Trong "Kinh thi" có câu : "Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu ta có thể suy ra ý của người xưa muốn nói khát vọng tình dục bao giờ cũng hướng tới người khác giới, theo đuổi mộng mơ người khác giới là bản chất của loài người, như là gái trai tuổi xuân mơn mởn, hương sắc đương thì, nhìn thấy nhau là bị cuốn hút. Thế mà lại có một số người không muốn theo quy luật bất biến vĩnh hằng, nghĩa là họ chỉ yêu người cùng giới, người ta đặt cho dạng này là "đồng tính luyến ái".
Luyến ái đồng tính đã trở thành một trong những hiện tượng xã hội quan trọng ở cả' phương Tây hay phương Đông. Hiện tượng đồng tính luyến ái phổ biến khá rộng, có gốc rễ lâu dài, xưa có nay vẫn còn, trong các nền văn hoá cổ kim đều chiếm một vị trí, ngày nay còn phát triển nhiều và mạnh hơn ngày xưa. Theo con số thống kê thì vào những năm 60 - 70 ở Mỹ đã có hơn 10 vạn cặp đồng tính, họ tổ chức cuộc mít tinh lớn hô hào được công khai bình đẳng, nhiều nhân vật lỗi lạc, đều có tiền sử 'đồng tính". Ví dụ: Platon, Lêonade Vinci, Mi Ken Lăngzơ, Roger Bacon. . . Gần đây nếu không bị hiểm hoạ AIDS giáng cho một đòn chí mạng, thì đồng tính, luyến ái sẽ lan tràn theo quy mô toàn cầu, trong số những người đồng tính tỷ .lệ mắc bệnh AIDS rất cao, đó cũng là một cơ hội để chúng ta đi sâu tìm hiểu hiện tượng này.
Nói chung xã hội lên án đồng tính luyến ái là sa đoạ là ám muội, dư luận từ lâu đã phê phán, ví dụ bậc thầy của khoa học tình dục Kinxi cũng đã lên tiếng phản đối. Ngay từ thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên, người ta đã lên án hiện tượng đồng tính luyến ái (đặc biệt là giữa đàn ông với nhau), nó gắn bó với lịch sử Do Thái, từ Babilon bị phát vãng trở về trước thì mọi sự tiếp xúc của cơ thề con người dù là bằng miệng hay bộ phận sinh dục, đều có liên quan đến các lễ nghi tôn giáo. Trong quá trình dựng nước và phát triển người Do Thái muốn tạo một sự khác biệt đối với các nước xung quanh, họ tìm cách phá vỡ nhiều phong tục tập quán về mặt đời sống hôn nhân xã hội đã cùng nhau vun đắp và hưởng thụ rất nhiều đời với các nước láng giềng. Các bản pháp quy của người Do Thái chủ yếu lên án những phương thức sinh hoạt thể hiện tư tưởng của Canaan, Carít và đạo Cơ đốc, cách lên án của họ không phải là quy kết tội lỗi mà biến những thứ đó thành thần tượng để sùng bái. Trải qua cả một thời kỳ trung thế kỷ, người ta coi đồng tính luyến ái là chuyện dị đoan, đứng về phương diện cải cách quan niệm tập tục và đạo đức, thì đồng tính luyến ái bị coi là thuộc phạm trù đạo đức và cuối cùng bị quy kết là hành động phạm tội trước luật pháp.
Kinxi còn cho biết thêm, các loài động vật có vú cũng như nhiều loài động vật khác đều tồn tại hiện tượng đồng tính luyến ái, nếu coi hoạt động giữa giống đực và giống cái của loài động vật có vú thấp hơn hẳn loài người cũng thuộc phạm trù sinh hoạt tình dục thì chính là một sự xuyên tạc, nếu coi đó là hình tượng nguyên sơ của loài người chứ không phải là một kết luận thông qua quan sát động vật có vú thì có phần xác đáng hơn. Theo Kinxi giữa các loài động vật, giống cái thường hay xảy ra cái gọi là "đồng tính luyến ái" hơn. Ví dụ loài chuột, Cavia Cobaya, thỏ, nhím, mèo, ảnh dương, bò ngựa, lợn, sư tử, dê, khỉ, tinh tinh v.v... những người chăn bò cho biết bò cái hay trèo lên lưng con bò cái khác.
