Bài thuốc dân gian từ đu đủ mà hầu như ai cũng biết là món ăn lợi sữa. Khi sản phụ không đủ sữa nuôi con, các bà mẹ thường mua chân giò về hầm đu đủ.Món ăn này công hiệu vì cung cấp ngay cho sản phụ những chất dinh dưỡng thiết yếu để tạo sữa: chất đạm trong chân giò, nước dùng chứa canxi, collagen, đu đủ có chất trợ tiêu hóa và nhiều sinh tố.
Đu đủ - Đẹp da, tốt cho sản phụ
Đu đủ còn được dùng làm nguyên liệu để nấu cháo dựng bò. Món cháo này rất tốt cho người cao tuổi vì chứa nhiều thành phần dinh dưỡng tốt cho sức khỏe, lại dễ tiêu hóa.
Đu đủ chín còn được dùng làm mặt nạ dưỡng da với công dụng làm da mịn màng, mờ vết nám.
Ăn đu đủ thường xuyên giúp tăng sức đề kháng, bổ máu, nhuận tràng nhờ đu đủ chứa nhiều ma nhê, sắt, kẽm, chất xơ. Trong trường hợp bị đầy bụng, khó tiêu, nên ăn một lát đu đủ. Chất tiêu đạm trong đu đủ sẽ giúp hệ tiêu hóa hoàn tất nhiệm vụ nhanh chóng. Đu đủ còn là món ăn bài thuốc chống lão hóa, làm đẹp và mịn da nhờ chứa nhiều tiền vitamin A (bê ta carotene). Để tận dụng được lượng tiền vitamin A này, cần dùng đu đủ chín để tráng miệng sau khi ăn các món chiên xào. Lượng dầu trong món ăn sẽ là “nhịp cầu tre” đưa vitamin A vào cơ thể, bằng không, chúng sẽ bị thải ra ngoài.
Đu đủ chín còn được dùng làm mặt nạ dưỡng da với công dụng làm da mịn màng, mờ vết nám. Chỉ cần nạo đu đủ, đắp lên mặt trong khoảng thời gian từ 5 - 7 phút rồi rửa sạch. Đu đủ đem trộn sữa sẽ thành loại sinh tố giúp đẹp da, tăng đề kháng và đủ sức “chống chọi” với ánh nắng mặt trời.
Đu đủ xanh thường được dùng làm gỏi. Gỏi khô bò chứa nhiều chất bổ dưỡng, giúp cơ thể phát triển. Song, do ngày nay món khô bò được chế biến từ phổi bò, lại ngâm nhiều hóa chất nên hại nhiều hơn lợi. Nếu muốn ăn đu đủ xanh, nên tự làm. Cách làm không khó, chỉ cần dùng bàn nạo bào đu đủ, sau đó trộn giấm, đường, tỏi, hành phi, rắc thêm khô bò (do các công ty uy tín sản xuất) là có món ăn vừa ngon, vừa an toàn. Đu đủ xanh còn là một trong những phương thuốc ngừa thai, vì thế phụ nữ có thai không nên dùng vì có thể gây sảy thai. Không nên ăn quá thường xuyên đu đủ chín mỗi ngày, có thể bị vàng da vì thừa vitamin A.
Đu đủ dễ trồng, không chiếm nhiều diện tích lại cho nhiều trái. Tuy nhiên, cần tìm cho được cây đu đủ cái để trồng vì đu đủ đực sẽ không cho quả.
Thực hư chuyện ăn đu đủ gây sảy thai
Nhìn thực đơn của mẹ chồng, Dung vô cùng ngán ngẩm vì trong danh sách những thứ không được ăn thì lại có cả đu đủ - món mà từ ngày có bầu Dung thèm như lên cơn nghiện.
Lấy nhau được 3 năm, mong chờ mãi cuối cùng vợ chồng Dung (Hoàng Mai - Hà Nội) mới được đến ngày nhìn que thử thai lên 2 vạch. Khỏi phải nói vợ chồng Dung vui đến mức nào. Biết tin con dâu có bầu, mẹ chồng Dung đã lên cả một thực đơn những đồ ăn thức uống nào cần tẩm bổ, những gì tuyệt đối không nên đụng đũa.
Nhìn thực đơn của mẹ chồng, Dung vô cùng ngán ngẩm vì những món được ăn thì toàn thứ quá bổ béo và ngán, còn danh sách những thứ không được ăn thì lại có cả đu đủ - món mà từ ngày có bầu Dung thèm như lên cơn nghiện. Vậy mà mẹ chồng Dung cứ nhất quyết không cho con dâu ăn vì sợ sảy thai.
Chỉ vì việc được hay không được ăn đu đủ mà mẹ chồng nàng dâu đang hòa thuận bỗng nảy sinh mâu thuẫn.
Các nhà nghiên cứu đã từng tiến hành thử nghiệm trên chuột ở Ấn Độ, cho chuột đang mang thai ăn nhiều loại hoa quả khác nhau thì kết quả cho thấy đu đủ xanh có gây sảy thai.
