Thuốc đông y chữa bệnh đường ruột hiệu quả cao. Hãy tham khảo các bài thuốc đông y sau đây để bệnh đường ruột biến mất nhé!
Dưới đây là một số sai lầm thường gặp trong việc chữa các bệnh đường ruột:
1. Ăn đồ chát, cay nóng để trị tiêu chảy, lạnh bụng
Khi bị tiêu chảy, nhiều người thường ăn các loại quả chát như ổi, hồng xiêm xanh... để cầm đi ngoài. Trong một số trường hợp, mẹo chữa này có hiệu quả vì vị chát, sít trong các loại quả trên làm se niêm mạc dạ dày và ruột, giảm tiết dịch, giúp hạn chế tình trạng tiêu chảy. Đồng thời, hoa quả còn cung cấp thêm chất xơ rất tốt cho đường ruột.
Chữa bệnh tiêu hóa theo kinh nghiệm truyền miệng hoặc tự ý dùng thuốc khiến bệnh lâu khỏi, dễ tái phát. Ảnh minh họa.
Tuy nhiên, biện pháp trên thường không diệt được tận gốc vi khuẩn gây bệnh nên chỉ có thể cầm tiêu chảy tạm thời, khiến bệnh dễ tái phát. Nguy hiểm hơn, các loại quả xanh nếu chưa vệ sinh kỹ còn tiềm ẩn không ít vi trùng. Khi được đưa vào cơ thể, nhất là trong lúc đường ruột yếu, chúng sẽ tiếp thêm sức mạnh cho vi khuẩn có hại, khiến hệ tiêu hóa càng yếu, thậm chí có thể gây ngộ độc.
2. Tự ý dùng thuốc không theo chỉ định của bác sĩ
Khi tiêu chảy, không ít người thường mua thuốc cầm đi ngoài và chống nôn (nếu có cảm giác nôn ói); khi táo bón thì mua thuốc xổ, thuốc thụt... Ngoài ra, một số người còn tự ý dùng thuốc kháng sinh trong trường hợp có dấu hiệu của loạn khuẩn đường ruột. Việc tự ý dùng thuốc trong bất kỳ bệnh lý nào của hệ tiêu hóa cũng là không nên.
Trị bệnh táo bón, tiêu chảy bằng thuốc chỉ tạo hiệu quả "ảo", là biện pháp tình thế chứ không điều trị tận gốc. Nguy hiểm hơn, nếu không may bị ngộ độc thức ăn hoặc nhiễm khuẩn do ăn uống, người bệnh vì dùng thuốc mà không thể nôn hoặc đi ngoài để đào thải độc thì tình trạng bệnh còn nặng hơn nhiều lần. Ngay cả việc tự ý uống thuốc giun khi bị đau quặn bụng cũng có thể gây đứt ruột, nguy hiểm đến tính mạng.
3. Nhịn ăn hoặc kiêng khem quá mức
Đầy hơi, chướng bụng khiến nhiều người chán ăn. Tiêu chảy, nhiễm khuẩn đường ruột với triệu chứng: cứ ăn vào là đau quặn bụng, phải đi ngoài ngay cũng tạo cho bệnh nhân cảm giác sợ ăn. Những nguyên nhân đó khiến không ít người bỏ bữa, nhịn cơm, không hứng thú với thực phẩm khi mắc các bệnh tiêu hóa.
Ngoài ra, để chữa bệnh, nhiều người còn kiêng khem quá mức: chỉ ăn thịt nạc, không ăn trứng, sữa, cá, chất dầu mỡ... Điều đó khiến cơ thể suy nhược vì không đủ chất dinh dưỡng, khả năng hấp thụ đã kém lại càng yếu hơn nên không có đủ năng lượng để chống đỡ với bệnh tật.
4. Uống dấm hoặc nước muối để rửa ruột
Dấm và nước muối có tác dụng làm sạch và tẩy nhẹ. Do đó, khi nghi bị nhiễm khuẩn đường ruột hoặc ngộ độc thức ăn, một số người tự ý uống thực phẩm trên để rửa ruột. Cách làm này rất nguy hiểm vì chúng có thể bào mòn dạ dày, gây hại cho tuyến tụy, gan, thận... Chưa kể, dấm còn có thể làm đảo lộn chức năng tiêu hoá của dạ dày, dẫn đến ăn không tiêu, đầy hơi, ợ và nặng hơn làm lở dạ dày.
5. Uống đồng thời thuốc kháng sinh và men tiêu hóa
Thuốc kháng sinh và men tiêu hóa đều có tác dụng chữa và hỗ trợ điều trị một số bệnh đường ruột nhưng chúng không nên uống đồng thời với nhau. Thuốc kháng sinh có tác dụng diệt vi khuẩn, ngay cả lợi khuẩn, nên việc uống kèm một lúc sẽ làm mất hiệu quả của men tiêu hóa. Thông thường, 2 loại thuốc này nên uống cách nhau khoảng 2 tiếng.
6. Chờ bệnh tự khỏi
Cho rằng đau bụng, chướng bụng là do nhiễm khuẩn, khi đào thải hết chất độc qua đường vệ sinh thì bệnh sẽ tự khỏi nên nhiều người chủ quan, chờ bệnh tự khỏi. Đó là một sai lầm. Bệnh để lâu sẽ nặng hơn, thậm chí biến chứng nguy hiểm đến tính mạng với một số bệnh như đau ruột thừa, ung thư, có khối u vùng bụng..
Theo bác sĩ Nguyễn Thị Thu Hà, chuyên viên tư vấn của một viện dinh dưỡng ở Hà Nội, khi có những biểu hiện của bệnh tiêu hóa như đau bụng, tiêu chảy, táo bón, tực bụng, khó tiêu..., người bệnh nên đi khám sớm để có hướng điều trị kịp thời. Việc chữa theo kinh nghiệm truyền miệng rất may rủi, có thể hợp với người này nhưng lại gây ra phản ứng tiêu cực với người khác, do cơ địa mỗi người không giống nhau. Tự ý mua thuốc điều trị theo triệu chứng cũng nguy hiểm vì những biểu hiệu của bệnh tiêu hóa thường dễ nhầm lẫn với nhau.
"Bộ máy tiêu hóa là cửa ngõ dung nạp thức ăn, cung cấp năng lượng cho toàn bộ cơ thể để sinh hoạt, học tập, làm việc. Ngoài việc ăn uống điều độ, ngủ đủ giấc, mọi người nên ăn thêm sữa chua hoặc các thực phẩm có bổ sung men vi sinh sống Probiotics để tăng lợi khuẩn cho đường ruột, giúp giảm nguy cơ mắc các bệnh tiêu hóa", bác sĩ Hà khuyên.
Bài thuốc hay từ củ tỏi
Từ lâu, loài người đã biết dùng củ tỏi làm gia vị và làm thuốc. Y học dân gian cổ truyền của các dân tộc cũng có nhiều kinh nghiệm dùng tỏi chữa bệnh. Các nhà khoa học cũng có hàng ngàn công trình nghiên cứu về tác dụng chữa bệnh và các chế phẩm làm thuốc từ củ tỏi ta (hiện nay vẫn tiếp tục nghiên cứu). Tỏi có rất nhiều công dụng trong vấn đề bảo vệ sức khỏe cho con người.
Tác dụng phòng chống ung thư
Tỏi có tác dụng chống lại tiến trình phát triển khối u và ung thư của nhiều loại ung thư khác nhau như: ung thư dạ dày, ung thư cột sống ung thư phổi, ung thư kết tràng, ung thư thanh quản…
Tác dụng phòng chống các bệnh tim mạch
Tỏi làm giảm triglycerid và cholesterol trong máu tương tự clofibrat.- Tỏi làm tăng hàm lượng cholesterol tốt (HDL) và giảm hàm lượng cholesterol xấu (LDL), chống xơ cứng động mạch vành, động mạch não, động mạch ngoại vi.- Tỏi có thể làm hạ huyết áp tâm thu từ 20 -30mmHg và hạ huyết áp tâm trương từ 10 - 20mmHg. Do đó, dùng tỏi tươi hoặc chế phẩm tỏi thường xuyên hàng ngày sẽ có tác dụng điều hòa huyết áp, chống bệnh tăng huyết áp; bảo vệ tim mạch chống nhồi máu cơ tim và chống tai biến mạch máu não.
Ngoài ra, tỏi còn có tác dụng giảm đường huyết, tăng cường hệ miễn dịch, kháng sinh, trị rối loạn tiêu hoá, chống nhiễm độc chất phóng xạ, giải độc nicotin mạn tính, bảo vệ gan, chống các bệnh đường hô hấp...
Các tác dụng khác
Tỏi còn có thể chữa các bệnh răng miệng, bệnh mắt, chữa bỏng và lở loét ngoài da, chữa màng nhỉ thủng, phong thấp và thần kinh. Cho mẹ dùng 1,5g chất chiết tỏi sẽ làm cho trẻ bú sữa nhiều hơn 140% so với trẻ khác. Trong lĩnh vực công nghiệp, tỏi còn là chất bảo vệ thép, nhôm, và acid mạnh, có khả năng giảm thiểu ô nhiễm khói thuốc lá khi trộn bột tỏi vào sáp ong làm nến. Đối với chăn nuôi, khi cho tỏi vào thức ăn nuôi gà 3% bột tỏi sẽ làm cho gà mau lớn và khỏi các bệnh đường ruột.
Cách chế tỏi tươi làm thuốc trong gia đình
- Tiêu chuẩn củ tỏi: Tươi, không mọc mầm lá hoặc mọc rễ, không bị dập nát, héo.
- Các bệnh có thể dùng tỏi tươi giã nát để ăn: Các loại ung thư. Các bệnh tim mạch (tăng huyết áp, tăng lipid máu, vỡ xơ động mạch, huyết khối). Bệnh tiểu đường type II - Giải độc nicotin mạn tính chống nhiễm độc phóng xạ. Giải độc kim loại nặng. Phong thấp và đau dây thần kinh... là những bệnh phải dùng thuốc thường xuyên và lâu dài.
- Cách làm: Chọn tỏi tươi đúng tiêu chuẩn như trên, bóc sạch vỏ khô (mỗi lần dùng cho một người khoảng 3g - 5g tương ứng với một tép tỏi vừa hoặc 2 tép tỏi nhỏ). Giã nát sau 15 - 30 phút (có thể cho nước mắm pha loãng để chấm rau hoặc đậu phụ) dùng trong bữa ăn. Ngày ăn 3 lần như vậy.
