ra những chiến dịch quảng cáo để đưa thương hiệu của mình thâm nhập và cố thủ được trong tâm trí khách hàng mục tiêu.
Chính vì vậy, họ đã phải dùng một vũ khí tối thượng - định vị, tức là một quy trình nhằm tạo một chỗ đứng vững chắc trong tâm trí khách hàng. Trên thực tế, nhiều thương hiệu quốc tế đã "ăn sâu bám rễ" trong tâm thức khách hàng Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ. Trong khi đó, quảng cáo của các doanh nghiệp trong nước (kể cả một số công ty lớn) vẫn còn nhiều lỗ hổng như:
- Chọn phương tiện quảng cáo không thích hợp: nhiều doanh nghiệp kinh doanh hàng công nghiệp nhắm đến khách hàng là doanh nghiệp khác (B2B) vẫn chạy quảng cáo trên truyền hình trong giờ vàng (giữa Phim). Thực tế khảo sát của TNS cho thấy, đa phần đối tượng xem phim truyền hình không phải là giới chủ (tức là những đối tượng khách hàng tiềm năng của các Doanh nghiệp B2B).
Hơn nữa, hầu hết các Doanh nghiệp Công nghiệp vẫn cho rằng, cứ tham gia tài trợ, ủng hộ các chương trình truyền hình trực tiếp là một phương án PR hiệu quả nhất. (Trong một bài phỏng vấn mới đây, Bà Chi Lan cũng đã khẳng định, trách nhiệm xã hội của Doanh nghiệp không phải là việc tham gia vào việc ủng hộ các quỹ tương trợ xã hội, mà trước hết phải là trách nhiệm cung ứng cho xã hội những sản phẩm hữu ích, có chất lượng và bảo vệ môi trường sống).
- Tần suất quảng cáo: Nhiều Doanh nghiệp vẫn thường trực câu trả lời “không có/ không còn tiền để Quảng cáo” nghĩa là vẫn “làm quảng cáo” theo kiểu tự phát, lấy “mỡ nó rán nó”, không hề dựa vào một chiến lược dài hạn. Còn tiền thì còn Quảng cáo, hết tiền thì không làm gì cả. Thực tế, khi ta đuối sức hoặc ngừng quảng cáo thì đối thủ với tiềm lực tài chính mạnh làm ngược lại, nhờ đó họ luôn dẫn điểm khá xa.
- Thông điệp quảng cáo: mơ hồ, dài dòng hoặc quá thô sơ. Ví dụ như trên tấm biển lớn chỉ có tên nhãn hiệu và một câu khẩu hiệu trừu tượng gây khó hiểu hoặc hình nền quá màu mè làm "loãng" hình ảnh thương hiệu trong khi lại có địa chỉ và số điện thoại không ai đọc và nhớ nổi khi đang chạy trên đường.
Một lời khuyên rất hay của các Chuyên gia tư vấn là “hãy học theo những Doanh nghiệp thành công trên thương trường” - bạn có thể nhìn cách mà các thương hiệu Quốc tế hàng đầu đã làm trên thị trường Việt Nam, và áp dụng những gì phù hợp.
- Nội dung: Nội dung Quảng cáo của các Doanh nghiệp Việt thường bị đánh giá là yếu, tản mát và không có mục tiêu rõ ràng, thiếu điểm nhấn và do đó, kém hiệu quả trong việc thâm nhập vào tâm trí khách hàng mục tiêu.
Lý do chính của vấn đề này vẫn là, các Doanh nghiệp Việt đã không có được một chiến lược phát triển thương hiệu chiến lược quảng bá đồng bộ, dài hạn, với một thông điệp độc đáo và xuyên suốt. Hầu hết các doanh nghiệp, vì mục tiêu tiết kiệm chi phí, chỉ quan tâm tới việc tìm Nhà cung cấp các hình thức quảng bá, chứ không phải là Một Đại lý Quảng cáo (Advertising Agency).
Kết quả là, các chương trình quảng cáo của Doanh nghiệp vẫn có thể đạt hiệu quả trong ngắn hạn (nếu có nhà cung cấp tốt); nhưng không hề có sức mạnh tổng lực trong dài hạn, và vì vậy, thương hiệu của doanh nghiệp vẫn dễ dàng bị knock-out bởi các đối thủ nhiều kinh nghiệm và có sức mạnh tổng lực.
Trong kỷ nguyên của công nghệ thông tin và thương mại điện tử ngày nay, mỗi ngày, mỗi giờ có hàng ngàn lượng thông tin khác nhau cùng tìm cách thâm nhập vào trí não con người.
Vì vậy, để thông điệp và hình ảnh thương hiệu của Doanh nghiệp có thể “bám rễ vào tâm trí khách hàng mục tiêu” không còn chỉ là một câu khẩu hiệu; mà nên và cần được xem như là mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt động phát triển thương hiệu của Doanh nghiệp. Để làm được điều này, Doanh nghiệp cần lưu ý các vấn đề sau:
- Thông điệp chuyển tải: Càng ngắn gọn, súc tích và mang tính cá biệt càng dễ được nhận biết. Những từ kiểu “tốt nhất, đẹp nhất, hiệu quả nhất…” không được coi là một thông điệp hiệu quả, vì không mang tính khác biệt.
- Hình ảnh: Nếu không đủ chi phí trang trải cho những chiến dịch truyền thông lớn, với mỗi SKU là một thương hiệu độc lập; doanh nghiệp nên tập trung chỉ vào một hình ảnh thương hiệu xuyên suốt (kỳ kế hoạch là 1-5 năm) để chuyển tải qua tất cả các hình thức quảng bá. Nên lưu ý: Một hình ảnh xuyên suốt không đồng nghĩa với một mẫu quảng cáo duy nhất.
Để các Mẫu quảng cáo vừa mang tính thời sự (qua các giai đoạn khác nhau), vừa có tính hệ thống, xuyên suốt và đồng bộ; doanh nghiệp nên cộng tác với một Agency duy nhất, ít nhất là trong lĩnh vực Thiết kế - Tạo mẫu và Thiết kế bộ nhận diện.
- Màu sắc: Cùng với hình ảnh, màu sắc là yếu tố đặc biệt quan trọng trong tiến trình nhận thức của con người. Vì thế, tất cả các thương hiệu thành công đều đặc biệt chú trọng tới yếu tố Nhất quán về màu sắc trong các hình thức quảng bá thương hiệu. Với những Doanh nghiệp vừa và nhỏ, tập trung vào màu sắc sẽ có hiệu quả hơn là hình ảnh.