Người ta không ngớt tranh cãi về nguồn gốc của đồng tính luyến ái, chưa ngã ngũ là nó thuộc nguồn gốc sinh vật học hay tâm lý học, vì lập luận của cả hai bên đều có phần không vững chắc. Người đại diện cho phái phân tích tinh thần là Floid cho rằng do "bị ám ảnh bởi nỗi khiếp sợ trong tình dục khác giới". Ví dụ hồi bé đã có kỷ niệm đáng sợ về chuyện tình dục khác giới, sau này lớn lên đâm ra sợ sệt sự tiếp xúc với người khác giới. Những người theo phái "hành động" thì lại nghĩ rằng vì tác động của hoàn cảnh, có thể trong mối giao tiếp với người khác giới đã từng bị thua thiệt hoặc để lại những kỷ niệm không vui nên không muốn ảnh hưởng đến quá trình phát triển bình thường của tâm lý. Các nhà theo phái sinh vật học thì cho rằng mức độ kích thích tố đóng vai trò quyết định, thực tế thì phần lớn chị em đồng tính luyến ái vào giai đoạn sau tuổi thanh xuân đều có kích thích bình thường, trong đó 1/3 số chị em có biểu hiện tăng cao về kích thích tố giống đực: Tuy nhiên phát hiện này không đủ để tạo ra định hướng đồng tính luyến ái cho chị em. Cũng còn. một cách suy đoán rằng tình trạng kích thích tố trước khi chào đời cũng không thể định hướng sự phát triển của hành vi tình dục sau này. ảnh hưởng của kích thích tố giống đực đối với hành vi tình dục của chị em không rõ ràng mãnh liệt như ở nam giới, mà giữa phụ nữ với nhau thì sự khác biệt về mặt này cũng khá lớn. Một số nhà khoa học còn muốn dùng lý luận về di truyền hoá để giải thích hiện tượng đồng tính luyến ái, nói một cách nôm na là có nòi, khi sinh ra đã thế rồi, nhưng họ tìm được quá ít chứng cứ, không đủ để chứng minh lập luận của mình.
Phải chăng những người đồng tính luyến ái muốn khai thác mối quan hệ xác thịt giữa những người cùng giới, đó cũng là một sự biến hoá bình thường của sự sóng trong thế giới tự nhiên, nếu như họ chỉ đặt toàn bộ hứng thú vào bộ phận sinh dục thì mới bị coi là không bình thường; còn sự gần gũi tiếp xúc không gắn liền với kích thích bộ phận sinh dục thì không bị coi là trái với quy luật tự nhiên.
Người ta vẫn không cho phép người không có quan hệ hôn nhân ôm ấp sờ mó lẫn nhau, làm như vậy bị coi là quan hệ tình đục bừa bãi, thực ra thì sự cấm đoán đó gây cho con người sự ức chế và làm cho tình cảm trở nên xa lạ, nhất là giữa phụ nữ với nhau, tại sao khi hai người bạn thân thiết ở bên nhau lại không được ôm nhau hoặc hôn nhau. Khi không thể làm việc đó theo ý muốn, trong lòng họ sẽ cảm thấy có sự mâu thuẫn không yên, dường như mình đã làm điều gì đó không nên không phải, cần phải đè nén xuống và dẹp bỏ nó đi, làm cho cảm giác lúc đầu với đối phương là hấp dẫn sau chuyển thành chán ghét và xa lánh. Hiện tượng này khá phổ biến và dường như ai cũng trải qua, dù chỉ là một ý nghĩ thoáng qua giữa những người bạn cùng trang lứa.
Phụ nữ có hệ thống cảm hứng tình dục khác với nam giới, nó bị đánh thức trong cùng một lúc trên khắp cơ thể, trong khi nam giới bị thôi thúc chủ yếu ở bộ phận sinh dục. Cho dù phụ nữ đạt mức rung động cảm hứng cao, thì ở những khu vực nhậy cảm, ví dụ mức độ tiết dịch nhờn ướt ở bộ phận sinh dục vẫn không lộ liễu bằng nam giới, nói cách khác là phụ nữ có khả năng thể hiện cảm hứng tình dục của mình, nam giới dễ đàng nhận biết điều đó và gọi là cơn rung động sắc dục, trong thi đấu thể thao hoặc trong quan hệ mẹ con, nhiều khi phụ nữ cũng rơi vào tình trạng bị kích động tình dục .