|
Hội chứng ruột kích thích (IBS) là căn bệnh đường ruột phổ biến nhất hiện nay. Các triệu chứng của bệnh này bao gồm đau bụng, sình bụng, tiêu chảy, táo bón, đau lưng, đau khớp, nhức đầu... Có một số loại thực phẩm cần tránh khi bị mắc bệnh này. Thực phẩm cay. Cà ri và các loại thực phẩm cay khác làm gia tăng hoạt động trong ruột lên mức cao hơn bình thường. Điều này làm tăng rủi ro bị các triệu chứng như tiêu chảy và đau quặn bụng. Chất béo. Những loại thực phẩm nhiều chất béo có thể khiến ruột co thắt nhiều hơn bình thường, vốn có thể gây đau quặn bụng. Người bị IBS nên tránh dùng hoặc ăn chất béo bão hòa có nguồn gốc động vật, thay vào đó nên sử dụng các sản phẩm chứa chất béo không bão hòa dạng đơn thể (chẳng hạn như dầu ô liu) hoặc chất béo không bão hòa dạng đa thể (như dầu hạt hướng dương) trong chế độ ăn. Các loại thực phẩm cần tránh đối với bệnh nhân IBS là thịt chế biến (xúc xích, pa tê), các loại quà vặt nhiều chất béo (bánh quy, thực phẩm dạng hạt) và mayonnaise. Đường và đường thay thế. Fructose, thành phần tạo ra đường, khó tiêu hóa hơn ở bệnh nhân IBS. Táo bón, tiêu chảy và đầy hơi đều do sự hiện diện của đường trong chế độ ăn gây ra. Các loại đường thay thế như sorbitol và splenda có cùng tác động như vậy. Những loại thực phẩm cần tránh ở người bị IBS bao gồm mứt, si rô, bánh kẹo và nước trái cây có đường. Sản phẩm sữa. Những ngườia bị IBS và không dung nạp lactose khó tiêu hóa một số sản phẩm sữa. Sữa, kem bánh và kem ăn chứa các loại đường tự nhiên, trong quá trình tiêu hóa có thể gây tiêu chảy đau quặn bụng và táo bón. Pho mát và sữa chua không gây các triệu chứng này. Nếu bạn không thể dung nạp lactose, tốt nhất nên giảm bớt lượng sản phẩm sữa trong chế độ ăn và tham khảo ý kiến bác sĩ. Rau cải. Trong khi một chế độ ăn lành mạnh và cân bằng được khuyến khích, một số loại rau có thể gây ra chứng đầy hơi, một triệu chứng bình thường trong các cơn phát bệnh IBS. Bạn có thể bị đau quặn bụng vì chứng đầy hơi do bông cải xanh, cải bắp và củ hành gây ra. Lúa mì. Bánh mì, ngũ cốc và các sản phẩm lúa mì có thể gây ra IBS. Chúng có thể làm trầm trọng thêm bất kỳ triệu chứng nào đã từng trải qua. Trái cây nhiều a xít. Chanh, cam, quýt, và các loại trái cây khác chứa nhiều a xít có thể gây ra hoặc làm gia tăng các triệu chứng của IBS. Rượu. Đối với một số bệnh nhân IBS, rượu là thứ không nên dùng. Rượu kích thích lớp niêm mạc ruột, gây ra các triệu chứng chẳng hạn như đau bụng. Cà phê. Thường gây ra nhiều vấn đề cho người bị IBS, nó kích thích ruột gây tiêu chảy và đau quặn bụng. Bữa ăn “hoành tráng”. Những bữa ăn lớn thường gây khó tiêu và ở người bị IBS chúng có thể khiến hệ tiêu hóa trở nên quá tải, dẫn đến những cơn đau quặn bụng và bệnh tiêu chảy. Bệnh nhân IBS được khuyên chia nhỏ bữa ăn và có thể ăn 5-6 bữa mỗi ngày. |
Phòng chữa bệnh đường ruột
ơ lông - thực phẩm và thuốc
Mơ lông là loại thân thảo, dây leo bằng thân quấn, sống nhiều năm. Khi còn non, thân hơi dẹt, về sau lại tròn, màu lục hoặc tím đỏ. Lá mọc đối, hình bầu dục hoặc hình trứng, dài đến 10 cm, gốc lá tròn hoặc hình tim, đầu lá nhọn, có gân nổi rõ ở mặt phía trên. Hai mặt lá đều có màu lục. Cụm hoa mọc ở kẽ lá hoặc đầu ngọn, có màu trắng điểm tím nhạt. Dùng mơ lông - trứng gà để đề phòng các bệnh trướng bụng, đầy hơi, đau bụng:
Lấy khoảng 50g lá mơ lông tươi, rửa sạch, thái nhỏ, trộn đều với 2 quả trứng gà tươi, đôi khi chỉ dùng lòng đỏ. Một mặt đun chảo nóng già (không cho mỡ) rồi đổ hỗn hợp mơ lông - trứng vào, dàn đều thành một lớp dày khoảng 1 cm, đậy vung cho chín đều. Sau đó lật mặt dưới lên, tiếp tục cho đến khi cả hai mặt chín đều, có màu hơi vàng, cho mùi thơm mơ lông - trứng gà, vị bùi ngậy, là được. Cũng có thể làm như trên, song không đem áp chảo mà nướng bằng cách đổ hỗn hợp mơ lông - trứng gà vào một mảnh lá chuối tươi đã hơ cho hơi héo, mềm, rồi gói lại. Đặt gói mơ lông - trứng gà lên lò nướng, đến khi bên ngoài lá chuối cháy xém là được. Cách làm này cũng có thể áp dụng để trị bệnh lỵ lâu ngày không khỏi, song mỗi lần làm chỉ cần 1 quả trứng gà và số lần ăn trong ngày sẽ tăng lên 2 - 3 lần, số ngày điều trị là 7 - 8 ngày.
Lá mơ lông (mơ tam thể).
Thường dùng lá mơ lông tươi để làm thuốc chữa các bệnh đường ruột như:
Bệnh lỵ amip: Lá mơ lông tươi 50g, cỏ nhọ nồi tươi 150g, lá đại thanh (lá bọ mẩy) 30g, hạt cau (khô, sao vàng) 16g, bách bộ 12g, vỏ cây đại (cạo bỏ vỏ ngoài, sao vàng) 8g, sắc uống, ngày một thang, uống 3 lần, sau bữa ăn 30 phút đến 1 giờ. Uống liền 2 tuần lễ. Nếu đi ngoài nhiều thì bỏ vỏ đại.
Chữa lỵ trực khuẩn: Có thể dùng lá mơ lông, lá trâu cổ (lá vẩy ốc), mỗi vị 20g; lá lốt, nụ sim, mỗi vị 10g, sắc uống ngày một thang; hoặc dùng lá mơ lông, cỏ sữa, mỗi vị 30g; hạt cau, măng cụt (vỏ quả), mỗi vị 10g; thổ phục linh, bạch thược, mỗi vị 6 g, mỗi ngày một thang, dưới dạng thuốc sắc, cũng có thể tán bột, uống 3 lần trong ngày, mỗi lần 10 - 12g. Khi uống thuốc, kiêng ăn các thức ăn tanh, sống, lạnh. Trường hợp mắc lỵ lâu ngày, có thể dùng rễ mơ lông, cỏ seo gà (cây phượng vĩ thảo), mã đề, mỗi vị 20g, sao qua, sắc uống ngày một thang, uống liền 2 - 3 tuần lễ.
Chữa ho gà cho trẻ em: Mơ tam thể 150g; bách bộ, rau má, rễ chanh, cỏ nhọ nồi, cỏ mần trầu, mỗi vị 250g; trần bì 100g, cam thảo dây 150g, gừng tươi 50g, sắc đặc, thêm đường kính chế dưới dạng si rô, ngày uống 2 - 3 lần, tùy theo tuổi.
Từ 6 tháng đến 12 tháng tuổi, mỗi lần uống 5 - 10ml; từ 1 - 2 tuổi, mỗi lần 10ml, ngày 4 lần.
Kinh nghiệm dân gian chữa bệnh đại tràng:
Nếu tiêu chảy
- Dùng búp chè tươi đun uống.
- Dùng gừng nướng cháy vỏ, cạo bỏ chỗ cháy rồi đun uống.
- Dùng vỏ quả măng cụt đun uống.
Tùy địa phương còn rất nhiều loại thuốc khác nữa.
Nếu táo bón
- Hàng ngày ăn lá diếp cá (ngư tinh thảo).
- Lá hoàn ngoạc (tu lình, con khỉ).
- Lá lược vàng...
Bài thuốc chữa bệnh đại tràng thể hàn: Bạch truật 20g, nhục đậu 10g, cam thảo 6g, bạch linh 12g, thương truật10g, can khương 10g, thần khúc 12g, hậu phác 12g, sắc uống ngày 1 thang.
Bài thuốc chữa bệnh đại tràng thể nhiệt: Hoàng liên 12g, tô mộc 20g, cát căn 20g, hoàng bá 12g, cát cánh 10g, hoàng cầm 12g, cam thảo 6g, sắc uống ngày 1 thang.
Phòng bệnh đường ruột nói chung và bệnh đại tràng nói riêng xin lưu ý:
- Vệ sinh an toàn thực phẩm. Không dùng thực phẩm ôi thiu, rau úa giập nát hay quá già.
- Phối hợp trong chế biến thực phẩm cần đúng cách (chẳng hạn như rán trứng phi hành mỡ, không dùng tỏi, ăn cua, ốc cần có tía tô; không hòa bột sắn dây với mật ong...).
- Bữa ăn cần có chất xơ để giúp đại tràng co bóp tốt. Chất xơ (cellulose) có trong ngô, khoai, sắn, các loại rau xanh.
- Luôn giữ ấm vùng bụng và thắt lưng.
- Khi bị bệnh đường hô hấp cần chữa sớm, chữa dứt điểm. Tránh bụi và mùi khét, không khí lạnh.
- Súc miệng nước ấm sau khi ăn, uống nước ngọt.
Tóm lại, khi bị bệnh phải kiêng nhiều, đi công tác xa rất ngại. Do đó, nên cố gắng phòng tránh để giảm bị bệnh là sung sướng hơn.
ong điều trị tiêu chảy việc bù nước và điện giải là việc làm cần thực hiện đầu tiên. Thường bù nước bằng đường uống, cần thiết mới dùng đường tiêm truyền tĩnh mạch nhưng phải được bác sĩ chỉ định và thực hiện với sự theo dõi của nhân viên y tế.
|
Ăn uống không vệ sinh chính là nguyên nhân gây bệnh tiêu chảy câp. |
Các loại thuốc có tác dụng hấp phụ, thuốc giảm nhu động ruột cũng có thể dùng trong điều trị tiêu chảy nhưng nếu dùng sớm sẽ rất có hại vì chất độc và vi khuẩn bị giữ lại trong cơ thể, tăng thời gian tiếp xúc của cơ thể với tác nhân gây bệnh, làm bệnh nặng thêm. Chỉ nên dùng các loại thuốc này sau 24 giờ bù nước điện giải mà số lần tiêu chảy vẫn không giảm.
Riêng các thuốc làm giảm nhu động ruột, không dùng cho những bệnh nhân có triệu chứng nhiễm khuẩn hoặc viêm loét đường tiêu hóa, trẻ em dưới 2 tuổi.
Các thuốc kháng sinh thường dùng trong điều trị tiêu chảy
Tetraxyclin: Có tác dụng tốt với tiêu chảy do Vibrio cholerae. Nên uống thuốc một giờ trước khi ăn hoặc 2 giờ sau ăn (sữa và thức ăn ảnh hưởng đến hấp thu của thuốc). Nên uống thuốc với nhiều nước (uống cốc to) để tránh kích ứng thực quản, uống thuốc ở tư thế đứng, không nên nằm ngay sau khi uống thuốc. Không dùng chung với penicillin, thuốc giảm đau opioid, vitamin nhóm B, các thuốc có ion kim loại như calci, magiê, mangan, nhôm, sắt... Không dùng tetraxyclin cho phụ nữ mang thai, đang cho con bú và trẻ em dưới 8 tuổi (gây biến màu răng vĩnh viễn, ảnh hưởng tới sự phát triển của xương). Khi dùng thuốc dài ngày cần thực hiện các xét nghiệm định kỳ đánh giá chức năng gan, thận và tạo huyết.
Cotrimoxazol: Hỗn hợp sulfamethoxazol và trimethoprim (tỷ lệ 5/1). Thuốc ức chế 2 giai đoạn liên tiếp của chuyển hóa axit folic, có tác dụng diệt vi khuẩn. Thận trọng với bệnh nhân suy thận nặng, suy gan nặng, trẻ em dưới 2 tuổi. Không dùng cho phụ nữ có thai, đang cho con bú, thiếu máu hồng cầu do thiếu axit folic.
Tác dụng không mong muốn: về đường tiêu hóa (buồn nôn, nôn, viêm lưỡi), về da: ngứa, ngoại ban, phản ứng thường nhẹ, nhưng có khi rất nặng có thể gây chết (hội chứng Lyell). Khi có rối loạn ngoài da, máu, cần ngừng dùng thuốc ngay.
Neomycin: thuốc được trình bày dưới dạng viên nén 250mg-500mg, hỗn dịch, thuốc tra mắt, mỡ tra mắt. Thuốc có độc tính cao nên phải dùng rất thận trọng đối với những bệnh nhân bị bệnh ở gan, thận, thính lực giảm. Không dùng cho bệnh nhân tắc ruột, có tổn thương ở niêm mạc tiêu hóa, trẻ em dưới một tuổi, phụ nữ mang thai hay đang cho con bú, những người mẫn cảm với thuốc.
Cần theo dõi chức năng thận và thính giác. Không uống quá 4 ngày.
Ciprofloxacin: Kháng sinh nhóm quinolon có dạng uống (viên nén 100mg, 150mg, 200mg, 300mg, 400mg, 500mg, 750mg, viên nang 200mg), thuốc đạn (500mg), thuốc tiêm (200mg/100ml, 100mg/50ml, 100mg/10ml), thuốc nhỏ mắt 0,3%. Thuốc hấp thụ nhanh và dễ dàng ở ống tiêu hóa. Thức ăn và thuốc chống toan làm ảnh hưởng hấp thu của thuốc. Thuốc có tác dụng với các vi khuẩn gây bệnh đường ruột nhưng cần dùng đúng bệnh, đúng liều để tránh kháng thuốc. Không dùng cho người mang thai và đang cho con bú. Không dùng cho trẻ dưới 14 tuổi (thuốc gây thoái hóa sụn ở trẻ đang lớn), người mẫn cảm với thuốc. Thận trọng dùng thuốc đối với người cao tuổi, người bị động kinh, người bị thương tổn thần kinh trung ương. Nên uống thuốc 2 giờ sau bữa ăn, uống nhiều với nước. Sau khi uống thuốc 2 giờ mới dùng thuốc chống toan dạ dày.