Điểm đáng lưu ý: Rất nhiều Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam chọn màu sắc (logo) theo nguyên tắc phong thuỷ, phù hợp và kỳ vọng “lộc-phát” cho Doanh nghiệp. Tuy nhiên, điều này có một điểm yếu là: Chỉ có Năm hành “KIM-MỘC-THUỶ-HOẢ-THỔ” ứng với hàng triệu người, hàng trăm ngàn Doanh nghiệp. Vì vậy, có thể thấy hầu hết các Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam có logo màu NHŨ KIM - XANH CÔBAN - XANH TÍM – ĐỎ - VÀNG.
Áp lực để trở nên khác biệt tăng gấp bội trong tình thế này. Giải pháp: Màu sắc theo phong thuỷ không phải là không hợp lý; nhưng hãy lưu ý, trong bảng màu, chỉ với 4 màu cơ bản, Xanh Vàng Đỏ Đen và Trắng (màu pha), ta có thể tạo ra tất cả các màu sắc khác. Và cũng theo thuật Phong thuỷ, Hoả không chỉ được tượng trưng bằng sắc đỏ…
- Chiến lược xây dựng thương hiệu tiêu chuẩn: Nếu chỉ 10 – 15 năm trước, doanh nghiệp Việt thường tự ung dung cho rằng “khi đã phát triển đủ tầm, thì có thể tập trung cho một chiến lược quảng cáo đồng bộ và phát triển thương hiệu”; thì trong nền kinh tế toàn cầu hoá ngày nay, một doanh nghiệp mới non trẻ ra đời cũng đã Nên và Cần phải đặt vấn đề này lên hàng đầu.
Lý do quan trọng nhất là: nếu không có thương hiệu, không tạo được một chỗ đứng trong tâm trí Khách hàng mục tiêu, thì Sản phẩm của Doanh nghiệp sẽ hoàn toàn chìm nghỉm trong vô vàn các thương hiệu khác. Ngày nay, không có thương hiệu cũng đồng nghĩa với Không có Doanh số.
Vậy là, thay vì bỏ rất nhiều khoản ngân sách nhỏ lẻ, nhỏ giọt (mà cộng lại thì lên đến một con số rất lớn và phi hiệu quả), doanh nghiệp nên cân nhắc đến những hoạt động có tính chuyên nghiệp là Xây dựng Bộ nhận diện Thương hiệu tiêu chuẩn và Xây dựng kế hoạch phát triển thương hiệu Dài hạn.
Làm gì khi ngân sách marketing quá ít?
Những người làm tiếp thị dù trông coi thương hiệu lớn hay nhỏ, lúc nào cũng có cảm giác “giật gấu vá vai”. Người giỏi hơn chính là người biết lập kế hoạch để chi tiêu số tiền “ít ỏi” của mình cho tốt hơn.
Trước hết, phải khẳng định rằng chẳng có ngân sách marketing nào là dư thừa. “Thuyền to thì sóng lớn”.
Nhãn hiệu lớn như Sunsilk, tiêu tiền vài triệu đô la hàng năm, nhưng đối thủ của nó là Rejoice cũng dồi dào ngân sách không kém, hay kem dưỡng da Pond’s, có vẻ như “xài hoài không hết tiền” cho tiếp thị, thì ngó qua đối thủ Olay cũng thuộc diện “tiền đốt không kịp cháy”…
Ngân sách marketing luôn có tính ước lệ. Nếu đối thủ chi nhiều, thì dù mình có chi nhiều vẫn cảm thấy ít. Còn ngược lại gặp đối thủ không chi gì hết, thì mình có chút ít để chi cũng đã là nhiều. Những người làm tiếp thị dù trông coi thương hiệu lớn hay nhỏ, lúc nào cũng có cảm giác “giật gấu vá vai”.
Người giỏi hơn chính là người biết lập kế hoạch để chi tiêu số tiền “ít ỏi” của mình cho tốt hơn. Nghĩa là làm cho mỗi đồng tiền chi cho marketing có hiệu quả xây dựng thương hiệu cao hơn giá trị chi tiêu của nó. Được như thế thì tiền dù ít cũng trở nên nhiều.
Dưới đây là 10 bí quyết để sử dụng tốt ngân sách marketing trong xây dựng thương hiệu.
1. Tập trung ưu tiên chi tiêu cho nhóm tiêu dùng “hạt nhân”: trước hết bạn hãy suy nghĩ thật nhiều, không phải về nhóm tiêu dùng mục tiêu mà đi sâu vào nhóm tiêu dùng “hạt nhân” của sản phẩm.
Đối với nhóm khách hàng này, đừng tham truyền thông rộng mà phải truyền thông thật sâu và đậm đà để gây ra tác động. Bạn hãy tìm hiểu kĩ thói quen truyền thông của nhóm người này để tìm cách đưa thông điệp của mình đến với họ một cách mới mẻ hơn, ít kinh phí hơn so với các kênh truyền thống như truyền hình, báo chí và radio…
Ví dụ, nhóm tiêu dùng mục tiêu của bạn là nhân viên văn phòng thì việc đăng quảng cáo trên báo Tuổi Trẻ hay Thanh Niên là đúng nhưng không tập trung. Chúng ta có thể dùng kênh này trong giai đoạn mới giới thiệu sản phẩm và dịch vụ, nhưng về lâu dài kênh truyền thông Internet, các hoạt động hội chợ, hội thảo, hội nghị khách hàng... có giá trị truyền thông nhắc nhở rất tốt, không quá tốn kém nhưng lại linh hoạt và nếu bạn khéo tổ chức sẽ gây ấn tượng hơn.
2. Một khi đã xác định khoản chi phí marketing này là cần thiết, thì doanh nghiệp phải chi cho đầy đủ. Có như vậy mới hiệu quả. Chi ít là tai họa!
Điều này thật nghịch lí, nhưng đó là sự thật. Khi sử dụng truyền thông phải tính toán khối lượng tần số tương tác đầy đủ mới có tác động hình thành ý định tiêu dùng. Có những trường hợp người làm tiếp thị cho rằng nên chi “mỏng mỏng” lúc đầu để thăm dò rồi từ từ tính tiếp. Làm như thế chẳng khác gì kéo dài bữa ăn lê thê suốt từ trưa đến chiều nhưng lúc nào cũng thiếu thiếu, đói đói.
Tôi cho rằng truyền thông hùng hậu, nhanh chóng sẽ làm người tiêu dùng “no” thông tin, sẽ muốn thử xem sao và như thế mới có tác dụng tốt.
3. Khi đã có tác động, phải nghĩ ngay đến việc duy trì năng lượng sung mãn của người tiêu dùng đối với thương hiệu. Đừng để ngọn lửa nhiệt tình của người tiêu dùng bị giảm sút.