Và khi thử nghiệm chất chiết xuất từ nhựa đu đủ (papain, PLE) trên tử cung chuột ở các chu kỳ động dục và thai nghén khác nhau, kết quả cho thấy tác động của PLE gây co thắt tử cung xảy ra mạnh nhất là ở các giai đoạn sau của thai kỳ.
Đu đủ xanh (hoặc còn ương) thì sẽ có chất nhựa (mủ) không tốt cho phụ nữ mang thai. Ngoài ra, chất papain còn hoạt động giống như hormone prostaglandin và oxytocin gây ra co thắt tử cung. Nó cũng có thể gây ra phù và xuất huyết nhau thai – những biến chứng nguy hiểm trong thai kỳ, có thể dẫn tới sinh non.
Đó là những kết quả có được khi thử nghiệm trên chuột. Còn trên người chưa có bằng chứng về nguy cơ sảy thai do ăn đu đủ xanh. Vì lý do y đức nên không thể thử nghiệm tương tự như trên chuột. Nhưng "có kiêng có lành", các mẹ bầu được chuẩn đoán dễ sảy thai (hoặc đang ở giai đoạn cuối của thai kỳ) không nên ăn thường xuyên đu đủ xanh hay các món nộm (gỏi) có nguyên liệu là đu đủ xanh.
Tuy nhiên một khi đu đủ chín hoàn toàn thì sẽ không còn chất mủ này. Không những thế đu đủ chín còn có rất nhiều lợi ích.
Với những lợi ích dưới đây, các mẹ bầu hoàn toàn nên thêm đu đủ chín vào thực đơn của mình.
- Đu đủ còn là nguồn giàu vitamin B phức tạp, cần cho sự chuyển hóa các chất của cơ thể người mẹ. Kali có trong đu đủ giữ ổn định nhịp tim và huyết áp trong thời kỳ mang thai. Ngoài ra, đu đủ còn chứa chất chống sâu răng, viêm lợi cho thai kỳ.
- Nếu mẹ bầu nào không muốn bị tăng cân quá nhanh trong thai kì thì đu đủ chín là một lựa chọn sáng suốt vì đu đủ chín còn khá ít calo.
- Đu đủ tươi, chín có chứa nhiều vitamin C, chống lại tình trạng viêm và đau khớp. Nó còn có tác dụng thúc đẩy hệ miễn dịch.
- Loại quả này cũng chứa lượng cholesterol thấp nên an toàn cho bà bầu khi ăn mà không làm thay đổi nồng độ lipid trong cơ thể.
- Phần thịt của đu đủ chín là nguồn cung cấp chất xơ dồi dào, giúp phòng tránh và giảm táo bón trong suốt thai kỳ. Bởi vậy mẹ bầu có thể ăn đu đủ chín 2 - 3 bữa mỗi tuần để không bị táo bón.
Ăn đu đủ khi mang thai, lợi hay hại?
Đu đủ là thực phẩm bổ dưỡng, rất giàu vitamin A, C và khoáng chất. Tuy nhiên, ăn đu đủ hoặc dùng những sản phẩm từ đu đủ trong thai kỳ vẫn còn là một vấn đề gây tranh luận và đang được tiếp tục nghiên cứu.
Đủ đủ chín vẫn ăn được
Tại các nước phương Tây, nhất là Mỹ, người ta vẫn khuyên thai phụ nên dùng đu đủ chín (thật chín), vì đây là một loại thực phẩm chứa nhiều loại chất dinh dưỡng cần thiết cho thai nhi, với điều kiện phải thật chín và được dùng ở mức độ thích hợp.
Tại Mỹ, người ta còn tin rằng ăn đu đủ chín sẽ giúp thai phụ thoát khỏi tình trạng táo bón và ợ nóng (heartburn). Một số thai phụ đã ăn đu đủ (thật chín) hoặc đã dùng một số enzymes được bào chế từ đu đủ để ngăn ngừa chứng ợ nóng.
Bà bầu không nên ăn đu đủ xanh
Bác sĩ Hồ Ngọc Hồng, Trưởng khoa Nội 2, Viện Y Dược học dân tộc TP HCM, cho biết, một nghiên cứu của Viện Đại học Sussex (Anh) đã chứng minh tác động không có lợi của đu đủ đối với những phụ nữ đang muốn thụ thai. Thực phẩm này có tác dụng ức chế hoóc môn, làm ngăn cản quá trình thụ thai. Do đó, việc ăn đu đủ thường xuyên làm phụ nữ khó mang bầu.
Các nhà nghiên cứu cũng cho biết rằng chất mủ có rất nhiều trong đu đủ xanh đã tác động theo cách “nhái” với tác động của prostaglandin và oxytocin, là những chất mà cơ thể rất cần để khởi động cho giây phút ra đời của đứa trẻ.
Phụ nữ ở Ấn Độ, Pakistan, Sri Lanka đã dùng đu đủ như là một phương cách tránh thai truyền thống, do vậy có nhiều khuyến cáo rằng nếu đang có thai hoặc đang chuẩn bị để có thai, tốt nhất không nên ăn đu đủ, nhất là đu đủ xanh.