Không dùng đồng thời ciprofloxacin với thuốc có nhôm, magiê, sắt, kẽm, sucrafat, theophyllin, thuốc gây độc tế bào (cyclophosphamid) vì những thuốc này làm giảm hấp thụ thuốc ciprofloxacin.
Cần lưu ý: Những người điều khiển phương tiện giao thông, máy móc: thuốc có thể làm giảm khả năng điều khiển, vận hành máy. Tác dụng không mong muốn: về đường tiêu hóa (buồn nôn, rối loạn tiêu hóa, đau bụng, đầy hơi), hệ thần kinh (chóng mặt, nhức đầu, mệt mỏi) đôi khi ảnh hưởng đến giác quan, tim mạch, đến việc tạo máu.
Norfloxacin: Kháng sinh nhóm quinolon có dạng uống (viên nén 200mg-400mg) dung dịch tra mắt 0,3%. Thuốc có tác dụng với bệnh nhân mắc các bệnh tiêu chảy, lỵ trực khuẩn. Cần thận trọng với bệnh nhân thiểu năng về gan, suy thận, người cao tuổi, người bị bệnh động kinh hay rối loạn thần kinh trung ương. Không dùng trong các trường hợp mang thai, đang cho con bú, trẻ em đang lớn (gây thoái hóa khớp ở người chưa trưởng thành). Uống thuốc một giờ trước khi ăn, hoặc 2 giờ sau khi ăn với nhiều nước. Trong ngày phải uống thêm nhiều nước để có thể đào thải nước tiểu từ 1.200ml-1.500ml mỗi ngày.
Metronidazol: Là thuốc kháng khuẩn có phổ rộng trên động vật nguyên sinh. Thuốc có dạng uống (viên nén 250mg-500mg), thuốc đạn trực tràng (500mg-1.000mg), thuốc trứng (500mg, hợp dịch (40mg/10ml, tuýp 30g, gel 0,75g/100g), thuốc tiêm (500mg/100ml). Thuốc có tác dụng tốt trong điều trị tiêu chảy kéo dài do Giardia, lỵ cấp tính áp-xe gan nặng do amip. Khi uống thuốc hấp thu nhanh, độ khả dụng sinh học là 100%. Thuốc không bị ảnh hưởng bởi thức ăn. Khi tiêm thuốc hấp thụ tương tự như khi uống. Không dùng thuốc khi mang thai (nhất là 3 tháng đầu) và khi đang cho con bú (ngừng cho con bú khi điều trị bằng metronidazol). Không uống rượu khi đang dùng thuốc.
Tác dụng không mong muốn (tác dụng phụ) thường gặp là: buồn nôn, nhức đầu, chán ăn, khô miệng, đau thượng vị, táo bón. Ngừng điều trị khi thấy chóng mặt, lú lẫn tinh thần, những bệnh nhân bị bệnh thần kinh trung ương và ngoại biên bệnh có thể nặng thêm.
|
Hội chứng ruột kích thích (IBS) là căn bệnh đường ruột phổ biến nhất hiện nay. Các triệu chứng của bệnh này bao gồm đau bụng, sình bụng, tiêu chảy, táo bón, đau lưng, đau khớp, nhức đầu... Có một số loại thực phẩm cần tránh khi bị mắc bệnh này. Thực phẩm cay. Cà ri và các loại thực phẩm cay khác làm gia tăng hoạt ��ộng trong ruột lên mức cao hơn bình thường. Điều này làm tăng rủi ro bị các triệu chứng như tiêu chảy và đau quặn bụng. Chất béo. Những loại thực phẩm nhiều chất béo có thể khiến ruột co thắt nhiều hơn bình thường, vốn có thể gây đau quặn bụng. Người bị IBS nên tránh dùng hoặc ăn chất béo bão hòa có nguồn gốc động vật, thay vào đó nên sử dụng các sản phẩm chứa chất béo không bão hòa dạng đơn thể (chẳng hạn như dầu ô liu) hoặc chất béo không bão hòa dạng đa thể (như dầu hạt hướng dương) trong chế độ ăn. Các loại thực phẩm cần tránh đối với bệnh nhân IBS là thịt chế biến (xúc xích, pa tê), các loại quà vặt nhiều chất béo (bánh quy, thực phẩm dạng hạt) và mayonnaise. Đường và đường thay thế. Fructose, thành phần tạo ra đường, khó tiêu hóa hơn ở bệnh nhân IBS. Táo bón, tiêu chảy và đầy hơi đều do sự hiện diện của đường trong chế độ ăn gây ra. Các loại đường thay thế như sorbitol và splenda có cùng tác động như vậy. Những loại thực phẩm cần tránh ở người bị IBS bao gồm mứt, si rô, bánh kẹo và nước trái cây có đường. Sản phẩm sữa. Những người bị IBS và không dung nạp lactose khó tiêu hóa một số sản phẩm sữa. Sữa, kem bánh và kem ăn chứa các loại đường tự nhiên, trong quá trình tiêu hóa có thể gây tiêu chảy đau quặn bụng và táo bón. Pho mát và sữa chua không gây các triệu chứng này. Nếu bạn không thể dung nạp lactose, tốt nhất nên giảm bớt lượng sản phẩm sữa trong chế độ ăn và tham khảo ý kiến bác sĩ. Rau cải. Trong khi một chế độ ăn lành mạnh và cân bằng được khuyến khích, một số loại rau có thể gây ra chứng đầy hơi, một triệu chứng bình thường trong các cơn phát bệnh IBS. Bạn có thể bị đau quặn bụng vì chứng đầy hơi do bông cải xanh, cải bắp và củ hành gây ra. Lúa mì. Bánh mì, ngũ cốc và các sản phẩm lúa mì có thể gây ra IBS. Chúng có thể làm trầm trọng thêm bất kỳ triệu chứng nào đã từng trải qua. Trái cây nhiều a xít. Chanh, cam, quýt, và các loại trái cây khác chứa nhiều a xít có thể gây ra hoặc làm gia tăng các triệu chứng của IBS. |
ĐÔNG Y CHỮA BỆNH ĐƯỜNG RUỘT HIỆU QUẢ
Trường hợp viêm ruột cấp tính này chủ yếu biểu hiện ở đi tháo, lỏng như nước. Đông y cho rằng thử tháp bạo tả, vừa là thực, vừa là nhiệt, nên xử lý bằng cách sơ lợi. Đi lỏng lâu ngày là thiên về hư, thiên về hàn, thì lại phải cố sáp.
Thương truật – vị thuốc chữa viêm ruột cấp
Biện chứng đông y: Tì hư thấp khốn, vận hóa thất thường.
Cách trị: Vận tì hóa thấp.
Đơn thuốc: Vị linh thang và Tam nhân thang gia giảm.
Công thức: Phục linh 15g, Trư linh 9g, Thương truật 9g, Hậu phác 9g, Trạch tả 9g, Quế chi 3g, Cam thảo 6g, Dĩ mễ 9g, Hạnh nhân 9g, Thông thảo 3g, Bạch khấu nhân 6g, Hoạt thạch 9g, Sinh khương 6g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: Tô X, nam, 45 tuổi, cán bộ. Tới khám ngày 7-7-1973. Trước đây bệnh nhân đã bị tức ngực, thở ngắn, có lúc đau vùng ngực. Kiểm tra điện tâm đồ không thấy có thay đổi rõ rệt, ngày 5-7 đột nhiên đi tháo, phân ra như nước, một ngày hơn 20 lần. Đã khám và cho uống rượu thuốc opi, còn cho dùng các vị thuốc như Ô mai, Ngũ bột tử, Sinh mẫu lệ để thu sắp, bên ngoài thì dùng Cao khổ sâm đắp lên rốn để cầm ỉa chảy.
Sau khi dùng thuốc quả nhiên số lần đi lỏng giảm bớt, chỉ còn 6-7 lần. Nhưng vẫn thấy mạch nhu hoãn, rêu lưỡi trắng bẩn, chất lưỡi nhạt. Tổng hợp tứ chẩn, thấy đây là trường hợp bệnh phát sinh vào giữa hè, thử thấp làm tổn thương đến tì vị. Tì vị thấp bao vây, vận hóa mất bình thường, thử thấp chảy xuống dưới gây chướng bụng, đau rốn, kém ǎn và tức ngực. Tì chủ tứ chi, nên thấy taychân, mỏi mệt. Rêu lưỡi trắng bẩn, mạch nhu hoãn là triệu chứng thấp nặng. Lưỡi nhạt mà mạch hư, là triệu chứng của tì hư.
Tất cả các chứng trên rõ rằng cǎn nguyên bệnh là tì hư, bị thấp bao vây. Vì dùng rượu thuốc opio và thuốc thu sáp cho nên vẫn chướng bụng, đau bụng, dùng bài thuốc vận tì hóa thấp.
Cho uống “Vị linh thang và Tam nhân thang gia giảm”. Uống 9 thang, thấy giảm hẳn đau chướng bụng, chỉ còn đi ngoài 1-2 lần mỗi ngày, ǎn uống khá hơn, nhưng đại tiện chưa thành khuôn.
Khám thấy mạch trầm, tế, vô lực, chất lưỡi nhạt, rêu mỏng trắng, có thể thấy thử thấp đã mất được phần lớn, cần trợ giúp cho tì dương đang bị giam hãm, dùng phương pháp kiện tì khư thấp tiêu chướng, cho uống bài thuốc trên có gia giảm như sau: Bạch sâm 9g, Tiêu truật 9g, Phục linh 9g, Cam thảo 6g, Quảng mộc hương 6g, Trần bì 9g, Dĩ mễ 15g, Quế chi 3g, Tam tiên thán (tức Sơn tra, Mạch nha, Trần khúc) 15g, Hậu phác 6g, Uống 2 thang đã thấy bệnh yên, tinh thần tỉnh táo, ǎn uống tốt, chỉ còn mệt mỏi, biểu hư tự hãn, lại cho uống tiếp 3 thang nữa, bệnh khỏi hẳn.
Bàn luận: Trường hợp viêm ruột cấp tính này chủ yếu biểu hiện ở đi tháo, lỏng như nước. Đông y cho rằng thử tháp bạo tả, vừa là thực, vừa là nhiệt, nên xử lý bằng cách sơ lợi. Đi lỏng lâu ngày là thiên về hư, thiên về hàn, thì lại phải cố sáp. Trường hợp này là bạo tả rõ ràng, cho nhầm thuốc sáp, càng uống bệnh càng nặng. Cần phải thận trọng biện chứng cho đúng, thì luận trị mới đúng.
CÁC BÀI THUỐC ĐÔNG Y CHỮA VIÊM ĐƯỜNG RUỘT HIỆU QUẢ
Viêm ruột mạn
Biện chứng đông y: Khí trệ thấp trở.
-
khí trệ thấp trở
Triệu chứng:
Cách trị: Hành khí hóa ứ, thêm thảm thấp nhuyễn kiên.
Đơn thuốc: Khổ sâm thang.
Khổ sâm |
6-9 |
Qui đầu |
10 |
Xích thược |
12 |
||
Đại hoàng |
6-9 |
Mộc hương |
9 |
hải tảo |
15 |
Đào nhân |
9 |
xuyên phác |
5 |
Bạch truật |
10 |
Sắc uống mỗi ngày 1 tháng. Đại tiện lỏng thêm sơn tra nhục 10g, đại tiện bí thêm đại ma nhân 12g.
Viêm ruột mạn
Biện chứng đông y: Tì thận dương hư.
-
tỳ thận dương hư
Triệu chứng:
Cách trị: Ôn bổ mệnh môn, kiêm ôn tì vị, sáp tràng.
Đơn thuốc: Gia vị tứ thần thang.
cốt toát |
12 |
Ngô thù |
6 |
nhục đạu khấu |
6 |
||
Ngũ vị |
6 |
Bạch truật |
10 |
Bạch linh |
10 |
Hoàng kỳ |
12 |
Đẳng sâm |
12 |
Trần Bì |
6 |
ômai |
3quả |
thạch lựu bì |
6 |
phụ tử |
6 |
Quế chi |
6 |
Sắc uống mỗi ngày 1 tháng.
Hiệu quả lâm sàng: Lấy "Gia vị tứ thần thang" làm chủ, khi dùng có phần gia giảm. Đã từng chữa nhiều ca viêm ruột mạn, thông thường dùng 3 - 6 thang là khỏi.