4. Thông điệp phải đặc sắc, khác biệt và nếu cần phải gây “sốc” một chút. Kinh nghiệm cho thấy, một thông điệp nhàn nhạt như nước ốc, lẫn lộn trong muôn vàn mẩu quảng cáo trên ti vi hay trên báo sẽ không thu hút được sự chú ý. Lúc đó công ty phải tốn nhiều chi phí mà hiệu quả chẳng là bao.
5. Tránh chi tiêu vào những thời điểm đang có những sự kiện lớn, thu hút hết sự quan tâm của công chúng. Nếu biết rằng không thể lôi họ ra khỏi những mối quan tâm nóng hổi trước mắt, vậy cớ gì phải tốn tiền để quảng cáo khi người ta không để ý đến.
Chẳng hạn vào thời điểm cận Tết, đó là lúc các hãng bánh kẹo, bia rượu, nước ngọt tăng âm tối đa, thử hỏi dầu gội, băng vệ sinh, sản phẩm bảo hiểm nhân thọ… quảng cáo để làm gì? Hãy tìm lấy mùa của mình để quảng cáo cho hiệu quả. Điều này phụ thuộc vào sự nhạy bén của nhà tiếp thị.
6. Tung chương trình quảng cáo, hay kích hoạt vào khu vực nào, vùng nào thì bạn phải lập tức lên kế hoạch bán hàng cho toàn bộ khu vực đó.
Ví dụ như phát sóng trên kênh truyền hình HTV7 thì phải có kế hoạch bán hàng trên toàn bộ khu vực phủ sóng của đài. Thông tin về hỗ trợ phát sóng quảng cáo phải được truyền đạt đến toàn thể nhân viên bán hàng, cũng như cho các chủ cửa hiệu bán sỉ và lẻ để họ tập trung nhậphàng bán và trưng bày.
7. Cần có một chiến lược tiếp thị rõ ràng,với kế hoạch hành động cụ thể cũng như phải dự kiến về doanh số thu được. Trong quá trình vận hành, nếu gặp trở ngại, chẳng hạn doanh số không đúng dự kiến, bạn cần nhanh chóng tìm ra nguyên nhân để có chương trình hành động thích ứng.
Nên lưu ý tránh làm theo kiểu xong bước một rồi mới suy nghĩ bước tiếp theo sẽ làm gì, hoặc cứ tung quảng cáo ra rồi thụ động chờ xem doanh số sẽ là bao nhiêu.
8. Một trong những nguyên tắc mà chúng ta cần nhớ là: “Nếu đúng phải chi, thì bao nhiêu tiền cũng không tiếc, còn nếu không đúng thì dù rẻ mấy cũng không bỏ ra”.
9. Hãy tập trung quảng cáo vào khu vực có nhiều người tiêu dùng sản phẩm của mình. Ví dụ thuốc say tàu xe thì phải gắn bảng quảng cáo ở gần nhà ga, bến xe và phải có chương trình trưng bày tại những cửa hiệu thuốc quanh khu vực đó. Hoặc đối với sản phẩm thuốc bổ mắt chống tật khúc xạ (cận thị) thì phải có chương trình trưng bày và quảng bá thương hiệu quanh cổng trường, hay gần bệnh viện mắt…
10. Phải biết gắn kết với các thương hiệu có cùng nhóm tiêu dùng mục tiêu và tương đồng về mức độ giá trị thương hiệu, để tổ chức các chương trình khuyến mãi hỗ tương. Thông qua việc kết hợp này, đôi bên cùng có lợi. Nếu là thương hiệu làm quà khuyến mãi, thì bạn vừa bán được hàng vừa thâm nhập vào đối tượng tiêu dùng của nhãn hàng làm khuyến mãi.
Còn ngược lại, do mua với số lượng lớn và mang lại cơ hội thâm nhập vào nhóm tiêu dùng mới cho phía đối tác, nên nhất định bạn phải thương lượng cho được mức giá tốt nhất.
Xu hướng chọn kênh quảng cáo hiệu quả
Nền kinh tế thế giới đang bước những bước cực kỳ thận trọng để thoát ra khỏi giai đoạn khủng hoảng. Trong tình hình khó khăn đó, các doanh nghiệp tất yếu tỏ ra chẳng mấy mặn mà với những chiến dịch quảng cáo rầm rộ với kinh phí đầu tư khổng lồ.
Một số doanh nghiệp đang rục rịch thu nhỏ quy mô các kế hoạch quảng cáo. Một số khác tìm đến với các hình thức quảng cáo khác. Vậy đâu sẽ là bước đi đúng hướng?
Không thể từ bỏ quảng cáo
Theo Andrew Razeghi (Giáo sư chuyên ngành Marketing của đại học Northwestern’s Kellogg), thời điểm thích hợp nhất để tăng cường quảng cáo duy trì mối liên hệ với khách hàng chính là trong các cuộc khủng hoảng kinh tế.
Dựa trên số liệu báo cáo nghiên cứu năm 2001 của Cahners Avertising, sau vụ 11/9, chỉ có 25% doanh nghiệp tăng cường ngân sách quảng cáo và cũng chỉ có cổ phiếu của 25% doanh nghiệp đó tăng nhanh gấp hai lần so với cổ phiếu ban đầu của họ trong nền kinh tế ổn định.
Trung tâm nghiên cứu MarketSense cũng đưa ra một ví dụ điển hình là hãng Pizza Hut và Taco Bell có doanh thu bán hàng tăng mạnh 61% và 40% trong suốt cuộc khủng hoảng 1989-1991 sau khi quyết định vẫn rót tiền đầu tư quảng cáo. Trong khi đó, một số doanh nghiệp khác, với quyết định ngược lại không được may mắn như vậy. Chẳng hạn như khi McDonald cắt giảm kinh phí quảng cáo thì doanh số bán hàng cũng giảm theo 28%.
Thế nhưng, việc suy trì mức chi phí chưa khi nào nhỏ cho quảng cáo lại luôn khiến các doanh nghiệp đau đầu. Đối mặt với khủng hoảng, các phương pháp được đưa ra luôn luôn là cắt giảm tối đa các khoản ngân sách và ngân sách cho quảng cáo - thật đáng buồn - thường là nguồn ngân sách được đưa vào tầm ngắm cắt giảm đầu tiên sau nhân sự. Điều này thực sự là lợi bất cập hại, bởi cắt giảm ngân sách quảng cáo sẽ chỉ khiến cho tình hình kinh doanh tồi tệ hơn nữa.
Bài toán đau đầu đặt ra các các nhà quản lý, các nhà thương hiệu, các chuyên gia Marketing là làm sao để có thể vừa chi ít tiền cho quảng cáo mà lại vừa có thể đảm bảo hiệu quả cho thương hiệu và đảm bảo sự an toàn cho doanh nghiệp?