Tác dụng của đu đủ với các bệnh khác
Bác sĩ Hồ Ngọc Hồng cũng cho biết, đu đủ chứa rất nhiều carotenoid, có tác dụng hữu hiệu trong việc ngừa ung thư, chống ôxy hóa và các bệnh tim mạch. Nó cũng có ích cho người mắc bệnh xơ hóa túi mật, thiểu năng tuyến tụy. Nhựa đu đủ xanh và hạt sắc lên uống có thể chống ký sinh trùng đường ruột, kích thích chức năng hoạt động của gan, mật.
Ngoài ra, nước ép đu đủ còn chữa các bệnh rối loạn tiêu hóa như tiêu chảy, viêm ruột. Chất papain có hoạt tính kháng sinh, chống được vi khuẩn, dùng để điều trị lở loét, tiêu giả mạc trong bệnh bạch hầu, chống kết dính sau phẫu thuật.
Y học cổ truyền ở một số nước trên thế giới đánh giá cao tác dụng của đu đủ trong việc góp phần điều trị bệnh tiểu đường, hen suyễn. Đu đủ còn chứa protease, giúp phân giải mỡ rất nhanh.
CHĂM SÓC BÀ MẸ SAU KHI SINH
Cách chăm sóc phụ nữ sau khi sinh
6 giờ đầu sau đẻ thời gian dễ có biến chứng chảy máu nên sản phụ cần được cán bộ y tế chăm sóc, theo dõi. Thời gian này, sản phụ nghỉ tuyệt đối tại giường, ăn thức ăn dễ tiêu hóa, giàu chất dinh dưỡng, uống nước hoa quả để bổ sung vitamin, chất khoáng.
Thời gian cần thiết để cơ quan sinh sản hồi phục về cấu trúc và chức năng là 45 ngày. Sau đẻ 4-6 tháng, sức khỏe người mẹ mới coi là ổn định để có thể làm việc như trước. Muốn được như vậy, còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như vệ sinh sau đẻ, nghỉ ngơi, vận động và ăn uống. Khi đã hết nguy cơ chảy máu, sản phụ có thể vận động nhẹ nhàng giúp cho sự lưu thông sản dịch được dễ dàng, tránh ứ đọng, gây nhiễm khuẩn cơ quan sinh sản, tránh biến chứng viêm tắc tĩnh mạch sâu.
Nhu cầu về ăn uống: Tổng số calo cần bảo đảm khi cho con bú là 2.300-2.500 calo cho các bà mẹ sinh một con; 2.600-3.000 calo nếu sinh đôi. Vẫn nên tiếp tục ăn uống có chất lượng như khi đang có thai, đa dạng và cân đối. Chế độ ăn cân đối để phục hồi sức khỏe và giúp cho quá trình tạo sữa được tốt. Ăn bao nhiêu là đủ phụ thuộc vào sự ngon miệng, do đó nên ăn theo khẩu vị. Những loại thực phẩm sau đây có giá trị dinh dưỡng: thịt, hạt (đậu đỗ), các loại rau xanh, hoa quả (hoặc nước vắt chứ không phải nước hoa quả đóng chai), cơm, bánh mỳ, sữa, trứng, pho mai.
Chế độ ăn cũng cần đảm bảo đủ vi chất như sắt, kẽm, magiê, vitamin D, vitamin E và folic acid. Kẽm có trong thịt, trứng và ngũ cốc. Magiê có trong ngũ cốc, đậu đỗ, quả hạch. Vitamin E có trong mầm lúa mỳ, quả hạch, ngũ cốc và nhiều loại dầu. Thịt, trứng, bánh mỳ, ngũ cốc và mầm lúa mạch đều chứa nhiều chất sắt. Nhu cầu canxi khi cho con bú là 1,250mg (tương đương với khoảng một lít sữa tách bơ hay sữa đậu nành).
Cung cấp đủ lượng dịch: gồm nước và các loại dịch khác (nước vắt hoa quả, cháo loãng, sữa không kem…). Lượng dịch tổng thể từ 2-2,5 lít/ngày. Nếu các bà mẹ thấy nước tiểu của mình sẫm màu, cần tăng thêm lượng dịch uống.
Vận động: Tránh vận động nhiều, ít nhất là 6 tuần lễ sau đẻ. Trước khi vận động, nên làm cho hai bầu vú hết sữa vì vận động mạnh hai cánh tay có thể làm dòng sữa tiết ra. Tránh vận động thể thao nặng trong 2 tháng đầu sau đẻ vì dễ có nguy cơ gây chấn thương cho khớp. Bơi có lợi vì khớp, vú và sàn chậu được nước nâng đỡ.
Vệ sinh: Sau 3 ngày kể từ khi đẻ, sản dịch chỉ còn màu hồng, sau 10 ngày chỉ còn dịch vàng. Chỉ cần rửa ngoài bằng nước và xà phòng, không rửa sâu vào âm đạo. Ngày rửa 2 lần là đủ, kể cả khi có vết khâu tầng sinh môn. Tắm ở nơi ấm áp, kín gió không chống chỉ định sau đẻ.
Nên kiêng những gì?
- Không có căn cứ khoa học nào để kiêng tôm, cua, cá – những thứ có nhiều vi chất (kẽm, iod, canxi…), chỉ tránh khi gây dị ứng hay rối loạn tiêu hóa cho người ăn.