Bàn luận: Trong bài thuốc dùng Bổ cốt chỉ, Phụ tử để bổ mệnh môn, tráng thận dương; Ngô thù du, Quế chi, Nhục đậu khấu, Bạch truật, Đảng sâm, Hoàng kì, Trần bì, Phục linh để ôn tì vị, trợ tiêu hoá, thăng thanh giáng ngọc; Ngũ vị tử. Ô mai, Thạch lựu bì để liễm trường, chỉ tả, làm cho dù đi ngoài lâu ngày cũng có thể dứt.
Viêm ruột cấp
Biện chứng đông y: Tì hư thấp khốn, vận hóa thất thường.
-
tỳ hư thấp khốn
Triệu chứng: ngày 5-7 đột nhiên đi tháo, phân ra như nước, một ngày hơn 20 lần mạch nhu hoãn, rêu lưỡi trắng bẩn, chất lưỡi nhạt
Cách trị: Vận tì hóa thấp.
Đơn thuốc: Vị linh thang và Tam nhân thang gia giảm.
Bạch linh |
15 |
trư linh |
9 |
Xương truật |
9 |
||
Hậu fác |
9 |
Trạch tả |
9 |
Quế chi |
3 |
Cam thảo |
6 |
ý dĩ |
9 |
Hạnh nhân |
9 |
thông thoả |
3 |
bạch đậu khấu |
6 |
hoạt thạch |
9 |
Sinh khương |
6 |
Sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: Tô X, nam, 45 tuổi, cán bộ. Tới khám ngày 7-7-1973. Trước đây bệnh nhân đã bị tức ngực, thở ngắn, có lúc đau vùng ngực. Kiểm tra điện tâm đồ không thấy có thay đổi rõ rệt, ngày 5-7 đột nhiên đi tháo, phân ra như nước, một ngày hơn 20 lần. Đã khám và cho uống rượu thuốc opi, còn cho dùng các vị thuốc như Ô mai, Ngũ bột tử, Sinh mẫu lệ để thu sắp, bên ngoài thì dùng Cao khổ sâm đắp lên rốn để cầm ỉa chảy. Sau khi dùng thuốc quả nhiên số lần đi lỏng giảm bớt, chỉ còn 6-7 lần. Nhưng vẫn thấy mạch nhu hoãn, rêu lưỡi trắng bẩn, chất lưỡi nhạt. Tổng hợp tứ chẩn, thấy đây là trường hợp bệnh phát sinh vào giữa hè, thử thấp làm tổn thương đến tì vị. Tì vị thấp bao vây, vận hóa mất bình thường, thử thấp chảy xuống dưới gây chướng bụng, đau rốn, kém ăn và tức ngực. Tì chủ tứ chi, nên thấy tay chân, mỏi mệt. Rêu lưỡi trắng bẩn, mạch nhu hoãn là triệu chứng thấp nặng. Lưỡi nhạt mà mạch hư, là triệu chứng của tì hư. Tất cả các chứng trên rõ rằng căn nguyên bệnh là tì hư, bị thấp bao vây. Vì dùng rượu thuốc opio và thuốc thu sáp cho nên vẫn chướng bụng, đau bụng, dùng bài thuốc vận tì hóa thấp. Cho uống "Vị linh thang và Tam nhân thang gia giảm". Uống 9 thang, thấy giảm hẳn đau chướng bụng, chỉ còn đi ngoài 1-2 lần mỗi ngày, ăn uống khá hơn, nhưng đại tiện chưa thành khuôn. Khám thấy mạch trầm, tế, vô lực, chất lưỡi nhạt, rêu mỏng trắng, có thể thấy thử thấp đã mất được phần lớn, cần trợ giúp cho tì dương đang bị giam hãm, dùng phương pháp kiện tì khư thấp tiêu chướng, cho uống bài thuốc trên có gia giảm như sau: Bạch sâm 9g, Tiêu truật 9g, Phục linh 9g, Cam thảo 6g, Quảng mộc hương 6g, Trần bì 9g, Dĩ mễ 15g, Quế chi 3g, Tam tiên thán (tức Sơn tra, Mạch nha, Trần khúc) 15g, Hậu phác 6g, Uống 2 thang đã thấy bệnh yên, tinh thần tỉnh táo, ăn uống tốt, chỉ còn mệt mỏi, biểu hư tự hãn, lại cho uống tiếp 3 thang nữa, bệnh khỏi hẳn.
Bàn luận: Trường hợp viêm ruột cấp tính này chủ yếu biểu hiện ở đi tháo, lỏng như nước. Đông y cho rằng thử tháp bạo tả, vừa là thực, vừa là nhiệt, nên xử lý bằng cách sơ lợi. Đi lỏng lâu ngày là thiên về hư, thiên về hàn, thì lại phải cố sáp. Trường hợp này là bạo tả rõ ràng, cho nhầm thuốc sáp, càng uống bệnh càng nặng. Cần phải thận trọng biện chứng cho đúng, thì luận trị mới đúng.
Lị trực khuẩn cấp
Biện chứng đông y: Thấp nhiệt nội uẩn.
-
thấp nhiệt nội uẩn
Triệu chứng: đau bụng mót rặn, thấp nhiệt hun đốt, tổn thương khí huyết đến nỗi thành lỵ. Phân đỏ trắng lẫn lộn, hậu môn nóng rát, tiểu tiện ít mà đỏ là do thấp nhiệt hạ trú. Rêu lưỡi vàng bẩn, mạch hoạt sác
Cách trị: Thanh nhiệt giải độc, lợi thấp, điều khí bổ huyết.
Đơn thuốc: Thang bào ẩm, Đương quy thược dược thang gia giảm.
mễ xác |
10 |
mật ong |
31 |
Công thức: Thang bào ẩm: Mễ xác (1) 10g, Mật ong 31g, Mễ xác sắc lấy nước, rót mật ong vào. Mỗi ngày uống 1 thang chia làm 2 lần sáng chiều.
Đương quy thược dược thang gia giảm:
Bạch thược |
60 |
lai phục tử |
3 |
quảng Mộc hương |
3 |
||
hoành liên |
9 |
địa du |
12 |
Chỉ sác |
6 |
tân lang |
6 |
Cam thảo |
6 |
hoạt thạch |
10 |
. Sắc uống mỗi ngày 1 thang vào buổi tối.
Hiệu quả lâm sàng: Đông y thường chia bệnh lỵ thành: thấp nhiệt lỵ, hưu tức lỵ (cửu lỵ), hư hàn lỵ, dùng Thanh bào ẩm để trị tiêu (ngọn). Dùng đương quy thược dược thang gia giảm để trị bản (gốc), có thể có tác dụng tốt. Phép điều trị này đối với già trẻ phụ nhi đều thích hợp, đã sử dụng trên lâm sàng mấy chục năm chữa cho rất nhiều ca kết quả đều rất tốt. Bạch XX., nam, 30 tuổi, nông dân. Sáng ngày 4-7-1974, đột nhiên phát sốt, phát rét, tháo tỏng, ngay chiều hôm đó đi lỵ, ra mủ máu, mót rặn, vào nhà tiêu liên tục, vào viện cấp cứu. Kiểm tra thân nhiệt 39 độ C, huyết áp 120/70 mmHg, bạch cầu 13.600/mm3, trung tính 80%, lympho 20%, thử phân thấy nhiều tế bào mủ và hồng cầu, chẩn đoán lỵ trực khuẩn cấp, cho dùng cloromycetin, tetracyclin, thuốc lỵ đặc hiệu phối hợp truyền dịch, nhưng điều trị đến 4 ngày mà hiệu quả không rõ rệt. Ngày 8 tháng 7 chuyển sang điều trị đông y. Bệnh nhân đau bụng, mót rặn, đi lỵ phân lẫn lộn trắng đỏ. Đó là thấp nhiệt tích, trệ ở ruột, khí huyết bị tắc, chức năng dẫn truyền rối loạn, sinh cũng là thể hiện của thấp nhiệt. Nên dùng phép thanh nhiệt, giải độc, lợi thấp, điều trị bổ huyết, cho uống "Thang bào ẩm" và "Đương quy thược dược thang gia giảm". Buổi sáng uống "Thang bào ẩm" buổi tối dùng "Đương quy thược dược thang gia giảm", mỗi ngày mỗi bài 1 thang. Bệnh nhân uống 2 hôm, mọi chứng đều hết, hoàn toàn khỏe mạnh ra viện.
Bàn luận: Mễ xác chất bình vào các kinh phế, đại tràng và thận, các chứng ho lâu, tả lỵ, di tinh, đau tim, bụng, gân cốt. Vì có tính cố sáp, lúc dùng nó nên thêm các vị khác; tránh tắc vị, làm trở ngại ăn uống. Mật ong can bình, vào các kinh phế vị đại tràng có tác dụng hoạt trường thông tiện, nhuận phế giảm ho, giảm đau. Bài "Thang bào ẩm" dùng tính cố sáp của Mễ xác cầm ngay đi ngoài, giảm số lần đi, đồng thời giảm đau, dùng Mật ong để hoạt trường thông tiện, trị lỵ rất tốt (xét nghiệm in vitro, mật ong diệt trực khuẩn lỵ và cầu khuẩn sinh mủ), tác dụng nhanh, hết hẳn đau mót rặn, phối hợp với "Đương quy thược dược thang gia giảm" trị gốc, hiệu quả càng rõ rệt
Lị trực khuẩn nhiễm độc
Biện chứng đông y: Ngoài nhiễm phải khí thấp nhiệt dịch độc, trong bị thương tổn do ăn uống
sống lạnh, làm hại đến trường vị.
-
khí thấp dịch độc
Triệu chứng:
Cách trị: Thanh nhiệt trừ thấp, giải độc cứu nghịch.
Đơn thuốc: Gia vị liên mai thang.
Hoàng liên |
2 |
ômai |
2 |
Mạch môn |
6 |
||
Sinh địa |
6 |
agiao |
5 |
Sa sâm |
6 |
Thạch hộc |
6 |
Mộc qua |
6 |
tây dương sâm |
2 |
. Sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: Trình XX., nam, 8 tháng. Một ngày hạ tuần tháng 7 năm 1970, cháu bắt đầu ỉa chảy mỗi ngày 3-4 lần, sốt 38o5 C, cho uống thuốc tây sulfadiasin, viên hạ sốt, bệnh thấy có biến chuyển tốt. Nhưng hôm thứ hai, sau bữa cơm sáng thì bệnh nhi đột ngột sốt 40o5 C, co giật, đại tiện lỏng, đỏ trắng, mỗi ngày trên 10 lần, bụng chứng, vào bệnh viện địa phương cấp cứu, chẩn đoán là lị trực khuẩn nhiễm độc. Vào viện truyền dịch, cho uống cloramphenicol, tiêm bắp neostigmin và chữa bằng đông y, 15 ngày sau bệnh diễn biến tốt, xuất viện. Sau khi xuất viện 8 giờ thì đến tối lại đột nhiên phát sốt, co giật, hôn mê, lại vào viện cấp cứu, điều trị 5 ngày bệnh nhân vẫn trong trạng thái hôn mê, sốt cao không lui, ỉa chảy không cầm, có lúc co giật, vì điều trị không kết quả nên tự động xuất viện. Lúc mẹ cháu đem đến xin chữa bệnh thì bệnh nhi gầy sọp, lơ mơ, thân nhiệt 39o5 C, da nhẽo. ỉa chảy mỗi ngày hơn 10 lần, nhiều chất nhày, đái vàng, lưỡi đỏ nổi gai, rêu vàng khô. Cho dùng "Gia vị liên mai thang". Sau khi uống 2 thang, bệnh thấy chuyển tốt rõ rệt, tinh thần tỉnh táo, nhiệt độ xuống còn 38 độ C (lấy ở hậu môn), đi ngoài giảm chỉ còn 2-3 lần mỗi ngày, ít chất nhày, rêu vàng đã hơi ướt. Vì bệnh nhân hơi ho, đầy bụng, nên trong bài thuốc trên bỏ Sa sâm, Thạch hộc thêm Trần bì, Hạnh nhân, Hậu phác, Tì bà diệp, uống tiếp 3 thang thì các chứng trên đều hết. Sau đó ăn uống điều hòa, bệnh nhi hoàn toàn bình phục, phát triển bình thường.