Lựa chọn nào cho các nhà quản lý?
Câu trả lời đó chính là việc lựa chọn các kênh quảng cáo“không mang tính truyền thống”. Thế nào là các kênh quảng cáo không mang tính truyền thống? Muốn tìm hiểu các kênh quảng cáo “không mang tính truyền thống”, chúng ta cần làm rõ khái niệm về các “kênh truyền thống”.
Các nhà chiến lược Marketing thường định vị nhóm truyền thống chính là các phương tiện truyền thông đại chúng như truyền hình, phát thanh, radio, gần đây có báo mạng… Mặc dù không thể phủ nhận được hiệu quả truyền thông mà các loại hình này mang lại song điểm đáng lưu ý chính là các phương tiện này thường đòi hỏi chi phí cực kỳ cao.
Ví dụ như để xuất hiện trên sóng VTV3 trong chương trình “Bước nhảy hoàn vũ 2011”, các doanh nghiệp phải chi trả mức giá thấp nhất là 30 triệu đồng cho 10 giây quảng cáo, và cao nhất là 80 triệu đồng cho 30 giây. Đây thực sự là một con số không hề nhỏ trong tình hình khó khăn hiện nay.
Thêm vào đó, với tốc độ phát triển các kênh truyền hình hiện nay, việc “cưỡng bức” xem quảng cáo đã trở nên kém hiệu quả hơn lúc nào hết. Với chiếc remote trong tay, họ hoàn toàn chuyển kênh trong quảng cáo hoặc chuyển cả chương trình đang theo dõi.
Vậy các loại hình không mang tính truyền thống là gì? Thực ra “không mang tính truyền thống” là cách nói dành cho thị trường Việt Nam, đó là các sản phẩm quảng cáo có thể phát ra những hình ảnh như trên truyền hình (tiếng động, hình ảnh) mà đối tượng xem có thể tận dụng nhìn thấy trong suốt thời gian tham gia giao thông hoặc lưu thông trên các tuyến đường.
Ví dụ như hệ thống các màn hình LCD như những chiếc Tivi được lắp tại các tòa nhà văn phòng, hệ thống siêu thị, bệnh viện trên toàn quốc. Hệ thống quảng cáo này giúp cho các nhà cung cấp sản phẩm, dịch vụ có thể đưa các chương trình quảng cáo tới số lượng đông đảo, đối tượng nhân viên Văn phòng, có thu nhập bình quân cao, có sức mua chiếm 60% trên thị trường.
Không chỉ trúng vào đối tượng công chúng mục tiêu, các loại hình sản phẩm này còn hiệu quả hơn hẳn bởi lẽ các sản phẩm quảng cáo này là lựa chọn chủ động của các khách hàng.
Thứ nhất, đối với các nhân viên văn phòng, bệnh nhân trong các bệnh viện họ có nhu cầu giải quyết “thời gian chết” trong khi đi thang máy, chờ đợi kết quả, di chuyển từ nơi này tới nơi khác. Đó có thể chỉ là khoảng thời gian tính bằng giây, bằng phút đối với nhân viên văn phòng khi sử dụng thang máy nhưng lại là những giây phút quý giá khi họ tiếp nhận thông tin hoàn toàn rất chủ động.
Với những người bệnh hay những người thăm nuôi bệnh nhân trong các bệnh viện, việc chờ đợi luôn gây khó chịu, các phương tiện này đánh trúng vào tâm lý “chờ đợi” này của công chúng, giúp cho họ cảm thấy thoải mái hơn, dễ chịu hơn với khoảng thời gian thăm nuôi người nhà.
Thứ hai, với các bà nội trợ tham gia mua sắm trong siêu thị, việc tìm hiểu thông tin các sản phẩm qua các quảng cáo hoàn toàn có khả năng bởi quỹ thời gian dồi dào của họ. Có thể nói, việc cung cấp thông tin theo đúng “nhu cầu” của các nhóm công chúng chính là điều kiện tiên quyết quyết định thành công hiệu quả quảng cáo.
Ngoài ra, khác với các loại hình quảng cáo khác (khán giả tiếp nhận quảng cáo chủ động, từ chối quảng cáo như chuyển kênh, bỏ qua trang quảng cáo…) khán giả của kênh quảng cáo “truyền thông tập trung” chỉ có “duy nhất” lựa chọn là các quảng cáo qua hệ thống các màn hình LCD của các tòa nhà văn phòng, hệ thống siêu thị, bệnh viện.
Thực sự là việc lựa chọn các kênh quảng cáo“truyền thông tập trung” đang là một lựa chọn hàng đầu cho rất nhiều các doanh nghiệp trong tình hình kinh tế khó khăn hiện nay.
Quảng bá thương hiệu - tận dụng sức mạnh Internet
1. Tận dụng sức mạnh internet
Theo số liệu thống kê gần đây của dự án Pew Internet and American Life, có hơn một nửa số người thường xuyên sử dụng internet vào việc tìm kiếm thông tin về những vấn đề mà họ quan tâm. Nếu như internet là công cụ đầu tiên mà người lướt web sử dụng để tìm thông tin về công ty hoặc đối tượng mà họ quan tâm thì đương nhiên internet là công cụ kì diệu để các công ty quảng bá sức mạnh cũng như thương hiệu của mình. Bạn có biết hiệu quả của internet trong việc quảng bá hình ảnh công ty bạn không? Hãy thử gõ tên công ty của bạn trên google và bạn sẽ thấy ngay điều gì đang xảy ra. Nếu tên công ty bạn xuất hiện ngay từ dòng đầu tiên của kết quả tìm kiếm thì điều đó thật tuyệt. Nếu tên công ty của bạn xuất hiện ở những trang phía sau thì bạn cần phải làm rất nhiều việc để thay đổi điều đó.
2. Tạo website riêng
Nếu bạn muốn tận dụng tối đa sức mạnh của internet trong việc quảng bá thương hiệu thì bạn cần phải mua một tên miền phù hợp, càng gần với tên công ty bạn càng tốt, và phải thật dễ tìm kiếm. Và ngay bây giờ bạn hãy lập một website để quảng bá thương hiệu công ty. Hãy làm sao đó để khi độc giả tìm kiếm thông tin về công ty bạn thì thông tin đó phải ở những dòng đầu tiên của kết quả tìm kiếm, nếu làm được điều đó thì bạn sẽ thấy ngay hiệu quả.