- Tránh hay hạn chế cà phê: vì nhiều quá làm cho trẻ quấy nhiễu.
- Rượu và đồ uống có độ cồn: nếu dùng đồ uống có độ cồn thì nên cho bú trước đã, sau khi uống rượu cũng cần phải đợi 1-2 giờ mới cho bú lại.
- Tránh hút thuốc lá: chất nicotin và các sản phẩm giáng hóa của nó có thể đi vào sữa và có thể làm cho trẻ tăng nhịp tim, quấy khóc, nôn và tiêu chảy, còn ảnh hưởng đến sự thèm ăn và ngon miệng của mẹ. Hút thuốc lá chủ động hay bị động (ngửi khói thuốc lá) có thể tăng nguy cơ trẻ bị hội chứng đột tử và tăng nhiễm khuẩn đường hô hấp và tai, dù trẻ được nuôi dưỡng bằng cách nào. Thuốc lá còn có thể ảnh hưởng đến sự xuống sữa (phản xạ tiết sữa) và có thể giảm lượng sữa.
- Tránh một số gia vị gây kích thích và tiết qua sữa: hành, tỏi, ớt, hồ tiêu.
- Kiêng quan hệ tình dục trong vòng 45 ngày sau đẻ. Sau thời gian đó, có thể sinh hoạt khi cả hai vợ chồng đều cảm thấy cần thiết.
Những dấu hiệu cần thông báo ngay cho bác sĩ?
Có nhiều vấn đề cần thông báo cho thầy thuốc, kể từ nhẹ đến nghiêm trọng:
- Đau vùng tầng sinh môn: có thể kéo dài 1-2 tháng.
- Bí đái hay không kìm giữ được nước tiểu: thường được chữa trị bằng châm cứu.
- Đau vùng thắt lưng, đau các cơ bụng kéo dài: gây hạn chế vận động.
- Rối nhiễu xúc cảm và tâm trí sau đẻ: thể hiện bằng trạng thái buồn tủi sau đẻ. Hay gặp ở phụ nữ sinh con đầu lòng, thường hồi phục sau 3 tuần. Trầm cảm sau đẻ kéo dài hơn.
- Sốt kéo dài sau đẻ: có thể do nhiễm khuẩn tầng sinh môn và nhất là viêm tử cung, có thể tiến triển thành viêm phần phụ và viêm tiểu khung.
- Nhiễm khuẩn sinh dục sau đẻ: sốt kéo dài sau đẻ, do nhiễm khuẩn tầng sinh môn và nhất là viêm tử cung, có thể tiến triển thành viêm phần phụ và viêm tiểu khung.
- Sản giật sau đẻ: có thể xảy ra vài giờ sau đẻ nhưng cũng có khi muộn, nhiều ngày sau đẻ. Những dấu hiệu cần cảnh giác cũng vẫn là mỏi mệt, nhức đầu, phù hai chi dưới kéo dài, huyết áp cao trên 140/90, đái ít dưới 500ml/24 giờ, protein trong nước tiểu vẫn cao trên 0,5/l, vì thế sau đẻ vẫn cần theo dõi chặt chẽ. Cũng có khi sản giật sau đẻ xảy ra mà không có dấu hiệu báo trước. Biến chứng đáng lo ngại nhất là xuất huyết não, tổn thương thận gây bệnh thận mạn tính.
- Sưng nề chi dưới, đau, da lạnh, tím tái. Thường do huyết khối tĩnh mạch sâu ở cẳng chân: vận động sớm là biện pháp phòng ngừa tốt nhất.
- Khó thở, đau ngực, tím tái: cần khẩn cấp đưa đến bệnh viện.
BS. Đào Xuân
(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)
Chăm sóc bà mẹ sau khi sinh
Chăm sóc vú: Khi mang thai ở 3 tháng cuối, thai phụ đã bắt đầu có sữa non. Tuy nhiên trước tuần thứ 37, thai phụ không nên nặn hay tác động nhiều vào bầu ngực vì có thể gây co bóp dạ con, dẫn đến nguy cơ sinh sớm.
Sau 37 tuần, thai phụ có thể lấy hai ngón tay vê kéo đầu vú, mát-xa vuốt theo chiều từ trên xuống, từ ngoài vào trong rồi từ trong ra ngoài để tuyến vú co bóp và giúp cho việc tiết sữa sau này tốt hơn.
Sinh xong khoảng 2-3 ngày, thai phụ sẽ có sữa trưởng thành. Có nhiều người sẽ thấy vú cương cứng và nhầm là bị tắc tia sữa. Thực ra, hiện tượng này sẽ hết sau vài lần bé bú. Đừng vì thấy sữa mẹ chưa về mà cho bé bú chai ngay, dẫn đến sau này bé không quen bú mẹ, khiến mẹ tức sữa, con không bú và sẽ gây tắc thật. Ngoài ra, để giảm đau tức, các bà mẹ nên đứng tắm dưới vòi hoa sen, mát-xa nhẹ nhàng và bóp nhẹ ở quầng nâu của vú. Nếu đau quá, bạn có thể dùng đèn hồng ngoại chiếu mỗi bên nửa tiếng kết hợp với xoa bóp nhẹ nhàng. Nếu đau núm vú do bé bú, rứt, chị em có thể dùng núm vú giả để hỗ trợ.