Bàn luận: "Liên mai thang" bắt nguồn từ "Ôn bệnh điều biện", gia vị để điều trị lị trực khuẩn nhiễm độc, kết quả rất tốt. Trong bài thuốc có Hoàng liên để tả hỏa ở tâm bào. A giao để ích âm dập tắt can phong, Mạch đông, Sinh địa để bổ thận thủy mà tư dưỡng, Can mộc, Ô mai liễm âm để sinh tân chỉ tả, thêm Sa sâm, Thạch hộc để tăng tính dưỡng âm sinh tân dịch, làm giàu âm dịch, dập tắt can phong làm hết co giật hôn mê, thêm Mộc qua vị chua nhập can để sinh tân như cân hòa vị, khử thấp, khi thấp hết nhiệt giảm thì tự cầm đi lỵ, sốt và tiết tả làm thương tổn khí âm nên thêm Tây dương sâm để xúc tiến việc hồi phục
Lỵ trực khuẩn mạn tính
Biện chứng đông y: Thấp nhiệt ẩn náu lâu ngày, lưu trệ đại tràng.
-
thấp nhiệt
Triệu chứng: : miệng khát, sức yếu, đi ngoài đau mót rặn, phân có máu mủ, lưỡi đỏ rêu vàng mỏng, mạch hoãn vô lực, bụng mềm
Cách trị: Điềuhòa khí huyết, tiết nhiệt đạo trệ, giải độc chỉ lỵ, kiện tỳ trợ thận.
Đơn thuốc: Thược dược thang gia giảm.
Qui đầu |
50 |
Bạch thược |
50 |
binh lang |
15 |
||
Chỉ sác |
15 |
lai phụ tử |
10 |
Cam thảo |
5 |
tử quân |
7.5 |
Nhục quế |
5 |
Sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: Viên XX, nam, 38 tuổi, công nhân đến khám tháng 9-1973, kể là đi lỵ, ỉa ra máu mủ đã 9 năm. Từ tháng 7-1964 bệnh nhân mắc bệnh lỵ, vào 1 bệnh viện dùng syntomycin, đã khỏi, sau khi ra viện thường bị lại, , mỗi ngày hơn 20 bận, về sau dường như năm nào cũng vào viện 1 lần, bệnh thường phát vào mùa hè. Năm 1968 sau khi ở bộ đội về bệnh càng nặng thêm, thường thì đại tiện có máu mủ bất kể mùa đông hay hè, lúc nặng lúc nhẹ, đã dùng nhiều thứ thuốc mà không khỏi. Chứng bệnh hiện nay đau bụng, mót rặn phân có máu mủ, mỗi ngày hơn chục bận, không sốt. Kiểm tra thấy tình trạng chung còn tốt, lưỡi đỏ rêu vàng mỏng, mạch hoãn vô lực, bụng mềm, không có ấn đau và u cục, không sờ thấy gan lách. Xếp vào loại cửu lỵ, nên trị bằng phép điều hòa khí huyết, tiết nhiệt thông trệ, thêm các vị ôn dương. Uống "Thược dược thang gia giảm" được 3 thang thì bớt đau bụng, bớt mót rặn, bớt số lần đi ngoài, uống được 6 thang thì hết hẳn đau bụng, hết mót rặn, vẫn còn đôi chút máu mủ trong phân, lại uống 3 thang nữa thì khỏi hẳn. Hai năm sau khám lại không thấy tái phát.
Bàn luận: "Thược dược thang gia giảm" là 1 thang xuất phát từ Thược dược thang có thêm bớt, thích hợp với cửu lỵ, thấp nhiệt không nặng, nhưng thiên về khí không điều hòa, thận dương không đủ, hiệu quả lâm sàng rất tốt. Nếu phân lỏng có thể thêm Xa tiền. Lỵ trực khuẩn mạn tính là thuộc về nhiệt lỵ, do lúc mới mắc chữa không đến nơi đến chốn, tà khí lưu trệ ở đại tràng, gây nên thấp nhiệt nung nấu, khí huyết bị tổn thương, cáu bẩn không tẩy sạch, hóa thành phân có mủ, thanh dương không lên được, trọc âm không trừ được, thịt mới không mọc, cho nên thường đi ngoài ra máu mủ. Khí huyết không thông, đường chuyển vận bị hỏng mà sinh đau bụng mót rặn, cửu lỵ ắt tổn thương đến dương của tỳ vị. lý Trung Tử nói: "Thận là cửa ngõ của vị khai khiếu ở hai âm, người chưa bị cửu lỵ thì thận không bị tổn hại, vì vậy trị lỵ mà không biết bổ thận thì chẳng phải là chữa lỵ". Cho nên khi chữa lỵ lâu ngày thì ngoài việc điều hòa khí huyết, thông tích trệ, còn cần phải ổn bổ thận dương, nhất thiết không được dùng vị khổ hàn để công phạt nó. Bài này dùng Qui, Thược để hòa dinh dưỡng huyết; Binh lang, Chỉ xác để hành khí đạo trệ, Lai phục tử để hành khí giải độc và cầm lỵ, Tửu đại hoàng thì tiết nhiệt thông phủ, Cam thảo để hòa trung kiện tỳ, Nhục quế để ổn thận trợ dương làm ấm hàn. Tất cả cùng điều hòa khí huyết, tiết nhiệt đạo trệ giải độc chỉ lỵ, kiện tỳ trợ dương, tất nhiên sẽ kết quả.
Tắc ruột người già
Biện chứng đông y: Trung khí bất túc
-
trung khí bất túc
Triệu chứng:
Cách trị: Giáng khí chỉ thống, tư nhuận bổ trung, nhuận tràng thông tiện.
Đơn thuốc: Trầm hương ẩm.
trầm hương |
6 |
mật ong |
120 |
mỡ lợn |
120 |
.Bỏ Trầm hương vào 300ml, nước sắc đến còn 200ml thì đem uống trước, sau đó mới uống mật ong và mỡ lợn: 2 vị này đun sôi để cho âm ấm rồi uống. Nếu bệnh nhân bị nôn nặng, trước khi uống thuốc có thể tiêm 0,25mg atropin vào 2 bên huyệt túc tam lý. Nếu vừa uống thuốc vào đã nôn ra thì phải uống bù lại lần nữa.
Hiệu quả lâm sàng: Đồng XX, nam, 65 tuổi, xã viên. Vào viện cấp cứu ngày 21-4-1972. Người bệnh đau bụng đã 2 ngày, nôn oẹ, không đại tiện, người mệt mỏi, yếu ớt. Kiểm tra tỏ ra là bệnh cấp tính, bụng mềm, quai ruột nổi rõ, vùng bên phải rốn ấn đau. Khám nghe rõ nhu động ruột tăng, chiếu X quang thấy có nhiều mặt nước phẳng hình cái cốc. Sau khi vào viện cho truyền dịch, đồng thời hút hết các vật chứa trong dạ dày. Đến 8 giờ tối cho uống nước Trầm hương, sau uống mật ong, mỡ lợn. Tới sáng sớm hôm sau, bụng sôi réo, đại tiện được một lần. Bớt đau đớn và đầy trướng, khoảng 9 giờ sáng liên tiếp đại tiện 2 lần, các chứng tiếp đó đều biến hết. Đến ngày thứ 3 khỏi bệnh, cho ra viện.
Bàn luận: Bệnh tắc ruột ở người già, vì tuổi cao sức yếu nên phần lớn bệnh nhân không muốn mổ, mà thích được dùng thuốc đông y hơn. Thực tiễn cho thấy bài thuốc trên dùng chữa bệnh tắc ruột của người già kết quả rất mỹ mãn. Bài thuốc này là do nhà đông y Lý Quang Diệu truyền lại cho. .
Viêm ruột mạn
Biện chứng đông y: Khí của tì vị vận hóa thất thường, vị khí cực hư.
-
tỳ khí cực hư
Triệu chứng: gầy còm, sợ rét, tứ chi lạnh giá, không muốn ăn, ăn xong là đi lỏng, chất lưỡi non, rêu trắng dầy, mạch trầm trì tế nhược, thuộc chứng tì thận dươ
Cách trị: Bổ hư ôn trung, sáp tràng cố thoát.
Đơn thuốc: Chân nhân dưỡng tạng thang.
Đẳng sâm |
12 |
Bạch truật |
10 |
Chích thảo |
3 |
||
Qui đầu |
6 |
Bạch thược |
12 |
Nhục quế |
6 |
nhục nđậu khấu |
10 |
Mộc hương |
6 |
kha tử |
12 |
túc xác |
6 |
Can khương |
6 |
Sắc uống, ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: Chu XX, nam, 30 tuổi, công nhân. Hơn 3 năm lại đây, ngày đêm ngâm ngẩm đau bụng, ỉa chảy mỗi ngày 5 - 6 bận, đã chữa chạy nhiều mà không khỏi. Chẩn đoán là viêm ruột mạn tính, từng đến bệnh viện tiêm tĩnh mạch cloramphenicol, lại uống Tứ thần hoàn, hơn 100 thang Phụ tử lý trung hoàn thang, nhưng bệnh lúc đỡ lúc lại nặng, mãi mà không khỏi. Bệnh nhân thân thể ng hư, không có sức vận hóa. Tì vị hư thì không tiêu hóa thức ăn, vận hóa tinh vi dược. Tì thận dương hư, thì âm thủy không hóa lâu dần thành ra đi ngoài lúc canh năm, bệnh không dứt sẽ tiến tới chứng hoạt thoát. Chứng tỏ khí của tì vị vận hóa bất thường, vị khí cực hư. Chữa nên bổ hư ôn trung, sáp tràng cố thoát. Cho uống 5 thang bài Chân nhân dưỡng tạng thang, sau khi dùng thuốc chứng đau bụng và đi ngoài lúc canh năm có chuyển biến tốt rõ rệt, nhưng ngày vẫn đi lỏng 1-3 lần. Bài thuốc đã có công hiệu, nên nguyên phương thêm Phụ phiến 6g, Bổ cốt chỉ 10g, để ôn bổ thận dường, ích tì cốt thoát, dùng liền 10 thang. Uống thuốc xong, tứ chi trở nên ấm, ỉa lỏng ngừng, đại tiện đã bình thường, ăn uống tăng lên. Vì vậy bỏ vị can khương, cho uống tiếp 10 thang nữa để củng cố hiệu quả. Hai tháng sau thăm lại mọi thứ đều tốt.
Viêm loét đại tràng
Biện chứng đông y: Tì vị dương hư, không thể vận hóa thủy cốc.
-
tỳ vị dương hư
Triệu chứng: chóng mặt, đau đầu, tim đập dồn dập, lợm giọng, bụng đầy, không muốn ăn uống, ngày đi ỉa chảy 5-6 bận, không tiêu hóa thức ăn, bụng ngâm ngẩm đau, thích ấn, người mệt mỏi, sắc mặt vàng vọt, lưỡi nhạt, rêu trắng, mạch huyền tế vô lực
Cách trị: Tư bổ tì vị, sáp tràng, chỉ tả.
Đơn thuốc: Tam vị chỉ tả tán.
Hoài sơn |
150 |
khatử |
60 |
thạch lựu bì |
60 |
Tán chung thành bột mịn, mỗi ngày dùng 3 lần, mỗi lần 4,5 g. Uống lúc đói.
Hiệu quả lâm sàng: Tào XX, nữ 43 tuổi, cán bộ. Ngày 10/4/1971 tới khám lần đầu. Bệnh nhân mắc bệnh đã hơn 3 năm. Hiện bệnh tình chủ yếu là: cứ khoảng 3 giờ chiều là cảm thấy chóng mặt, đau đầu, tim đập dồn dập, lợm giọng, bụng đầy, không muốn ăn uống, ngày đi ỉa chảy 5-6 bận, không tiêu hóa thức ăn, bụng ngâm ngẩm đau, thích ấn, người mệt mỏi, sắc mặt vàng vọt, lưỡi nhạt, rêu trắng, mạch huyền tế vô lực. Tây y soi dạ dày, ruột bằng barit chẩn đoán viêm loát đại tràng. Bệnh này có nguyên nhân là bởi tì vị dương hư, không chuyển hóa được thức ăn gây ra. Chữa nó phải tư bổ tì vị, sáp tràng chỉ tả, Cho dùng bài thuốc tự chế là tam vị chỉ tả tán. Uống trong 20 ngày, ỉa chảy giảm xuống 2-3 lần một ngày, ăn uống có hơi tăng lên, tiêu hóa tốt hơn, các chứng khác cũng thuyên giảm, mạch trở nên hoãn vô lực. Đó là biểu hiện tì vị dần dần khôi phục chức năng vận hóa. Uống tiếp một đợt nữa, bệnh khỏi.