3. Quảng cáo trên những website lớn
Cũng theo kết quả nghiên cứu của dự án Pew Internet thì: 1/3 số người lướt web thường tìm kiếm thông tin về các công ty hoặc cá nhân mà họ quan tâm trên công cụ tìm kiếm của những website nổi tiếng, như website LinkedIn chẳng hạn. Hãy tăng mức độ phổ biến của hình ảnh công ty bạn trên internet bằng việc liên kết với những thương hiệu nổi tiếng khác như Facebook, Twitter, LinkedIn...
Nói cách khác, hãy quảng cáo về công ty bạn trên những website nổi tiếng, bởi vì đây là những website có lượng bạn đọc rất lớn. Khi đăng tin hoặc treo banner quảng cáo trên đó thì ngay lập tức sẽ có rất nhiều người biết đến "quý danh" công ty bạn. Đồng thời cũng đừng quên đặt link website của bạn trên những diễn đàn thu hút nhiều người quan tâm... hình ảnh về công ty bạn sẽ được quảng bá rộng rãi hơn.
Nếu có thể, bạn đừng quên trau chuốt một bài PR thật hoàn hảo để post lên các website như: EzineArticles.com, Buzzle.com, và ArticlesBase.com. Đăng bài ở những website trên là cách đơn giản để khẳng định tính chuyên nghiệp của công ty bạn, không chỉ khách hàng trong nước mà khách hàng ngoài nước cũng nhanh chóng biết đến tên tuổi của công ty bạn. Với mỗi bài viết, bạn đừng quên để lại đường link trực tiếp đến website của công ty. Tôi tin rằng với những cách thức như trên thì hình ảnh công ty bạn sẽ sớm được quảng bá rộng rãi đến mọi người.
4. Tạo Blog hoặc Vlog
Một trong những cách rất tốt để củng cố hình ảnh công ty bạn đó là qua blog cá nhân. Bạn hãy lập một blog riêng và không quên có những bài viết PR cho công ty mình. Thế mạnh của việc mở blog cá nhân là bạn có thể chứng minh, giải thích, nhấn mạnh, và đưa ý kiến riêng của mình về tất cả những thông tin bạn muốn người khác hiểu về công ty của bạn. Mặt khác bạn sẽ nhân danh... cá nhân để liên lạc với những cá nhân khác, sự liên hệ này sẽ mang tính thân mật hơn.
Nếu có thể, thay vì lập một blog bình thường, bạn hãy lập một video blogs. Video blogs là cách cực kì hữu hiệu trong việc bạn quảng bá hình ảnh công ty. Hãy thử nhìn vào những đại gia video blogs như: YouTube, Google Video, MySpaceTV, Apple iPod và iTunes, Hulu, Yahoo, Windows Media, IMEEM, và MetaCafe bạn sẽ học hỏi được nhiều điều.
Quảng bá và xây dựng thương hiệu cho doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường nước ngoài
Trong một thế giới phẳng, việc các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài là xu thế tất yếu, đồng thời là lựa chọn phù hợp với điều kiện phát triển của nền kinh tế nước ta hiện nay nhằm tận dụng có hiệu quả tài nguyên tại chỗ (địa bàn tiếp nhận vốn đầu tư), mở rộng thị trường, cũng như đẩy mạnh quảng bá, tiếp thị hình ảnh Việt Nam.
Các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng mà mạnh nhất là thăm dò và khai thác dầu khí, sản xuất và chế biến hàng gia dụng, sản xuất vật liệu xây dựng chiếm gần một nửa số dự án và gần 70% số vốn, tiếp theo là các lĩnh vực nông nghiệp và dịch vụ. Vốn đầu tư nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu tập trung vào các thị trường truyền thống trong đó đứng đầu là Lào, Cambodia, Liên bang Nga. Đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ có những chuyển hướng vào các nước Mỹ La tinh, Đông Âu, châu Phi với các dự án như dự án thăm dò và khai thác dầu khí trên cơ sở hợp tác giữa Việt Nam và các nước Cuba, Vênêzuêla…
Một xu hướng định vị hình ảnh doanh nghiệp nói riêng, Việt Nam nói chung trên bản đồ kinh tế thế giới đang được thúc đẩy mạnh mẽ và có hiệu quả. Tuy nhiên việc quảng bá và xây dựng thương hiệu cho doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường nước ngoài còn rất nhiều điều phải bàn.
1. Những khó khăn khi quảng bá và xây dựng thương hiệu cho doanh nghiệp Việt tại thị trường nước ngoài
Quảng bá được hiểu là việc giới thiệu những thương hiệu doanh nghiệp đã có tiếng ở trong nước nhưng chưa được biết đến ở nước ngoài. Xây dựng thương hiệu nhiều khi là việc tạo dựng hình ảnh của doanh nghiệp trong lòng khách hàng cả ở trong nước và ngoài nước.
Để lập và thực hiện thành công một kế hoạch quảng bá và xây dựng thương hiệu cho doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường nước ngoài, trước hết cần nhận thức được những khó khăn của quá trình này. Quảng bá và xây dựng thương hiệu trong nước đã khó, thực hiện việc này tại các thị trường nước ngoài còn khó khăn hơn gấp nhiều lần, bởi các lý do sau đây:
Thứ nhất, doanh nghiệp Việt Nam đầu tư, kinh doanh ở thị trường nước ngoài còn yếu về năng lực cạnh tranh.
Doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài tuy là doanh nghiệp lớn ở Việt Nam nhưng chỉ là doanh nghiệp trung bình ở thị trường nước ngoài. Trừ một số doanh nghiệp thuộc Tập đoàn Dầu khí, Tập đoàn Điện lực Việt Nam… đa số các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài có tiềm năng khiêm tốn: vốn ít, khó tiếp cận nguồn vốn, trình độ có hạn, khả năng kinh nghiệm hoạt động trong môi trường kinh doanh quốc tế bị hạn chế, thương hiệu công ty, thương hiệu sản phẩm, dịch vụ chưa có… nên gặp khó khăn trong cạnh tranh với các nhà đầu tư đến từ các nước khác trong giành thầu, thực hiện liên doanh, liên kết với các đối tác ở nước tiếp nhận vốn đầu tư.
Kinh nghiệm của Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc cho thấy, yếu tố quan trọng thúc đẩy sự thành công trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài là các quốc gia này đều đã trải qua giai đoạn tập trung tích tụ tài sản thông qua thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành, lĩnh vực hướng tới xuất khẩu để tạo dựng những doanh nghiệp mạnh, có thương hiệu tầm cỡ thế giới, nắm giữ công nghệ nguồn, từ đó mới mở rộng sản xuất và tầm ảnh hưởng ra nước ngoài.
