Cách trị bệnh tiểu đêm nhanh khỏi nhất bằng thuốc đơn giản. Chứng tiểu đêm gây khốn khổ cho nhiều người, khiến giấc ngủ bị gián đoạn và khó ngủ trở lại. Tình trạng này kéo dài sẽ dẫn đến những bệnh lý nghiêm trọng khác.
CÁCH ĐIỀU TRỊ BỆNH TIỂU ĐÊM NHANH KHỎI NHẤT
I. Chứng Tiểu đêm được định nghĩa như thế nào? Tiểu đêm được định nghĩa khi cần thức dậy về đêm và đi tiểu (ngược lại với đái dầm ở trẻ em). Tiểu 1 lần trong đêm vẫn được xem là bình thường, thuật ngữ “tiểu đêm” là triệu chứng cắt nghĩa khi Bệnh nhân đi tiểu nhiều lần hơn bình thường (>1 lần/đêm).
- Tiểu đêm là một triệu chứng thường gặp ở cả nam lẫn nữ, do người bệnh phải thức dậy đi tiểu nhiều lần giữa đêm khuya nên thường dẫn đến những ảnh hưởng cho giấc ngủ từ đó phần nào cũng làm người bệnh mệt mỏi và ảnh hưởng đến chất lượng sống.
- Tại đây chúng ta cần lưu ý rằng:
+ Tiểu đêm là triệu chứng, không phải là chẩn đoán
+ Trong một số trường hợp tiểu đêm được đánh giá là triệu chứng của một số bệnh như: đái tháo đường, đái tháo nhạt …
II. Các nguyên nhân gây tiểu đêm
1. Tiểu đêm do cân bằng dịch
- Tiểu nhiều cả ngày lẫn đêm: Lượng nước tiểu >40ml/kg/24 giờ có thể do người bệnh
+Uống quá nhiều nước, rượu, bia
+ Bị bệnh Đái tháo đường
+ Tăng canxi máu
+ Suy thận (thường gặp ở suy thận mãn nhiều hơn suy thận cấp)
- Tiểu nhiều về đêm :số lượng nước tiểu về đêm >35% tổng số lượng nước tiểu 24 giờ có thể do các nguyên nhân sau
+Uống nhiều nước, rượu, bia vào buổi tối
+ Uống thuốc lợi tiểu phụ thuộc vào thời gian uống thuốc
+ Biến đổi sự tiết hormone chống lợi niệu bình thường, thường do tuổi
+Tái phân bố dịch về đêm gây tiểu đêm như: suy tim. Phù gây tiểu đêm như: ứ máu tĩnh mạch
+Ngưng thở về đêm (không rõ cơ chế)
2. Tiểu đêm do nguyên nhân thần kinh
Ở người bình thường, dung tích bàng quang từ 300- 400ml, khi nước tiểu bài tiết từ thận xuống đầy bàng quang cơ thể sẽ có phản xạ cần đi tiểu. Bàng quang được kiểm soát từ não, tủy sống, đoạn S1,S2 và thần kinh ngoại biên. Vì thế có nhiều vấn đề thần kinh có thể ảnh hưởng đến chức năng bàng quang. Tiểu đêm do nguyên nhân thần kinh có thể là triệu chứng bởi vì :
- Một số bệnh thần kinh gây tiểu nhiều lần như: Xơ cứng rải rác từng đám, chèn ép tủy sống cổ, Hội chứng chèn ép tủy sống
- Một số bệnh thần kinh có thể gây bí tiểu, tiểu không kiểm soát, tiểu đêm
- Các rối loạn thần kinh thông thường khác gây đi tiểu nhiều như: bàng quang thần kinh do Đái Tháo Đường, Parkinson……
Thông thường nếu bí tiểu xảy ra ở nữ >60 tuổi mà không chắc do tắc nghẽn bàng quang thì nguyên nhân thần kinh cần được nghĩ tới
3. Tiểu đêm do rối loạn đường tiểu dưới
- Nghẽn dòng chảy từ bàng quang: Bệnh tiền liệt tuyến, bệnh niệu đạo (Xảy ra ở cả nam lẩn nữ)
- Bàng quang hoạt động quá mức
- Người quá nhạy cảm
- Nhiễm trùng đường niệu,viêm bàng quang mô kẻ
- Bệnh lý ác tính
- Phụ nữ trong giai đọan có thai cũng có thể xảy ra triệu chứng tiểu nhiều
Nguyên nhân và cách chữa trị chứng tiểu đêm
Đi tiểu ban đêm là một hiện tượng khá phổ biến ở người trung và cao tuổi. Sau khi đi tiểu, người bệnh có thể quay lại giường và ngủ lại bình thường. Nhưng cũng có rất nhiều trường hợp tiểu đêm để lại ảnh hưởng xấu như không thể ngủ trở lại được; buồn ngủ, ngủ gà ngủ gật vào ban ngày; lo lắng về tình trạng sức khỏe bản thân làm ảnh hưởng đến các hành vi và chất lượng cuộc sống. Thậm chí, các nghiên cứu cũng chỉ ra tiểu đêm là yếu tố làm tăng nguy cơ mắc kèm các bệnh khác và tỉ lệ tử vong ở người cao tuổi.
