Ngoài bệnh sử gia đình, lối sống của người phụ nữ là yếu tố quyết định nguy cơ ung thư vú của họ.
Ăn nhiều mỡ
Tần suất mắc bệnh ung thư vú ở từng quốc gia tương ứng với lượng mỡ trong chế độ ăn của quốc gia đó. Ở Nhật, ung thư vú là một trong những bênh tiến triển nhanh nhất, vá sự tăng tỷ lệ bệnh có liên quan chặt chẽ đến thói quen ăn này càng nhiều mỡ hơn. Chế độ ăn tốt nhất để phòng ngừa ung thư vú là chế độ ăn trong đó lượng mỡ ăn vào ít hơn 20% tổng số calorie nhận được.
Hormone và thể hình
Phụ nữ thừa cân thuộc dạng nội hình (hình quả táo) tích trữ mỡ thừa ở vùng bụng và các cơ quan nội tạng, có nguy cơ ung thư vú cao hơn những phụ nữ thừa cân dạng trung bình (hình quả lê) trữ mỡ thừa ở hông và đùi, hoặc dạng ngoại thái (hình cọng giá). Liệu pháp hormone thay thế, trong đó người phụ nữ dùng thuốc có chứa oestrogen sẽ làm thay đổi nồng độ hormone và có thể làm tăng nguy cơ ung thư ở một số ít người. Hành kinh sớm; không có con hoặc có con muộn, và mãn kinh trễ cũng có thể làm tăng nguy cơ.
Yếu tố gia đình
Gen ung thư vú có thể di truyền cho con qua đuờng bố hoặc đường mẹ. Những phụ nữ mà trong gia đình có nhiều người bị ung thư vú, hoặc có 2 người rất gần, tức mẹ và chị gái, bị bệnh, thì có thể có nguy cơ thừa hưởng gen bệnh. Khi nhận phải gen bệnh, người phụ nữ có khoảng 85% mắc ung thư vú.
Các nguy cơ từ môi trường sống
Hút thuốc, ô nhiễm công nghiệp, khói xe và hoá chất như các thuốc nông nghiệp dính trên thức ăn đều được xem là có vai trò quan trọng trong việc phát triển ung thư vú.
St