Chăm sóc bộ phận sinh dục: Khi mang bầu ở thời điểm sắp sinh, dạ con to như chiếc thùng 5-10 lít. Khi sinh xong, chị em có thể sờ thấy một khối cứng ở dưới rốn (thường to bằng quả bưởi), đó chính là dạ con chưa thể co hồi lại như ban đầu. Thường khoảng sau 21 ngày hoặc muộn nhất là 1 tháng. Dạ con sẽ co lại như bình thường (nếu mổ đẻ thì sẽ mất nhiều thời gian hơn). Nếu dạ con không co chặt lại thì có thể gây băng huyết, rong máu. Để tránh điều này, người mẹ nên đi lại nhẹ nhàng và cho con bú ngay sau khi sinh.
Sau sinh, sản phụ sẽ thấy có nhiều sản dịch. Đây chính là máu ra sau sổ rau. Thường trong giờ đầu sau đẻ, lượng máu có thể lên đến 100ml nên sản phụ cần được đóng bỉm to, những ngày sau đó có thể dùng băng vệ sinh bình thường và nên thường xuyên thay rửa. Nếu thấy lượng máu ra quá nhiều, quá nhanh, sản phụ cần báo ngay cho bác sĩ để tránh nguy cơ bị băng huyết. Nếu sinh xong, sản phụ thấy rất ít hoặc không có sản dịch thì cũng nên lưu ý bởi nếu dịch không thoát ra được, tử cung khó co lại dễ gây nhiễm trùng hậu sản, dẫn đến nguy cơ nhiễm trùng huyết. Để tránh điều này, các bà mẹ sau khi sinh cần nằm bất động trên giường trong khoảng 8-10 giờ (đối với người sinh mổ, cần nằm bất động 24 giờ), sau đó nên đi lại nhẹ nhàng. Tiếp sau đó dần dần sản phụ cần ngồi dậy từ từ, hít thở sâu, nhắm mắt rồi chậm rãi đưa chân xuống đất trước khi đứng thẳng dậy. Nếu thấy chóng mặt, sản phụ cần nằm xuống để máu lưu thông lên não đề phòng bị choáng ngất, bị ngã.
Đặc biệt, sản phụ nên tránh bị táo bón bằng cách ăn nhiều rau, trái cây, uống nhiều nước. Trong trường hợp bị trĩ, sản phụ có thể dùng thuốc bôi để đỡ đau. Ngoài ra, ngay sau khi sinh người mẹ có thể tập khít cơ niệu đạo, cơ âm đạo để tránh bị són tiểu sau này bằng cách: Khi thở hít vào thì co khít cơ âm đạo, lúc từ từ thở ra thì đồng thời giãn cơ âm đạo hoặc luyện tập giống như khi đang đi tiểu thì nhịn lại 1-2 giây rồi thả ra, lặp lại vài lần như vậy. Trong trường hợp bị bí tiểu, sản phụ có thể chườm nóng, tắm nước nóng, day ở vùng xương mu, xoa nắn bụng…
Sau 3 tuần hết sản dịch, có người đã có máu trở lại (gọi là kinh non) lúc này cần sử dụng ngay các biện pháp tránh thai. Việc có thai lại sớm rất nguy hiểm với người mổ đẻ, có thể gây nứt sẹo mổ, vỡ dạ con, mất em bé, hại cho mẹ.
Sau sinh, các bà mẹ cũng cần chú ý đến vết khâu tầng sinh môn bằng cách rửa sạch, giữ khô, nếu dùng dung dịch vệ sinh, nên dùng loại có bọt, có thể dùng máy sấy làm khô. Nếu sau 4 ngày sản phụ không thấy giảm đau, nhức thì có thể đã bị dị ứng chỉ khâu, nên đến bác sĩ để được cắt chỉ sớm hoặc xử lý nếu bị nhiễm trùng. Thường sau một tuần, vết khâu tầng sinh môn sẽ liền hẳn.
Tùy cơ thể từng người, chị em có thể tắm gội vài ngày sau sinh nhưng không nên tắm bồn. Nếu mệt, không nên tắm và gội liền một lúc và chớ cúi lom khom sẽ dễ gây chóng mặt, ngã qụy… Chị em cần được ngủ đủ, nghỉ ngơi hợp lý và sống trong không khí yêu thương chăm sóc của gia đình.
Về dinh dưỡng: Sau khi sinh, các bà mẹ thường bị mất máu nhiều nên cần được bồi dưỡng, ăn những thực phẩm giàu dinh dưỡng. Sản phụ không cần phải kiêng khem bất cứ thứ gì, nhưng nên ăn thức ăn dễ tiêu, tránh ăn nhiều các gia vị như ớt, hạt tiêu…, không uống bia, rượu vì sẽ ảnh hưởng đến tiết sữa, hạn chế đồ lạnh, hải sản lạnh trong 6 tuần đầu sau sinh. Để có đủ sữa, ngoài việc tích cực cho con bú, các bà mẹ nên uống đủ 3 lít nước mỗi ngày (bên cạnh nước lọc có thể uống nước nhân trần, sữa đậu nành, nước hoa quả, sữa…).