Bàn luận: Trường hợp bệnh nhân này là chức năng vận hóa của trường vị mất điều hòa, biểu hiện bằng ỉa chảy, thức ăn không tiêu hóa. Phần Tí luận trong sách Tố vấn chép rằng: "Doanh, là tinh khí của thủy cốc (thức ăn), điều hòa ngũ tạng, tưới khắp lục phủ, có thể vào mạch... Vệ, là hãn khí của thủy cốc, khí này nhanh, hoạt lợi, không htể vào mạch được, mà tuần hoàn trong da, trong thịt". Tinh vi không thể biến hóa để sinh ra Doanh, Vệ khí huyết, nên mới thấy chóng mặt, tim đập, tâm thần mệt mỏi trì trệ. Đau đầu là huyết hư không được nuôi dưỡng, mạch huyền tế vô lực là Doanh Vệ khí huyết không đủ, phải kíp dùng thuốc bổ tì vị, cầm đi tả, tinh vi dược hóa, khí huyết dồi dào, Doanh Vệ lưu thông thì mới khỏi được. Trọng dụng sơn dược ngọt, bình, vị nhạt, bổ khí tì vị. Kha tử nhục đắng, chua chát, ôn để sáp tràng cầm đi tả, nhờ thế bệnh tuy lâu ngày nhưng vẫn thu được kết quả rất tốt.
Viêm loét đại tràng
Biện chứng đông y: Tì khí hư nhược, kèm huyết ứ
10.tỳ khí hư nhược kèm huyết
Triệu chứng:
Cách trị: ích khí kiện tì, hoạt huyết hóa ứ.
Đơn thuốc: ích khí bổ tì hóa ứ thang
Hoàng kỳ |
30 |
Đẳng sâm |
15 |
Bạch truật |
10 |
||
Bạch linh |
15 |
ý dĩ |
30 |
Hoài sơn |
15 |
Đan sâm |
30 |
Xích thược |
15 |
Xuyên khung |
15 |
Đan bì |
15 |
. Sắc uống mỗi ngày một thang.
Viêm loét đại tràng mạn
Biện chứng đông y: Thấp nhiệt, tràng tích.
-
thấp nhiệt tràng tích
Triệu chứng:
Cách trị: Hoạt huyết trục ứ, thanh nhiệt khử thấp.
Đơn thuốc: Gia vị cách hạ trục ứ thang.
Đào nhân |
15 |
Đan bì |
10 |
Xích thược |
10 |
||
ôdược |
15 |
nguên hồ |
10 |
Cam thảo |
10 |
Xuyên khung |
15 |
Qui đầu |
15 |
linh chi |
10 |
Hồng hoa |
10 |
Chỉ sác |
10 |
Hương phụ |
15 |
B công anh |
50 |
tra thán |
50 |
Hoàng liên |
10 |
Sa tiền |
15 |
Sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: Theo dõi điều trị trên 10 trường hợp, người bị bệnh ngắn nhất là 6 tháng, lâu nhất là 3 năm, trung bình đã mắc bệnh một năm rưỡi. Dùng thuốc ít nhất là 16 thang, nhiều nhất là 30 thang. Chữa khỏi hoàn toàn 8 trường hợp, còn 2 trường hợp lâm sàng đã khỏi, về sau lại tái phát.
Viêm loét đại tràng mạn
Biện chứng đông y: Tì vị dương hư, nhiệt độc khốn trở.
-
tỳ vị dương hư, nhiệt độc khốn tr
Triệu chứng: Đại tiện mỗi ngày 3-4 bận, phân loãng nát lẫn chút dịch nhầy, đôi khi thấy có máu. Bụng khó chịu, kém chịu rét, nếu để lạnh bụng hoặc lưng thì ỉa chảy tăng lên, chườm nóng thì đỡ đau. Lại thấy đau dạ dày, hễ thức ăn lạnh, sống là đau dạ dày và đau bụng dữ dội. Miệng nhạt, nhiều nước dãi, toàn thân mệt mỏi, sắc mặt sạm đen, không bóng, mi mắt hơi mọng, ăn kém, sợ ăn mỡ, ăn đồ béo vào thì đi ngoài càng nặng. Dạ dày thường căng đầy khó chịu, có lúc ợ hơi, nhưng không nôn chua. Mạch trầm tế, lưỡi tím sạm, rêu trắng nhuận, rìa lưỡi có hằn
Cách trị: Ôn dương cố thận, bổ tì hóa thấp.
Đơn thuốc: Ôn dương chỉ tả thang.
Hoàng kỳ |
20 |
Đẳng sâm |
20 |
Can khương |
6 |
||
Ngũ vị |
6 |
Khổ sâm |
6 |
Ngô thù |
6 |
phá cố chỉ |
10 |
tam lăng |
6 |
Bạch truật |
10 |
vân tàm sa |
30 |
địa du |
10 |
Sắc uống, mỗi ngày 1 thang
. hàn thêm Phụ tử 10g,
phân nhiều dịch nhầy thêm Bồ công anh 20g,
đi ngoài ra máu thêm Điều thất 6g, A giao 10g,
đau bụng thêm Diên hồ sách 10g.
Hiệu quả lâm sàng: Dư X, nữ, 52 tuổi. Đau bụng ỉa chảy đã hơn 20 năm. Qua kiểm tra đại tràng bằng ống soi mềm và các phương pháp khác chẩn đoán là viêm loét đại trạng mạn tính. Đại tiện mỗi ngày 3-4 bận, phân loãng nát lẫn chút dịch nhầy, đôi khi thấy có máu. Bụng khó chịu, kém chịu rét, nếu để lạnh bụng hoặc lưng thì ỉa chảy tăng lên, chườm nóng thì đỡ đau. Lại thấy đau dạ dày, hễ thức ăn lạnh, sống là đau dạ dày và đau bụng dữ dội. Miệng nhạt, nhiều nước dãi, toàn thân mệt mỏi, sắc mặt sạm đen, không bóng, mi mắt hơi mọng, ăn kém, sợ ăn mỡ, ăn đồ béo vào thì đi ngoài càng nặng. Dạ dày thường căng đầy khó chịu, có lúc ợ hơi, nhưng không nôn chua. Mạch trầm tế, lưỡi tím sạm, rêu trắng nhuận, rìa lưỡi có hằn răng. Đã từng chữa chạy bằng nhiều phương pháp nhưng hiệu quả không rõ rệt. Nay điều trị bằng bài Ôn dương chỉ tả thang có gia giảm. Uống 5 thang, đau bụng giảm hẳn. Đại tiện giảm còn 2 bận một ngày. Uống tiếp trong 1 tháng, hết hẳn đau bụng, phân không còn chất nhầy, dạ dày hết khó chịu. Số lần đi đại tiện cơ bản khôi phục như bình thường, nhưng phân chưa thành khuôn. Liền bỏ vị Khổ sâm, tăng Nhục quế 1g vào bài thuốc trên, cho uống tiếp 1 tháng nữa, đại tiện ngày còn 1-2 lần, phân thành khuôn, không còn chất nhầy. Kiểm tra đại trạng bằng ống soi mềm thấy các chỗ xung huyết hoặc loét giảm nhẹ, vết loét nông lại. Nhưng sau đó do viêm cấp đường tiết niệu nên phải dừng uống bài thuốc trên để chữa bệnh mới. Sau khi khống chế được viêm nhiễm, lại uống tiếp bài Ôn dương chỉ tả thang có gia giảm để củng cố hiệu quả. Theo dõi hơn một năm, bệnh nhân không bị tái phát.
Viêm ruột giả mạc
Biện chứng đông y: Tì vị thấp chưng nhiệt uẩn, khí huyết ngưng kết. Cùng với các chất cặn bã tích trệ, vào ruột, bào lớp dịch mỡ mà hóa thành nước huyết đổ xuống dưới.
-
khí hưýưt ngưng kế
Triệu chứng:
Cách trị: Thanh nhiệt giải độc, chỉ huyết sinh cơ.
Đơn thuốc: Phương thức địa du tiền dịch (thụt giữ ở ruột).
địa du |
30 |
tích loại tán |
8 |
Đem Địa du bỏ vào 200 ml nước, sắc đặc còn 80 ml thì cho Tích loại tán vào trộn lẫn, rồi chia ra 4 lần để thụt vào ruột, mỗi ngày 2 lần. Đồng thời phối hợp uống thuốc Tích loại tán, mỗi ngày 4 lần, mỗi lần 1 chỉ.
Hiệu quả lâm sàng: Quách X, 3 tuổi, Sốt cao 39-40o C liên tục trong 7 ngày mà không hạ nên được đưa vào viện. Đã dùng nhiều loại kháng sinh với liệu cao để trị nhiễm trùng như xen kẽ dùng streptomycin, tetracyclin, syntomycin bệnh đã khá hơn, thân nhiệt hạ còn 37o5 C, nhưng đến ngày thứ 10, đột nhiên trẻ bị ỉa chảy, mới đầu phân như nước, sau là nước máu. Một ngày đi hơn 10 lần, mỗi lần 30 - 40 ml, kèm theo mất nước độ hai, nôn oẹ, bụng trướng, quấy khóc không yên. Mạch trở nên tế nhược, thân nhiệt tăng lên 38o6 C, soi kính hiển vi thấy phân có màng giả của ruột (+++). Chẩn đoán lâm sàng là viêm ruột có mạc giả. Ngoài việc bù nước và chất điện giải như kali, còn dùng neomycin, erythromycin vẫn không khống chế được bệnh tình. Bèn ngừng chữa tây y chuyển sang đông y. Trẻ vì mẹ thiếu sữa, phải nuôi bộ, luôn bị tích trệ. Nay sốt cao kéo dài dẫn đến tì vị thấp chưng nhiệt uẩn, khí huyết ngưng kết, kèm theo cặn bã tích trệ đưa vào ruột, bào dịch mỡ, hòa thành nước máu mà ỉa ra ngoài.
Xét nghiệm phân thấy có nhiều mạc giả của ruột, đó là biểu hiện màng mỡ bị thương tổn. Cần phải thanh nhiệt giải độc, chỉ huyết sinh cơ. Cho dùng Phức phương địa du tiễn dịch thụt vào ruột, uống thuốc Tích loại tán. Sau 24 giờ ỉa chảy đỡ, giảm bớt số lần đi ngoài, phân từ dạng nước chuyển sang sền sệt. Chữa liền trong 3 ngày, đại tiện trở lại bình thường. Xét nghiệm phân không còn phát hiện giả mạc. Theo dõi trong 1 tuần, bệnh nhi khỏi ra viện.
Bàn luận: Trường hợp này trẻ bị viêm ruột giả mạc điều trị bằng nước sắc Địa du cho vào Tích loại tán, lại phối hợp uống Tích loại tán, chỉ trong thời gian ngắn là khỏi bệnh, Tích loại tán là biệt dược bán ngoài thị trường. Bài thuốc này có chép trong sách Kim quĩ dực gồm có Thanh đại 2g, Trân châu 1g, Bột ngà voi (sấy) 1g, Ngưu hoàng 0,3g, Nhân chỉ giáp 0,15g, Băng phiến 1g, Bích tiên 1 g (nung), tất cả trộn lại với nhau tán thành bột mịn. Công dụng của thuốc này là thanh nhiệt giải độc, chống thối, sinh cơ, hay dùng nhất cho các bệnh thông thường ở xoang miệng như viêm amiđan có mủ, viêm họng cấp tính, bạch hầu đều thu được hiệu quả khá tốt. Còn dùng bài thuốc này để điều trị viêm loét đại trạng mạn tính cũng thu được hiệu quả rất mĩ mãn, cách chữa cũng như đối với viêm ruột giả mạc. Ngoài ra còn dùng Tích loại tán cho uống để chữa bệnh loét hành tá tràng, loét niêm mạc thực quản v.v... cũng thu được kết quả rất tốt.
Lỵ Amíp
Biện chứng đông y: Trường vị thấp nhiệt, kiêm huyết phận nhiệt độc, thấp nhiệt độc tà kết tụ.
-
trường vị thấp nhiệt
Triệu chứng: Hai ngày trước đau bụng đi ngoài mỗi ngày 8-10 lần, toàn thân phát rét, mệt xỉu, mạch 110 lần mỗi phút, chất lưỡi đỏ, rêu vàng dầy, bụng và quanh rốn đều có ấn đau, thử phân
Cách trị: Thanh nhiệt khử thấp, giải độc chỉ lỵ.