Thứ hai, doanh nghiệp Việt Nam thiếu kinh nghiệm và chưa thực sự quan tâm đến trong quảng bá và xây dựng thương hiệu. Xây dựng và bảo vệ thương hiệu là quá trình liên tục, bền bỉ, đòi hỏi sự quan tâm thích đáng và có những chiến lược cụ thể cho từng doanh nghiệp.Theo thống kê của Cục Xúc tiến thương mại, Bộ Công thương, tỷ lệ doanh nghiệp đầu tư có phương pháp, kỹ năng để xây dựng thương hiệu mới đạt 20%. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa xây dựng được một thương hiệu truyền tải thông điệp ấn tượng và độc đáo tới các khách hàng hiện tại cũng như các khách hàng tiềm năng tại thị trường trong và ngoài nước để thương hiệu của mình vượt trội hơn so đối thủ cạnh tranh. Các doanh nghiệp cũng chưa nâng cao nhận thức về thương hiệu trong việc quảng bá, bảo vệ; đẩy mạnh việc đăng ký bảo hộ thương hiệu không chỉ ở thị trường trong nước mà cả ở nước ngoài.
Theo số liệu của Bộ Công thương, trong số gần 500.000 doanh nghiệp Việt Nam đang hoạt động, mới có 10% doanh nghiệp có ý thức tự bảo vệ thương hiệu sản phẩm. Doanh nghiệp thờ ơ với việc xây dựng và bảo vệ thương hiệu vì nhiều lý do khác nhau. Ở các doanh nghiệp nhà nước, do ràng buộc về cơ chế, chính sách, sự bảo hộ và ưu đãi của Nhà nước dẫn đến vấn đề thương hiệu chưa được quan tâm thỏa đáng. Đa số doanh nghiệp Việt Nam có vốn hoạt động khá nhỏ, chủ yếu dựa vào nguồn vốn vay nên e ngại tốn kém chi phí khi xây dựng, bảo vệ thương hiệu, đặc biệt là ở thị trường nước ngoài.
Thứ ba, doanh nghiệp Việt Nam chưa có sự liên kết trong quảng bá và xây dựng thương hiệu ở nước ngoài. Khác với tập quán của cộng đồng doanh nghiệp Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc hay quy tắc hoạt động của các tập đoàn xuyên quốc gia trên thế giới, doanh nghiệp Việt Nam lại thường hoạt động riêng lẻ, thiếu cơ chế liên kết cũng như cập nhật thông tin tại địa bàn sẽ đầu tư do đó sẽ gặp nhiều khó khăn trong quảng bá và xây dựng thương hiệu.
Thứ tư, doanh nghiệp Việt Nam chưa nhận được sự hỗ trợ thích đáng để quảng bá và xây dựng thương hiệu ở nước ngoài. Nếu ở các quốc gia khác, sau khi cơ quan phi chính phủ, hiệp hội các doanh nghiệp nhận được danh mục các cơ hội đầu tư ở nước ngoài, họ tổ chức cho các doanh nghiệp đi tìm hiểu môi trường đầu tư ở nước ngoài, còn ở Việt Nam chỉ mới thực hiện xúc tiến để thu hút đầu tư nước ngoài vào ngành, địa phương, chứ việc xúc tiến đầu tư ra nước ngoài chưa được tổ chức vì chưa có chiến lược và chưa được quan tâm.
Trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu, rộng với nền kinh tế thế giới, đòi hỏi Việc Nam phải có được những thương hiệu mang tầm toàn cầu là đầu tàu kéo doanh nghiệp, sản phẩm trong nước vươn ra biển lớn. Tuy nhiên, thực tế có rất ít doanh nghiệp Việt Nam đủ điều kiện để vươn ra thị trường toàn cầu. Việc xây dựng thương hiệu toàn cầu đòi hỏi doanh nghiệp phải có qui mô lớn, tiềm lực tài chính mạnh, có sự khác biệt… và cần có sự trợ giúp từ môi trường kinh doanh, quảng bá thương hiệu ra thị trường nước ngoài từ phía Chính phủ và cơ quan chức năng, các hiệp hội ngành hàng.
Thứ năm, đã có nhiều thương hiệu nổi tiếng toàn cầu hoặc thương hiệu bản địa đã hiện diện trên thị trường. Chúng ta chưa có nhiều những thương hiệu đủ mạnh để có thể cạnh tranh ngang ngửa với các tên tuổi nước ngoài trên thị trường. Chính vì vậy, cùng một sản phẩm không hơn kém nhau về chất lượng và có khi những sản phẩm này của doanh nghiệp Việt Nam xuất hiện trước từ rất lâu, nhưng do sự nhận biết của người tiêu dùng đối với tên tuổi của sản phẩm, của doanh nghiệp Việt Nam ít hơn nên thị phần của các sản phẩm Việt Nam nhỏ hơn. Từ đó, nhiều sản phẩm cứ phải loanh quanh ở một thị trường nhất định, phải chấp nhận bán giá rẻ hơn đối thủ… Đây là một sự yếu kém, thua thiệt không chỉ cả trong nước mà cả ở thị trường nước ngoài.
Kinh nghiệm ở các nước phát triển cho thấy, việc đăng ký bảo hộ thương hiệu phải được tiến hành đồng thời với việc quảng bá và đưa sản phẩm thâm nhập thị trường, thậm chí việc đăng ký thương hiệu phải đi trước một bước. Thực tế thời gian qua ở nước ta cho thấy, nhiều mặt hàng của Việt Nam chất lượng không thua kém hàng hóa của nước ngoài nhưng giá cả thấp hơn so với sản phẩm cùng loại của các quốc gia khác do doanh nghiệp chưa chú trọng trong công tác thương hiệu, chưa có hành động tích cực trong việc quảng bá thương hiệu.
2. Một số gợi ý về việc quảng bá và xây dựng thương hiệu cho doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường nước ngoài
Xây dựng thương hiệu tại thị trường nước ngoài phải là một trong những nội dung hoạch định chiến lược của doanh nghiệp khi quyết định đầu tư ra nước ngoài, bao gồm những nội dung như cách thức quảng bá thương hiệu, các kênh tiếp cận, chi phí…
Trước hết, doanh nghiệp cần nhận thức rõ ý nghĩa của việc quảng bá và xây dựng thương hiệu cho doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường nước ngoài. Cần có nhận thức đúng và đầy đủ về thương hiệu, xem thương hiệu là tài sản quí của doanh nghiệp cần phải bảo vệ, quảng bá và phát triển nó, coi việc phát triển thương hiệu là việc sống còn của doanh nghiệp, là hoạt động mang tính chiến lược trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.Đầu tư ra nước ngoài giúp các công ty phát triển vốn vô hình của mình: thương hiệu, công nghệ, bí quyết công nghệ. Ví dụ: thương hiệu cà phê Trung Nguyên, Phở 24, bệnh viện Châm cứu…
Doanh nghiệp cũng cần nâng cao năng lực cạnh tranh, đầu tư nâng cấp đổi mới công nghệ, tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã đẹp, giá rẻ phù hợp với thị hiếu từng phân khúc thị trường nhằm tạo ra hình ảnh đẹp về thương hiệu sản phẩm và khi đã tạo được thương hiệu thì tiến hành ngay công tác đăng ký thương hiệu ở thị trường trong nước và thị trường nước ngoài và cả ở thị trường tiềm năng mà doanh nghiệp sắp hướng tới để tránh trường hợp thương hiệu bị đánh cắp.