Các vấn đề sức khoẻ cần lưu ý sau khi sinh cho mẹ và cho bé
Do sức ép của tử cung lúc rặn đẻ, đầu bé có thể hơi biến dạng nhưng sẽ trở lại bình thường sau 2 tuần
Vậy là mẹ và bé đã gặp nhau sau bao tháng ngày mong đợi. Tình thương của mẹ dành cho bé giờ lại càng đầy ắp và được cụ thể hoá hơn qua việc chăm bẵm cho bé từng miếng ăn, giấc ngủ.
Thể trạng của bé khi mới chào đời: Do sức ép của tử cung lúc rặn đẻ, đầu bé có thể hơi biến dạng nhưng sẽ trở lại bình thường sau 2 tuần. Tay và chân có sắc xanh do hệ tuần hoàn chưa hoạt động thích nghi. Những đốm đỏ hay những vết sần sùi xuất hiện trên da là bình thường và sẽ biến mất sớm. Lúc mới sinh, ruột bé chứa một chất màu sậm, dính gọi là phân su. Sau khi bú, phân sẽ đổi màu. Mẹ nên cho bé bú theo nhu cầu, không nên canh theo giờ, cũng không nên để bé ngủ quá lâu trên 4 giờ mà chưa đậy bú.
Dinh dưỡng cho mẹ: Qua hành trình vượt cạn, mẹ mất nhiều máu, mệt mỏi do co hồi dạ con nên ăn uống không ngon miệng ngay được. Cung cấp năng lượng cho mẹ bằng thức ăn loãng, hấp thu nhanh và dễ tiêu hoá. Một ngày sau sanh, mẹ có thể ăn uống trở lại bình thường.
- Sữa mẹ chứa 80 –90% là nước nên mẹ phải uống nhiều nước, tốt nhất là sữa tổng hợp dưỡng chất thiết yếu cho bé và thức ăn loãng.
- Ăn thức ăn có đầy đủ chất đạm, vitamin, muối khoáng… Ăn quá nhiều gia vị làm ảnh hưởng mùi vị sữa mẹ, bé sẽ chê sữa mẹ. Ăn quá mặn sẽ gây phù, cao huyết áp, nguy hiểm cho sức khoẻ của mẹ.
- Không nên kiêng khem nếu mẹ thấy ngon miệng, cần ăn nhiều rau, trái cây để chống táo bón.
Lưu ý: Nếu mẹ bị lở đầu vú, đầu vú nhỏ, bị tụt vào trong, có thể vắt sữa ra cốc và cho bé uống bằng thìa nhỏ. Trường hợp mẹ bị bệnh lý chống chỉ định cho con bú bằng sữa mẹ như: viêm gan, suy tim… có thể nuôi bé bằng sữa công thức. Điều chỉnh lượng sữa, số lần bé bú một ngày dựa vào sự tăng cân và chất lượng phân của bé. Nếu bé bị táo bón có thể do pha ít sữa nhiều nước. Phân loãng và có hột, bé đi tiêu trên 10 lần một ngày có thể do pha quá nhiều sữa, bé không tiêu hoá được hết. Nên chọn loại sữa phù hợp với cho từng tháng tuổi của bé./.
Theo Phụ nữ TPHCM
Món cháo chống táo bón sau sinh
Khi bị táo bón sau sinh, cần ăn các thức ăn mềm, những loại thực phẩm dễ tiêu.
Đông y cho rằng, sau sinh do mất máu nhiều khiến khí huyết mất thăng bằng, nước và tân dịch bị suy hao làm ảnh hưởng tới chức năng nhu động của ruột, phân chậm tống ra ngoài nên quá trình lưu lại ở ruột bị đại tràng hút kiệt nước, phân rắn lại mà sinh táo bón. Lúc này sản phụ thường biểu hiện tình trạng âm hư hỏa vượng khiến sắc mặt không tươi nhuận, mà hanh vàng, da khô, miệng nhạt, rêu lưỡi mỏng, mạch lý…
Các thức ăn cần thiết lúc này là thức ăn mềm, loại thực phẩm dễ tiêu, nhiều chất cellulose như các loại rau, quả tươi (đậu bắp, khoai lang…). Lưu ý không ăn các loại thực phẩm có tính nóng kích thích như tiêu, ớt, uống cà phê, trà, rượu, hút thuốc lá… Tốt nhất là cần kết hợp chọn dùng một số món ăn bài thuốc để vừa an toàn, hiệu quả cho cả mẹ lẫn con mà chứng táo bón cũng hết.
Tùy chọn một món ăn trong số các món ăn dưới đây, dùng cho đủ số ngày từng đợt, sau đó muốn ăn tiếp thì có thể thay đổi món khác thích hợp.