Tuy nhiên, nhìn chung phụ nữ không thích bị một phụ nữ khác đeo đuổi, nghĩa là rất khó biểu hiện cảm hứng tình dục trước một người cùng giới, đó là vì những cơn thèm khát giữa phụ nữ với nhau xảy ra quá thường xuyên hoặc bị che lấp bởi những mối quan hệ giao lưu khác không có liên quan gì đến tình dục, hơn nữa những mối giao lưu này lại chiếm địa vị chủ đạo, họ thường không bao giờ nghĩ rằng mình lại có thể trở thành bạn tình của nhau. Và để cho những cảm hứng đó tiêu tan theo thời gian, còn một giả thiết cuối cùng là do trong sinh hoạt tình dục, phụ nữ thường đóng vai trò thụ động, nền giáo dục truyền thống đã rèn luyện một thói quen ở phụ nữ là hãy để cho đàn ông khơi gợi cảm hứng tình dục của họ, vì đàn ông bao giờ cũng là người phản ứng mau lẹ và cuồng nhiệt hơn. Như vậy dường như làm tăng giá của người phụ nữ lên, họ trở thành người ban ơn cho nam giới chứ không phải là để thoả mãn cơn thèm khát của bản thân, dần dần hình thành một loại phản ứng tình dục do đàn ông khơi gợi lên. Đương nhiên cá biệt cũng có trường hợp nữ bị kích động trước rồi chủ động khơi gợi nam giới bằng chính những biểu hiện gợi cảm của mình, hai người bắt đầu thấy căng thẳng cấn cá đến mức không thể che giấu được nữa. Có thể trong những hoàn cảnh cụ thể nào đó, cảm hứng tình đục không có cơ hội phát triển cùng đưa hai người vào tình thế khó xử, giữa hai phụ nữ thì khi xảy ra cảm hứng tình dục, họ sẽ cố gắng tìm cách loại trừ nó ra, nhưng nếu một trong hai người đó chủ động phát huy cảm hứng, biểu hiện ra bằng những động tác cụ thể và ý nghĩa rõ ràng, và được người thứ hai hưởng ứng thì sẽ hình thành đồng tính luyến ái.
Theo kết quả điều tra thống kê của Kinxi và Hăngri thì có khoảng 12% phụ nữ thực sự đồng tính luyến ái hoặc tỏ rõ mong muốn ' đồng tính tuyến ái. Tuy nhiên quan điểm và hành động của conn người không phải là bất biến, trong một thời gian, một hoàn cảnh thì họ tạo dựng mối quan hệ thư thế, nhưng ở thời gian và hoàn cảnh khác, họ lại thay đổi nó đi, do vậy nhiều phụ nữ trong suốt cuộc đời của mình đã từng nếm trải chuyện đồng tính luyến ái với thời gian khá dài hay chỉ trong hốc lát. Nhìn chung người ta quy nạp thành banguyên nhân dẫn đến đồng tính luyến ái là: sinh tâm lý và xã hội, cụ thể là:
(l) Giữa phụ nữ với nhau rất dễ thể hiện cảm giác, sở thích, nhậy cảm, thông cảm, đồng cảm và thông hiểu.
(2) Về tình cảm, không có bờ rào ngăn cách họ thổ lộ hết với nhau mọi ước muốn thèm khát, có thể biểu hiện hết mình.
(3) Da thịt của phụ nữ mềm mỏng mát mẻ, khi cọ xát với nhau gây cảm giác mạnh hơn.
(4) Đều là phụ nữ nên ai cũng có quyền chủ động khơi gợi cảm hứng tình dục.
(5) Giữa phụ nữ với nhau dễ đạt đến cao trào tình dục hơn.
(6) Họ không bị ám ảnh bởi sự ức chế của quan điểm truyền thống trọng nam khinh nữ.
Tóm lại, trong ba yếu tố sinh lý, tâm lý và xã hội thì có thể có một, hai, hoặc cả ba yếu tố cùng gây tác dụng. Đồng tính luyến ái có thể là kết quả của cả ba yếu tố đó cùng tác dụng, hiện đã trở thành một hiện tượng xã hội, có thể coi là một hướng phát triển trái khoáy của tâm lý tình dục nhưng không bị coi là bệnh hoạn, càng không thế xếp vào dạng tâm thần, nếu cần chữa trị thì chủ yếu nặng về tư vấn tâm lý. ở Trung Quốc, đồng tính luyến ái chưa có đất phát triển, nhưng ở phương Tây thì khá lan tràn. Ví dụ riêng vùng Sanfrancisco nước Mỹ có khoảng 20% nam giới tham gia đồng tính luyến ái, một điều đáng chú ý là mặt bằng trí tuệ của những người này lại cao hơn người thường, người ta nêu ra nhiều giả thiết nhưng vẫn chưa đủ sức thuyết phục.
Do đại dịch AIDS lan tràn, trong đó 3/4 số người nhiễm HIV lại thuộc nhóm đồng tính luyến ái do đó những người này bị dư luận xã hội Mỹ chỉ trích nặng nề, được ví như con chuột chạy qua phố bị mọi người đuổi đánh. Con số thống kê khiến chúng ta giật mình. Ở Mỹ hiện có 11 triệu người đồng tính luyến ái, trước đây họ tổ chức các hiệp hội, biểu tình thị uy đòi hỏi quyền lợi được xã hội đối xử công bằng, gần đây chuyển hướng sang phương án chúng bạo lực. Người ta xì xào bàn tán rằng trời sinh ra bệnh AIDS là nhằm trừng phạt những kẻ chống lại luân thường đạo lý, những kẻ dâm ô cuồng loạn, người ta thấy hể hả khi hội đồng tính luyến ái bị đòn đau chí mạng. Những người đồng tính luyến ái cũng đành ngậm miệng chịu lép một bề, thấp thỏm lo sợ, chờ ngày tận số.