Doanh nghiệp cũng có thể tích cực tham gia các hội chợ thương mại trong và ngoài nước nhằm quảng bá sản phẩm của mình đến với người tiêu dùng, không ngừng mở rộng mạng lưới bán hàng, không ngừng bảo vệ và nâng cao uy tín thương hiệu.
Khi đầu tư, kinh doanh ở thị trường nước ngoài, doanh nghiệp cần phải dựa trên những nghiên cứu và phân tích vững chắc để trả lời những câu hỏi sau:
- Có cần thiết quảng bá, xây dựng thương hiệu ở thị trường nước ngoài không?
- Thị trường nước ngoài nào hấp dẫn nhất?
- Những phân khúc nào trong các thị trường đó khả thi nhất căn cứ vào những điểm mạnh hiện tại của công ty? Những phân khúc này ổn định hoặc đang trên đà phát triển?
- Khi quảng bá và xây dựng thương hiệu ở thị trường nước ngoài, doanh nghiệp có thể sẽ gặp những rủi ro gì?
- Sản phẩm của doanh nghiệp sẽ được phân phối như thế nào?
- Doanh nghiệp có thể điều chỉnh, thay đổi sản phẩm để thỏa mãn và phù hợp với thị hiếu của khách hàng địa phương như thế nào?
Mô hình bốn chữ P trong marketing hỗn hợp - Product (sản phẩm), Place (phân phối), Price (giá), và Promotion (hỗ trợ bán hàng) như các công cụ mà doanh nghiệp dùng để theo đuổi các mục tiêu của mình trong những thị trường mà họ nhắm đến sẽ phát huy tác dụng trong cả kinh doanh trong nước lẫn kinh doanh ở ngoài nước. Đối với các doanh nghiệp đang có một kế hoạch mở rộng thị trường ra nước ngoài thì việc xây dựng một chiến lược marketing toàn cầu là một trong những việc nên làm đầu tiên, sau khi đã xác định cho mình một thị trường mục tiêu ở nước ngoài. Các chuyên gia khuyến cáo rằng các doanh nghiệp nên có một thị trường và chỗ đứng vững chắc ở thị trường nội địa trước khi khảo sát và đưa ra một chiến lược marketing toàn cầu, tránh những sai lầm và đổ vỡ cấu trúc của cả một hệ thống thương hiệu.
Về phía Nhà nước, để hỗ trợ cho doanh nghiệp quảng bá và xây dựng thương hiệu ở thị trường nước ngoài cần có chiến lược cũng như biện pháp cụ thể để hỗ trợ doanh nghiệp đăng ký, quản lý và bảo vệ thương hiệu ở thị trường trong nước và thị trường nước ngoài, trước hết là đối với những thương hiệu đã có vị trí trên thị trường; nới lỏng biện pháp tài chính cho doanh nghiệp bằng cách không nên khống chế giới hạn về chi phí cho quảng cáo sản phẩm ở mức 5% so với tổng chi phí như hiện nay.
Theo chúng tôi, cần thống nhất quan điểm coi mỗi nhà đầu tư là một sứ giả đại diện cho hoạt động kinh tế của Việt Nam ở nước ngoài. Với quan điểm này Nhà nước phải xây dựng cơ chế buộc các cơ quan đại diện ngoại giao, kinh tế của Việt Nam ở nước ngoài phải nắm được tình hình hoạt động của các nhà đầu tư Việt Nam ở nước mình phụ trách, kịp thời giúp đỡ giải quyết các khó khăn vướng mắc. Ngược lại Nhà nước phải có biện pháp chế tài buộc các nhà đầu tư có nghĩa vụ thông báo định kỳ tình hình triển khai dự án với đại sứ quán hoặc đại diện thương mại của Việt Nam ở nước ngoài./.
Xây dựng kế hoạch quảng cáo thành công
Trước khi có thể quảng cáo hiệu quả, bạn cần trả lời những câu hỏi quan trọng này.
Hỏi:Ông nghĩ kế hoạch quảng cáo nào sau đây hiệu quả hơn: tiếp cận 3.500 khách hàng bằng cách chi 2.000 đô la cho việc gửi bưu thiếp trực tiếp, hay dùng 2000 đô la đăng quảng cáo trên báo để tiếp cận 750.000 độc giả?
Đáp:Điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào những lời quảng cáo của anh. Nếu số thương ảnh hưởng của anh đủ cao thì tốt nhất là đặt cược vào báo chí. Nếu những bưu thiếp trực tiếp được gửi đến đúng “mục tiêu hoàn hảo” (chứ không phải là rất có khả năng), thì sau đó đường mail trực tiếp là thích hợp hơn cả.
Thực tế là tôi không biết câu trả lời cho những câu hỏi này, tôi đoán là anh nên sử dụng cả bưu thiếp trực tiếp lẫn báo chí. Tôi khuyên anh nên giữ 2.000 đô la trong túi đến khi nào có thể lập ra một kế hoạch thực tế. Anh nên trả lời những câu hỏi khó này:
1. Sẽ nói với khách hàng của mình điều gì thực sự có ý nghĩa?Tôi là khách hàng tiềm năng của anh. Tôi biết anh cần công ty tôi nhưng sao tôi phải quan tâm? Tôi sẽ được gì? Hầu hết các chương trình quảng cáo được tạo ra với giả định rằng người đọc, người nghe, người xem có sự hứng thú nhất định và sẽ chú tâm nhiều đến chương trình quảng cáo đó. Tuy nhiên khách hàng có xu hướng không để ý đến những chương trình quảng cáo không nói trực tiếp đến họ. Nhiệm vụ đầu tiên của anh không phải là lựa chọn phương tiện truyền thông nào mà là chọn thông điệp.