Cháo khoai lang: Khoai lang 200g, nghệ vàng 10g, đường đỏ 50g. Nghệ rửa sạch giã nhỏ, khoai lang rửa thái miếng, cho cả vào nồi đổ nước vừa đủ đun cho khoai nhừ, khuấy đều thành cháo, cho đường đỏ vào để sôi lại chốc lát là được. Ngày ăn 2 lần vào lúc đói. Khi thấy đại tiện ngày 1 lần (hết táo bón) thì ngừng ăn.
Cháo mè (vừng) đen: Mè đen 30g, gạo tẻ 100g, gạo nếp 50g, thịt heo nạc 100g, dầu, gia vị vừa đủ. Xay nhỏ gạo và mè đen, thịt heo xay hoặc băm nhỏ, ướp đủ mắm muối rồi cho dầu vào xào chín. Cho gạo, mè đen đổ đủ nước vào nấu nhỏ lửa đến lúc cháo nhừ cho thịt băm đã xào vào khuấy, để cháo sôi lại là được. Ngày ăn 2-3 lần vào lúc bụng đói, cần ăn 3-5 ngày liền.
Cháo cà rốt: Cà rốt 200g, rau bắp cải 100g, gạo tẻ 100g, thịt heo nạc 100g, dầu, mắm muối vừa đủ. Cà rốt cạo sạch vỏ ngoài rồi nạo hay mài nhỏ. Bắp cải làm sạch thái nhỏ, gạo xay bột. Thịt heo nạc rửa sạch băm nhỏ ướp muối, rồi cho dầu xào chín. Cho bột gạo vào nồi đổ đủ nước, dùng lửa nhỏ đun sôi nhừ, cho cà rốt và bắp cải vào để sôi tiếp thì cho nốt thịt heo băm đã xào vào, sôi nhào là được. Ngày ăn 1 lần, cần ăn liền 3-5 ngày.
Cháo cật heo: Cật heo 1 đôi chừng 250g, gạo tẻ 100g, nghệ vàng 10g, mắm muối vừa đủ. Giã nhỏ nghệ sau khi rửa sạch, cật heo làm sạch, thái miếng ướp mắm muối, nghệ, để 10 phút thì cho vào kẹp nướng chả để trên than hồng cho chín. Cho gạo đã xay bột, đổ vừa nước, nổi lửa nhỏ đun nhừ thành cháo thì cho cật heo vào, vẫn để nhỏ lửa cho sôi chừng 10 phút nữa là được. Ngày ăn 1 lần, cần ăn 2-3 ngày.
BS Tuấn Linh – BS Minh Nguyệt
Ăn gì để tốt sữa sau sinh?
(Ba bau) – Ăn gì để có nhiều sữa sau sinh luôn là nỗi trăn trở của rất nhiều sản phụ. Mời các bạn cùng tham khảo những loại thực phẩm dưới đây.
Chúng ta vẫn thường nghe nói, sau khi sinh nở phải kiêng kị rất nhiều đồ ăn trong suốt 3 tháng 10 ngày. Vậy có những gì chị em có thể ăn được để vừa tốt cho sức khỏe lại nhiều sữa cho con?
Móng giò hầm đu đủ
Đu đủ chứa nhiều prtein, chất béo, các loại vitamin A, B, C, D, E… Nấu cháo cùng móng giò và đu đủ xanh là một trong những cách giúp lợi sữa, thông sữa rất hiệu quả cho các bà mẹ đã được lưu truyền và sử dụng rộng rãi. Mặt khác, món ăn này cũng giúp trị chứng ít sữa hoặc sữa quá loãng.
Nếu không nấu đu đủ cùng chân giò thì có thể thay thế chân giò bằng cá chép hoặc cá quả cũng có hiệu quả tăng cường sữa.
Hoa chuối
Hoa chuối lá hoặc chuối tiêu thái nhỏ, luộc chín ăn hoặc trộn nộm với lạc, vừng rang, ăn 2- 3 bữa liền cũng giúp thông sữa rất tốt.
Hạt bí
Làm tăng sữa cho sản phụ sau sinh: mỗi lần uống 15 – 20g hạt bí ngô sống, ngày uống 2 lần vào buổi sáng và tối. Cách làm: bỏ vỏ hạt lấy nhân giã nát hòa với nước uống khi đói bụng. Cần uống liền 3 – 5 ngày sẽ hiệu quả.
Rau đay
Tuần đầu tiên sau khi sinh, sản phụ có thể ăn hằng ngày 150-200g rau đay vào bữa ăn chính, các tuần sau mỗi tuần ăn hai lần với từ 200-250g thì lượng sữa tăng, trong sữa lượng chất béo cũng tăng lên.
Rau khoai lang
Rau khoai lang luộc hoặc xào ăn hàng ngày vừa giúp nhuận tràng, vừa lợi sữa.
Nấu cháo rau mùi
Hạt mùi 12g, gạo nếp lức 30g, nấu cháo ăn, hoặc hạt mùi 6 g cho vào ấm cùng 100 ml nước, đun sôi khoảng 15 phút, lấy nước thuốc chia làm 2 phần uống hết trong ngày sẽ giúp lợi sữa.