Đơn thuốc: Bạch đầu ông thang.
bạch đầu ông |
30 |
Hoàng liên |
9 |
Trần Bì |
9 |
Hoàng bá |
9 |
. Sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: Theo dõi việc điều trị 14 bệnh nhân trong đó 10 người khỏi hẳn, các triệu chứng hết hoàn toàn, thử phân liền hai ba lần không còn thấy kén amip và amip. Bốn trường hợp khác có chuyển biến tốt: giảm nhẹ các triệu chứng, thử phân còn thấy amip và kén amip. Chưa gặp trường hợp nào không có kết quả. La XX, nữ 66 tuổi, nông dân, người Tạng. Hai ngày trước đau bụng đi ngoài mỗi ngày 8-10 lần, toàn thân phát rét, mệt xỉu, mạch 110 lần mỗi phút, chất lưỡi đỏ, rêu vàng dầy, bụng và quanh rốn đều có ấn đau, thử phân: Hồng cầu +++, Bạch cầu +++, phát hiện có kén Entamoeba histolytica, chẩn đoán chính xác là lỵ amip. Cho dùng "Bạch đầu ông thang", uống được 3 thang, bụng giảm đau, giảm số lần đi ngoài. Dùng liền 9 thang, các chứng mất hết, ba ngày một lần thử phân, thử tất cả 2 lần không còn thấy có kén amip và các thứ dị thường khác, bệnh khỏi.
Rối loạn chức năng ruột
Biện chứng đông y: Thoát lực, lao thương.
-
thoát lực lao thương
Triệu chứng: vùng quanh rốn đau ngâm ngẩm dai dẳng, thích ấn, kèm theo đau lưng, đại tiện phân nát, mỗi ngày 2-3 lần. Lưỡi nhạt, rêu trắng mỏng, mạch trầm tế.
Cách trị: Kiện tì, bổ thận.
Đơn thuốc: Tứ vị thang gia vị.
Đẳng sâm |
30 |
Bạch linh |
15 |
Chích thảo |
6 |
||
K huyết đằng |
30 |
tiên hạc thảo |
30 |
tiểu hồi |
30 |
hồng táo |
10 |
Sắc uống, mỗi ngày 1 thang.
Bàn luận: Đông y cho rằng chứng rối loạn chức năng ruột phần lớn là do nhảy ngã, vác nặng hoặc quá lao lực gây ra. Trường hợp này là do khí vốn yếu lại nhảy mạnh làm cho tì thận khí bị tổn thương. Tì mà vận chuyển không khỏe, thăng giáng thất thường, khí cơ không điều hoà, không thông thì đau, vì thế mà đau bụng phân nát. Thận chủ về đại tiểu tiện, lưng thuộc thận, thận hỏng thì lưng đau, tiểu tiện do thế mà thay đổi. Đau bụng thích ấn, lưỡi nhạt rêu trắng mạch trầm tế đều là biểu hiện của hư. Trong bài thuốc dùng tứ quân để kiến trung ích khí, phụ thêm có Kê huyết đằng, Tiên hạc thảo bổ thận, cầm ỉa. (Theo báo cáo, Tiên hạc thảo có tác dụng ức chế sự phát triển của vi khuẩn gây bệnh đường ruột), Tiểu hồi tán hàn giảm đau, Đại táo nâng tì bổ trung. Các vị thuốc cùng có tác dụng kiện tì bổ thận, hành khí trán thống, nên chỉ cần uống 3 thang là bệnh khỏi.
ỉa chảy do tiêu hóa không tốt
Biện chứng đông y: Thận hư gây ỉa chảy.
Triệu chứng: ỉa chảy, thức ăn không tiêu, lưỡi sạch, hai mạch đều nhược
Cách trị: Bổ thận ích khí.
Đơn thuốc: Lý trung gia giảm thang.
Đẳng sâm |
9 |
Bạch truật |
9 |
Can khương |
6 |
tế tân |
1.5 |
ngô du |
6 |
Sinh khương |
9 |
Sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Công thức: Đảng sâm 9g, Bạch truật 9g, Can khương (nướng) 6g, Tế tân 1,5g, Ngô du 6g, Sinh khương 9g.
Bàn luận: Bệnh ở người này đã kéo dài đến 3 năm, từng dùng các thứ thuốc Lý trung, Tứ thần v.v... mà chỉ có tác dụng tạm thời. Nhưng trong thang có Cam thảo là thuốc của trung tiêu, có tác dụng trở ngại đến việc Phụ tử di xuống để ôn thận. Bởi vậy giữ nguyên bài thuốc mà bỏ Cam thảo, thêm Tế tân, Ngô du để trị, chỉ cần 3 thang là khỏi, về sau không còn tái phát. Xin nhấn mạnh: "nhất thiết phải bỏ vị Cam thảo" ấy là đề phòng vị này làm cho thuốc vào kinh thận bị đình hoãn ở trung tiêu, làm yếu sức làm ấm ở dưới đi; còn thêm vị Tế tân không chỉ để dẫn thuốc mà bản thân vị này cũng có tác dụng kích phát thận dương, nên có lợi cho việc xua đuổi cái tà âm trọc. Dương hư âm thủy không hóa mà dẫn đến ỉa chảy, cũng tức là thủy không giữ ở vị trí của nó mà lại bỏ đi đường khác. Nay thủy được chính khí, khí hồi phục tức có thể tiêu thức ăn, ỉa chảy cầm ngay. Còn vị Ngô du thêm vào, nó vốn là thứ ôn can, can thận cùng ở vào hạ tiêu, ôn can thì có thể ấm thận. Bởi thế ông Đông Viên mới nói: "Trọc âm mà không giáng thì đi tả lị, nên chữa bằng Ngô du... công dụng như thần, các vị thuốc không vị nào thay thế được". Người đời Thanh là Dương Thời Thác đã giải thích thêm về việc dùng Ngô du trị ỉa chảy như sau: "Ngô du làm ấm bàng quang, thủy vận thì đái trong, đại tràng ắt tự củng cố... thông thoát sự che lấp dương ở trong thủy, làm giáng sự ngưng trệ âm ở trong thổ, do vậy mà có thể cầm ỉa chảy".
Tắc ruột
Biện chứng đông y: Tà nhiệt kết ở tràng vị, dịch của trung tiêu bị khô, khí thượng và hạ cũng không thể thăng giáng, uất mà hóa nhiệt.
-
tà nhiệt kết tràng vị
Triệu chứng: Đau bụng trên kèm theo nôn dữ dội. Bệnh mới đầu đau bụng, phát triển thành đau từng cơn nặng dần, từng nôn ra chất có màu như cà phê, đã 3 ngày không ăn, bụng trướng, bí đại tiện, không bị cúi gập người
Cách trị: Tả hạ táo thực túc thanh lý nhiệt.
Đơn thuốc: Đại thừa khí thang gia vị.
Đại hoàng |
9 |
Chỉ thực |
9 |
nguyên minh phấn |
18 |
||
xuyên phác |
6 |
Bạch linh |
12 |
nguyên hồ |
15 |
Bạch thược |
12 |
Cam thảo |
3 |
Sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: Thư XX, nam, 23 tuổi, quân nhân phục viên. Đau bụng trên kèm theo nôn dữ dội. Bệnh mới đầu đau bụng, phát triển thành đau từng cơn nặng dần, từng nôn ra chất có màu như cà phê, đã 3 ngày không ăn, bụng trướng, bí đại tiện, không bị cúi gập người. Đã qua điều trị ở bệnh viện địa phương không kết quả nên chuyển đến đây. Người bệnh đã 2 năm trước từng bị mổ vì bị viêm ruột thừa kèm viêm phúc mạc. Kiểm tra cạnh rốn, sờ thấy có u dài. Tây y chẩn đoán là tắc ruột do dính, đã thụt tháo, dùng atropin để chống co thắt, giảm áp lực dạ dày, ruột, truyền dịch tĩnh mạch vẫn không đỡ đau bụng, mà bụng lại trướng đầy, cự án, chất lưỡi hơi đỏ, cuống lưỡi rêu trắng, mạch hoạt sác. Vào viện đến ngày thứ 3 mới đầu chữa bằng thuốc đông y. Cho dùng bài Đại thừa khí thang gia vị, uống 1 thang lúc 4 giờ chiều hôm đó, đến 11 giờ đêm lại đại tiện 2 lần, phần nhiều, rất thối, liền theo đó bớt đau bụng. Sáng sớm hôm sau ăn một bát cháo loãng, khám lại, đổi bài thuốc Tiểu thừa khí than gia giảm, gồm: Chỉ xác 9g, Xuyên phác 8g, Bạch thược 18g, Phục linh 12g, Nguyên hồ 15g, Cốc nha 20g, Cam thảo 3g, Tô ngạnh 12g. Cho uống 2 thang, mọi chứng đều tiêu hết. Bệnh nhân ra viện. Cấp cho mang về 3 thang Tứ quân tử thang thêm Bạch thược, Chỉ xác, Nguyên hồ để củng cố.
Tắc ruột người già
Biện chứng đông y: Trung khí bất túc
-
trung khí bất túc
Triệu chứng: đau bụng đã 2 ngày, nôn oẹ, không đại tiện, người mệt mỏi, yếu ớt
Cách trị: Giáng khí chỉ thống, tư nhuận bổ trung, nhuận tràng thông tiện.
Đơn thuốc: Trầm hương ẩm.
trầm hương |
6 |
mật ong |
120 |
mỡ trăn |
120 |
.Bỏ Trầm hương vào 300ml, nước sắc đến còn 200ml thì đem uống trước, sau đó mới uống mật ong và mỡ lợn: 2 vị này đun sôi để cho âm ấm rồi uống. Nếu bệnh nhân bị nôn nặng, trước khi uống thuốc có thể tiêm 0,25mg atropin vào 2 bên huyệt túc tam lý. Nếu vừa uống thuốc vào đã nôn ra thì phải uống bù lại lần nữa.
Hiệu quả lâm sàng: Đồng XX, nam, 65 tuổi, xã viên. Vào viện cấp cứu ngày 21-4-1972. Người bệnh đau bụng đã 2 ngày, nôn oẹ, không đại tiện, người mệt mỏi, yếu ớt. Kiểm tra tỏ ra là bệnh cấp tính, bụng mềm, quai ruột nổi rõ, vùng bên phải rốn ấn đau. Khám nghe rõ nhu động ruột tăng, chiếu X quang thấy có nhiều mặt nước phẳng hình cái cốc. Sau khi vào viện cho truyền dịch, đồng thời hút hết các vật chứa trong dạ dày. Đến 8 giờ tối cho uống nước Trầm hương, sau uống mật ong, mỡ lợn. Tới sáng sớm hôm sau, bụng sôi réo, đại tiện được một lần. Bớt đau đớn và đầy trướng, khoảng 9 giờ sáng liên tiếp đại tiện 2 lần, các chứng tiếp đó đều biến hết. Đến ngày thứ 3 khỏi bệnh, cho ra viện.
Bàn luận: Bệnh tắc ruột ở người già, vì tuổi cao sức yếu nên phần lớn bệnh nhân không muốn mổ, mà thích được dùng thuốc đông y hơn. Thực tiễn cho thấy bài thuốc trên dùng chữa bệnh tắc ruột của người già kết quả rất mỹ mãn. Bài thuốc này là do nhà đông y Lý Quang Diệu truyền lại cho. .
Tắc ruột người già
Biện chứng đông y: Tì hư thực trệ.
-
tỳ hư thực trệ
Triệu chứng: sắc mặt trắng bệch, vẻ đau đớn, trán đẫm mồ hôi, sờ vào bụng đau đớn không chịu được. Lưới đỏ ít tân dịch, rêu mỏng vàng, khát muốn uống nước, mạch huyền sác.
Cách trị: Cấp hạ tôn âm.
Đơn thuốc: Gia vị đại thừa khí thang.
Tì hư thực trệ |
sinh Đại hoàng |
10 |
nguyên minh phấn |
5 |
Hậu fác |
5 |
Chỉ thực |
10 |
lai phục tử |
15 |
thảo quả nhân |
3 |
Sắc uống, mỗi ngày 1 thang
Hiệu quả lâm sàng: Chu XX, nam, 60 tuổi, nhân viên. Khám lần đầu ngày 11-2-1962. Người bệnh tuổi cao sức yếu. Do ăn no mà bụng trướng đau, đến giữa trưa bụng đau kịch liệt, trăn trở không yên, chân tay tê dại, nôn chất ứ đọng, tuy nôn nhiều lần song bệnh không giảm, tuy mót đại tiện nhưng không ỉa được. Đi cấp cứu ở một bệnh viện, đo thân nhiệt 38o C, bạch cầu 1300/mm3, trung tính 82%, lymphô 18%. Chiếu X quang cho thấy bị tắc ruột ở vị trí cao. Vì không muốn phẫu thuật nên chuyển đến đây xin chữa. Bệnh nhân sắc mặt trắng bệch, vẻ đau đớn, trán đẫm mồ hôi, sờ vào bụng đau đớn không chịu được. Lưới đỏ ít tân dịch, rêu mỏng vàng, khát muốn uống nước, mạch huyền sác. Điều trị phải cấp hạ tồn âm để làm phủ vận chuyển và giảm đau. Cho uống Gia vị đại thừa khí thang. Dùng 1 tháng, thay áo mấy lần, đi ngoài ra phân thối khẳn, hết hẳn đau, bệnh nhân tự thấy bụng nhẹ rỗng, muốn ăn, thần khí mệt yếu, mạch hoãn, lưỡi khô ít rêu, phủ khí đã thông, vị khí đã giáng. Tuy đã cứu được thuyền giữa dòng nước xiết, nhưng người già không thể công phạt thái quá, đổi sang dùng bài thuốc điều bổ
tây Đẳng sâm |
12 |
Bạch truật |
10 |
vân phục linh |
10 |
||
Cam thảo |
5 |
Hoàng kỳ |
12 |
Qui đầu |
12 |
quảng Trần Bì |
5 |
Sài hồ |
5 |
lục Thần khúc |
10 |
Uống 5 thang, mọi chứng đều hết, người khôi phục bình thường.