2. Có thể nói điều đó một cách thuyết phục không? Hầu hết các chương trình quảng cáo không có hiệu quả do tác giả cố nói quá nhiều, bao quát quá nhiều và đòi hỏi quá nhiều. Vì sợ bỏ sót nên họ viết ra những chương trình quảng cáo không rõ ràng, không thể nói trực tiếp đến bất kì ai. “Chúng tôi sửa ô tô” là một tiêu đề quảng cáo kinh khủng.
3. Có phải đang nói đến một nhu cầu không thể thiếu?Hãy nói rằng bộ phận sửa chữa tự động “Chúng tôi sửa ô tô” có kiểu BMW 2002S rất được ưa chuộng. Người viết lời quảng cáo biết những chủ xe dòng 2002 yêu thích chiếc ô tô của họ và khuyết điểm duy nhất của dòng xe 2002 là bình xăng con Solex của nó quá yếu. Tất cả chủ xe dòng 2002 đều biết điều này.
Vì vậy, người ấy viết tiêu đề quảng cáo là “Những chủ xe BMW dòng 2002, bạn có chán việc lãng phí với bình xăng con Solex đó chưa?” Trong nội dung quảng cáo, người ấy nói đến bình xăng con 2 thùng mới rất tốt dùng cho kiểu ô tô BMW 2002S, nói say sưa rằng nó có thể làm tăng hiệu suất và độ tin cậy đáng kể như thế nào, giải thích rằng trong kho của cửa hàng anh ta có những bình xăng con Weber mới đó, sau đó định giá cho việc cài đặt và điều chỉnh bình xăng con đó cho bạn.
Anh ta kết thúc lời quảng cáo bằng câu nói: “Bạn sẽ di chuyển cực nhanh bằng chiếc BMW hoàn toàn khác với chiếc bạn đã lái”. Nếu đã có danh sách để có thể gửi bưu thiếp trực tiếp cho những chủ xe BMW ở khu vực của anh (chẳng hạn như danh sách từ các câu lạc bộ BMW trong khu vực), anh có thể gửi bưu thiếp trực tiếp. Nhưng nếu không có danh sách nào hết thì sự lựa chọn thứ hai có thể là báo chí. Đối với cả hai cách này, anh đều phải chuẩn bị một bức ảnh kiểu xe BMW 2002S thật lớn để chú thích cho lời quảng cáo và dùng bức ảnh quảng cáo đó để thu hút sự chú ý của khách hàng mà anh hướng đến.
4. Phải mất bao lâu để phát triển thương hiệu?Một số quảng cáo xây dựng phương tiện chuyển tải, một số khác xây dựng những mối quan hệ và cũng có những quảng cáo xây dựng uy tín của anh. Nếu anh không có nguồn tài chính để bắt đầu một chiến dịch quảng cáo thật ấn tượng, tập trung vào việc xây dựng những mối quan hệ và uy tín đối với những khách hàng tiềm năng, anh sẽ phải thiết lập những chương trình quảng cáo xây dựng phương tiện chuyển tải cho đến khi nào anh có khả năng phát triển hương hiệu của mình. Khả năng tài chính của anh có thể đáp ứng ở mức độ nào?
5. Sự mời gọi trong thông điệp quảng cáo là gì?Nếu anh muốn có một chương trình quảng cáo đem lại kết quả ngay thì cần có một giới hạn thời gian. Kỹ xảo này có thể vừa giúp anh vừa làm hại anh. Một mặt, khách hàng có xu hướng trì hoãn những gì có thể trì hoãn, vì thế, những lời mời có giới hạn thời gian sẽ tập trung được số lượng người tham gia nhanh hơn khi họ có nguy cơ “mất cơ hội”. Mặt khác, khách hàng không nhớ đến những tin nhắn đã hết hạn; những tin nhắn ngắn hạn hoàn toàn bị quên lãng. Do đó, rất khó để tạo ra được sự nhận thức lâu dài bằng một loạt những chương trình quảng cáo ngắn hạn, những yêu cầu có giới hạn về thời gian.
6. Ảnh hưởng trong chương trình quảng cáo là gì?Chương trình quảng cáo của anh đòi hỏi phải hay đến mức nào là phụ thuộc vào số lượng chương trình quảng cáo của đối thủ cạnh tranh. Súng lục cỡ 22 là vũ khí dùng để đấu với một đối thủ có ống xì thổi hột đậu (đồ chơi trẻ con). Nhưng nếu dùng cây súng lục đó để đấu với một đối thủ có súng máy thì thật ngu ngốc. Thông điệp của đối thủ cạnh tranh mạnh đến mức nào? Nếu đối thủ cạnh tranh của anh dùng súng máy thì anh nên tránh xa. Nói cách khác, đừng sử dụng phương tiện truyền thông mà đối thủ cạnh tranh của bạn sử dụng.
7. Chu kỳ mua hàng bao lâu?Mất bao lâu để chương trình quảng cáo của anh đem lại thành công, điều đó phụ thuộc vào dòng đời sản phẩm của anh. Quảng cáo cho nhà hàng có hiệu quả nhanh hơn quảng cáo cho máy may, bởi vì phần lớn người ta tìm mua thức ăn nhiều hơn là tìm mua máy may quần áo.
Tương tự như vậy, quảng cáo cho một sản phẩm mà chúng ta mua hai lần một năm sẽ cho kết quả nhanh hơn quảng cáo cho một sản phẩm chúng ta mua chỉ một lần một năm. Nên nhớ rằng, đầu tiên khách hàng phải tiếp xúc với chương trình quảng cáo của anh đủ thường xuyên để nhớ nó, sau đó anh phải đợi họ có nhu cầu mua sản phẩm của anh. Khách hàng cần mua sản phẩm của anh sớm nhất là khi nào?
Nếu không thuê một người viết quảng cáo chuyên nghiệp thì anh sẽ phải tốn kém nhiều hơn. Nếu anh muốn tìm hiểu thêm về vấn đề này, trong hầu hết các thư viện và nhà sách đều có rất nhiều sách viết về quảng cáo, trong đó có cả 3 cuốn sách của tôi viết.
Roy Williams là người sáng lập và là Chủ tịch của “Thiên tài quảng cáo”, một công ty phục vụ các chương trình quảng cáo và tiếp thị cho doanh nghiệp trên toàn cầu. Williams đồng thời là tác giả cuốn sách “The Wizard of Ads” (Thiên tài quảng cáo) và “Secret Formulas of the Wizard of Ads” (Phương pháp bí mật của thiên tài quảng cáo).
Thăng tiến trong công việc
Để tiềm năng thành tài năng
Bí quyết thăng tiến nhanh trong công việc
Kỹ năng làm việc độc lập -
Cách tạo dựng mối quan hệ hiệu quả
Bí quyết thành công của phụ nữ
(st)