Quả sung
Trong 100g quả sung có chứa các chất sau: protein 1g, chất béo 0.4g, đường 12.6g, Ca 49mg, P 23mg, Fe 0.4mg, caroten 0.05mg, dẫn xuất không protein 12.3g, khoáng toàn phần 3.1g.
Ăn rau ngót, tránh rau cải
Sau sinh, sản phụ cũng nên nên uống canh hoặc nước rau ngót. Nó có tác dụng làm co tử cung sau sinh, sạch máu. Rau phải được rửa thật sạch để tránh bị rối loạn tiêu hóa. Tuyệt đối không nên sử dụng rau cải xanh vì sẽ gây tiểu tiện nhiều và dễ làm rối loạn tiêu hóa.
Bí kíp tránh mệt mỏi cho bà mẹ sau sinh
Những bí kíp nhỏ dưới đây sẽ giúp bạn tránh được mệt mỏi và nhanh làm quen với cuộc sống sau sinh.
Sau khi sinh nở, chị em bầu rất dễ mắc triệu chứng trầm cảm do phải kiêng kị và ở cữ quá lâu. Vậy làm thế nào để hạn chế nguy cơ mắc bệnh và nhanh bắt nhịp với cuộc sống khi gia đình có thêm một thành viên mới?
Nhờ sự giúp đỡ
Đừng ngại đề nghị người nhà giúp bạn chăm con. Hãy nói cho họ biết cách làm và thời gian chăm sóc bé cùng bạn. Nên phân chia trách nhiệm rõ ràng cho chồng, ngay cả khi anh ấy không mấy hứng thú.
Chấp nhận giúp đỡ
Nhiều người mẹ thích ôm đồm mọi thứ. Đây là một sai lầm. Công việc chăm con mọn vất vả hơn những gì bạn đã hình dung. Mất ngủ, thức khuya là điều khó tránh. Tốt nhất, hãy san sẻ trách nhiệm này với chồng của bạn, ông bà của bé hoặc người trông bé.
‘Nuông chiều’ bản thân
Nuôi con tiêu tốn nhiều thời gian và sức lực. Điều quan trọng là bạn cần “sạc” lại năng lượng cho mình thường xuyên. 30 phút thư giãn trong bồn tắm, đọc một cuốn sách ngắn, đi bộ với 1-2 người bạn giúp bạn sảng khoái tinh thần. Hãy suy nghĩ và thực hiện 1-2 việc thư giãn mà bạn có thể làm trong vòng 1 tiếng đồng hồ.
Ngủ bất cứ khi nào bạn có thể
Bạn nên cô gắng nghỉ ngơi bất cứ khi nào bé ngủ hoặc được người thân chăm sóc. Bạn đừng lo nghỉ ngơi nhiều sẽ lãng phí thời gian. Thực sự, khi nghỉ đúng cách thì bạn sẽ khỏe mạnh, mà khỏe mạnh thì làm được nhiều việc dễ dàng hơn.
Sống chậm
Có thể bạn đã quen với cách sống gấp gáp trước khi làm mẹ. Khi có con nhỏ, bạn thử sống chậm chậm rãi và đừng lo lắng nhiều.
Chia sẻ kinh nghiệm với những người mẹ khác
Thông qua chia sẻ, bạn sẽ thấy những người mẹ khác cũng mệt mỏi và kiệt sức giống như mình. Những người cùng cảnh ngộ thường có sự đồng cảm và giải pháp hỗ trợ nhau. Bạn có thể gặp gỡ những người mẹ khác qua diễn đàn, qua những lớp chăm sóc con nhỏ hoặc các nhóm xã hội khác…
Đối mặt với khó khăn
Có con sẽ làm thay đổi rất nhiều cuộc sống của bạn. Bên cạnh niềm hạnh phúc, bạn còn gặp phải vô vàn khó khăn khi nuôi con. Bạn có thể mỉm cười nhưng cũng không tránh khỏi có lúc phát khóc vì con. Đó là chuyện bình thường. Hãy bình tĩnh, thư giãn, bạn sẽ biết cách vượt qua khó khăn.
Tránh áp lực với tiếng khóc của bé
Khóc là cách giao tiếp của bé. Vì thế, bạn đừng hoang mang khi nghe tiếng con khóc. Hãy thoải mái và bình tĩnh tìm hiểu nguyên nhân gây khóc cho con. Từ đó, bạn sẽ chọn được cách ứng phó hiệu quả.
Tránh kỳ vọng thái quá
Nhiều cha mẹ kỳ vọng rằng, bé sẽ trở thành thiên tài hay người nổi tiếng. Mong đợi về con không xấu nhưng cần thực tế. Có như thế, bạn mới giảm bớt được áp lực không đáng có. Cuộc sống của bé còn rất dài ở phía trước và bạn còn nhiều thời gian chăm sóc, giáo dục con thật tốt.
Đau lưng sau khi sinh nguyên nhân và cách điều trị
Sau khi sinh có nên nịt bụng
Sau khi sinh có nên dùng mỹ phẩm
Sau khi sinh bao lâu thì tắm gội được
Sau khi sinh có nên đánh răng
Sau khi sinh bao lâu thì tử cung co lại
Sau khi sinh làm sao cho bụng nhỏ lại
(st)