Bàn luận: Trương Trọng Cảnh luận rằng với chứng dương minh phủ thực chỉ dùng bài Đại thừa khí thang để cấp hạ tồn âm ở người khoẻ thực chứng, bệnh nhân trong trường hợp này tuổi cao, khí huyết đều suy, tì vị hư nhiều, gốc là chứng Hoàng long thang, nhưng cho dùng bài Đại thừa khí thang thêm Lai phục tử để tăng thêm sức tẩy xổ, lại dùng Thảo quả để hạn chế những thuốc trên, khi thực tà đã khử hết thì việc điều lý sẽ nhanh chóng và đạt hiệu quả tốt.
Táo bón
Biện chứng đông y: Ruột khô không nhuận, khí trệ ra chướng
20.táo bón khi trệ
Triệu chứng:
Cách trị: Điều khí lợi trung, hòa vị nhuận tràng.
Đơn thuốc: Tư âm nhuận táo phương gia vị.
sinh Hà thủ ô |
15 |
Ngọc trúc |
9 |
Đại phúc bì |
12 |
||
Thanh bì |
6 |
Trần Bì |
6 |
sinh Chỉ sác |
9 |
ô dược |
9 |
Sắc uống, mỗi ngày 1 thang.
Công thức: Sinh thủ ô 15g, Ngọc trúc 9g, Đại phúc bì 12g, Thanh bì và Trần bì mỗi thứ 6g, Sinh chỉ xác 9g, Ô dược 9g, Thanh quất diệp 9g.
Hiệu quả lâm sàng: Lưu XX, nam, 34 tuổi, công nhân, sơ chẩn ngày 26-2-1966. Bệnh nhân từ lâu đã có đại tiện bí kết, bụng chướng đau, cự án, uống thuốc thông tiện, sau đi đại tiện rồi bụng dưới đau, ngủ không yên. 10 tháng trước phổi bên phải nhiễm lao, đã điều trị bệnh tình ổn định, không ho, khám thấy chất lưỡi đỏ, rêu dày bẩn mà vàng, mạch huyền hoạt phía phải to hơn. Chứng này là ruột khô không nhuận, khí trệ gây chướng. Nên dùng phép điều khí lợi trung, hòa vị nhuận tràng. Cho uống Tư âm nhuận táo phương gia vị. Uống được 5 thang, đại tiện trở thành nhuận, giảm quá nửa chứng bụng chướng đau. Dặn uống thêm 5 thang nữa, mọi chứng đều hết.
Bàn luận: Bệnh nhân này phế âm vốn hư, ruột khô không nhuận, khí cơ uất trệ, thông giáng không được, làm cho đại tiệm bí kết không thông. Trong phương thuốc dùng Sinh thủ ô, Ngọc trúc để tư âm nhuận táo, dùng Đại phúc bì. Chỉ xác để phát khí tiêu trệ, làm cho đường ruột tư nhuận táo, dùng Đại phúc bì. Chỉ xác để phát khí tiêu trệ, làm cho đường ruột tư nhuận, khí cơ thông suốt, ắt đại tiện tự thông, chứng bệnh hết. Theo kinh nghiệm lâm sàng, người già đại tiện bí kết đã lâu, đường ruột không nhuận, dùng thuốc thong hạ lâu ngày không có kết quả thì có thể dùng riêng một vị Sinh thủ ô 30g. Sắc uống hoặc làm thành hoàn mỗi lần 6g, mỗi ngày uống 2 lần sẽ có hiệu quả. Ngoài ra có thể dùng Hắc chi ma, vừng đen giã nát trộn mật ong mà chiêu cũng có tác dụng thông tiện.
Chảy máu cấp đường tiêu hóa
Biện chứng đông y: Huyết lạc nội thương, đường tuần hoàn rối loạn
21. huyết lạc
Triệu chứng: bị loét hành tá tràng có hẹp môn vị hông hoàn toàn, bụng đau, ăn vào lại nôn ra rồi chảy máu. Chất nôn ra là thức ăn vụng nát màu cà phê và máu cục, nhiều ngày chưa đại tiện. Theo dõi điều trị ở phòng cấp cứu 3 ngày không có kết quả rõ rệt
Cách trị: Chỉ huyết tiêu ứ.
Đơn thuốc: Tam bạch tử hoàng hợp tễ.
Mao căn |
30 |
tử chu thảo |
30 |
bạch cập phấn |
12 |
vân nam bạch |
1 |
đại hoàngphấn |
1 |
Công thức: Bạch mao cấp 30g, Tử chu thảo 30g, Bạch cập phấn 12g, Vân nam bạch dược 1g, Đại hoàng phấn 1g, chia hỗ hợp bột Bạch cập, Vân nam bạch dược, Đại hoàng, làm 2 phần uống với nước sắc Bạch mao căn, Tử chu thảo sáng và chiều. Mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: Theo dõi trên lâm sàng nhiều ca xuất huyết cấp đường tiêu hóa dùng thuốc này cầm máy nhanh, bệnh tình chuyển tốt rất mau chóng. Ngô XX, nam, 56 tuổi, nông dân, bị loét hành tá tràng có hẹp môn vị hông hoàn toàn, bụng đau, ăn vào lại nôn ra rồi chảy máu. Chất nôn ra là thức ăn vụng nát màu cà phê và máu cục, nhiều ngày chưa đại tiện. Theo dõi điều trị ở phòng cấp cứu 3 ngày không có kết quả rõ rệt. Ngày 21-4-1979 hội chuẩn, bệnh nhân đau nhăn nhó, khai các chứng như trên. Chất lưỡi vàng đục dày dính, mạch huyền. Cho Tam bạch từ hoàng hợp lễ, tăng Đại hoàng thành 6g, dùng thêm Đại giả thạch 30g. Chia làm 2 lần mà uống, uống xong ngày hôm sau đi ngoài ra khá nhiều phân đen, đỡ đau bụng. Lại cho uống tiếp 2 thang nữa như trên, sau đó phân chuyển màu vàng, các chứng giảm nhiều, có thể ăn chế độ nửa lỏng, về nhà nghỉ dưỡng sức.
Lỵ Amíp mạn tính
Biện chứng đông y: Thấp nhiệt uẩn kết.
22.thấp nhiệt uẩn kết
Triệu chứng: đi ngoài bất thường, mỗi ngày 3--4 bận, phân lỏng, có lúc có chất nhày trắng như mũi, có lúc bụng đau âm ỉ, có lúc thấy mót rặn. Vọng chẩn sắc mặt vàng nhạt, lưỡi không rêu, chất trắng nhạt, môi, miệng, móng và kết mạc mắt đều trắng bệch, bắt thấy mạch hư vi huyền mà hoạt.
Cách trị: Sát trùng chỉ lỵ chỉ huyết.
Đơn thuốc: Phức phương nha đảm tử hoàn.
nha đảm tử |
45 |
quán chúng |
15 |
ngân hoâthns |
15 |
sáp vàng |
60 |
Công thức: Nha đảm tử 45g, (bỏ vỏ), Quán chúng 15g, Ngân hoa thán 15g, Sáp vàng 60g. Các thứ Nha Đảm tử, Quán chúng, Ngân hoa thán tán thành bột mịn, lại nấu chảy sáp, rang nóng hòa bột vào trộn đều, vê thành hoàn bằng hột đỗ tương. Uống lúc đói. Người lớn mỗi ngày 10-15 viên. Trẻ nhỏ giảm liều.
Hiệu quả lâm sàng: Chung XX, nam 11 tuổi, khám ngày 1-10-1963. Bệnh nhân kể đi ngoài ra máu đã hơn 2 năm. Hai năm qua đã tốn rất nhiều tiền thuốc mà không công hiệu. Hỏi ra biết thày thuốc trước đây có người chữa theo chảy máu đường ruột, có người chữa theo trĩ nội. Hỏi kỹ biết 3 năm trước đã bị lỵ, tuy đã khỏi nhưng sau đó hay đi ngoài bất thường, mỗi ngày 3--4 bận, phân lỏng, có lúc có chất nhày trắng như mũi, có lúc bụng đau âm ỉ, có lúc thấy mót rặn. Vọng chẩn sắc mặt vàng nhạt, lưỡi không rêu, chất trắng nhạt, môi, miệng, móng và kết mạc mắt đều trắng bệch, bắt thấy mạch hư vi huyền mà hoạt. Phía dưới rốn bên phải chỗ ruột sigma co thắt như cuốn thừng, thăm hậu môn không thấy búi trĩ và dấu vết nẻ nứt hậu môn. Căn cứ vào mạch chứng chẩn đoán là đi ngoài ra máu do lỵ amip. Thử phân thì phát hiện có amip hoạt động. Cho Phức phương nha đảm tử hoàn 1 liều, mỗi ngày lúc đói uống 7 hoàn. Sau khi uống thuốc 5 ngày khám thấy giảm đi ngoài ra máu. Sau khi uống thuốc 10 ngày, khám lại thấy không còn đi ngoài ra máu nữa. Sau 15 ngày khám lại thì đại tiện hoàn toàn như thường. Sắc mặt trở nên hồng nhuận. Theo dõi 17 năm không thấy tái phát.
Bàn luận: Nha đảm tử còn gọi là khổ sâm tử, "Bản thảo linh" nói "có thể thông ruột khử tích trệ hóa thấp nhiệt, sát trùng, chỉ lỵ". Trương Tích Thuần nói: "Nha đảm tử vị rất đắng, tính mát, là thuốc thiết yếu để lương huyết giải độc, dùng để chỉ xích lỵ nhiệt tính, đại tiểu tiện ra máu do nhiệt rất tốt, rất có thể thanh nhiệt ở huyết phận và ở trong ruột, phòng thối rữa và sinh cơ nhục, có công hiệu lạ lùng, tôi từng dùng thuốc này chữa khỏi bệnh lỵ rất nặng". Diệp Cát Tuyền nói: "Nha đảm tử dùng trên lâm sàng để trị người bị lỵ trực trùng mạn tính và lỵ amip đều khỏi, công hiệu tốt". Quán chúng thanh thấp nhiệt, sát 3 thứ trùng, thu liễm chỉ huyết, Ngân hoa thán giải độc chỉ huyết. Cái hay của cả bài là ở chỗ làm hoàn bằng sáp vàng, bởi vì sáp chưa thể tan hoàn toàn ở dạ dày, nên tránh được tác dụng phụ của Nha đạm tử, làm nó đến thẳng chỗ bệnh để tiêu diệt trùng bệnh, tác dụng nhanh chóng. Cái mà đông y gọi là "hưu tức lỵ" (lúc có, lúc không có lỵ), (bị lạnh) là đại tiện không đều, có lúc phân lỏng, nhày, có lúc tiện bí, bụng không đau thắt, chỉ hơi mót rặn, thấm thoắt lâu ngày thành ra đi ngoài ra máu, dần dần thiếu máu, gày gò, thân nhiệt hạ thấp, năm tháng tích lại làm người càng thêm suy nhược, ủy hoàng phù thũng, dùng bài thuốc này chuyển nguy thành yên, hồi phục sức khỏe.
Ung thư đường ruột
Tác dụng chữa bệnh của cây hoàn ngọc
Tác dụng chữa bệnh của tỏi
Tìm hiểu về bệnh viêm đường ruột
Tìm hiểu về bệnh viêm đường ruột
Giúp trẻ hấp thu chất dinh dưỡng tốt
Đường ruột và dạ dày
Dinh dưỡng cho người mắc bệnh ung thư
(ST)