Nguyên nhân gây ra chứng tiểu đêm theo y học hiện đại
Chứng tiểu đêm thường hay xảy ra ở người trưởng thành, không có sự khác biệt rõ rệt giữa nam và nữ tuy có sự khác nhau về giới tính. Chứng tiểu đêm ở phụ nữ thường liên quan đến việc sinh đẻ, mãn kinh, sa tử cung… Ở nam giới, chứng tiểu đêm thường liên quan đến phì đại, u xơ tuyến tiền liệt… Nhưng cũng có một số nguyên nhân chung dẫn đến chứng tiểu đêm như:
(1) Do các bệnh lý tại đường tiết niệu như nhiễm khuẩn tiết niệu, suy thận hoặc các bệnh lý thận mạn tính khác, rối loạn chức năng bàng quang bẩm sinh, tăng tạo nước tiểu vào ban đêm vì các nguyên nhân khác nhau, rối loạn phản xạ thần kinh điều khiển bài niệu ở bàng quang…
(2) Do sử dụng các thuốc lợi niệu, thuốc chẹn canxi, uống nhiều rượu, cà phê, trà đặc.
(3) Do các bệnh lý mạn tính như đái tháo nhạt, đái tháo đường, huyết áp cao, suy tim, rối loạn giấc ngủ…
Nguyên nhân tiểu đêm cũng có thể do các bệnh lý mạn tính như đái tháo nhạt, đái tháo đường, huyết áp cao, suy tim, rối loạn giấc ngủ… (ảnh minh họa)
Nguyên nhân gây ra chứng tiểu đêm theo y học cổ truyền
Theo y học cổ truyền, chức năng tiểu tiện trong cơ thể chủ yếu do hai cơ quan là thận và bàng quang đảm nhiệm. Y văn có câu: “thận chủ thủy quản lý sự đóng mở, bàng quang chủ chứa nước tiểu, cho nên ban đêm tiểu tiện nhiều lần nên trách cứ vào thận và bàng quang”.
Đối với người trẻ tuổi khỏe mạnh, âm dương cân bằng và đầy đủ thì ban đêm ít tiểu tiện. Khi tuổi cao, ban đêm đi tiểu tiện nhiều, đó là thủy hỏa đều bất túc. Chứng đi tiểu tiện nhiều vào ban đêm ở người cao tuổi phần lớn là do Thận dương hư và yếu. Vả lại ban ngày là dương, ban đêm là âm, ban đêm âm thịnh dương suy, cho nên ban đêm tiểu tiện nhiều lần thực là do dương khí suy yếu gây nên.
Về điều trị, nên chú trọng ôn bổ thận dương. Nói chung căn cứ vào vai trò khí hóa của bàng quang, điều trị, nên chú trọng bổ khí và làm vững bàng quang. Thận muốn khỏe phải bổ thêm tỳ, cho nên phải kiêm bổ cả tỳ thận, cùng một lúc vừa ôn dương vừa cố sáp.
Đánh giá Bệnh nhân tiểu đêm
Tiểu đêm thường được quy cho do bệnh tiền liệt tuyến mà không xem xét những nguyên nhân khác. Đôi khi có nhiều nguyên nhân kết hợp gây tiểu đêm, những nguyên nhân gây tiểu đêm đươc xác đinh bởi: bệnh sử, khám lâm sàng, cận lâm sàng, theo dõi thời gian đi tiểu của Bênh nhân. Tại phòng khám, để xác định chính xác nguyên nhân gây bệnh tiểu đêm, bác sĩ sẽ tiến hành
1. Hỏi Bệnh sử:bác sĩ sẽ đặt một số câu hỏi để làm sáng tỏ các triệu chứng của Bệnh nhân và hỏi các triệu chứng đường tiểu dưới khác
2. Khám lâm sàng
- Gõ vùng bàng quang xem có rỗng không ?
- Ấn xem có phù chân không ?
- Khám các cơ quan liên quan khi nghi ngờ :
+ Tim mạch
+ Thần kinh: Đặc biệt quan trọng nếu có bí tiểu mà không nghi ngờ nghẽn đường tiểu (Nữ>60 tuổi)
+ Khám trực tràng ở nam đánh giá tiền liệt tuyến, khám khung chậu ở nữ
3. Cận lâm sàng
- Xét nghiệm nước tiểu: nhiễm trùng tiểu, tiểu máu, tiểu đạm, đường…
- Cấy nước tiểu
- Xét nghiệm máu: chức năng thận, ion đồ, đường huyết, canxi máu
- Đo chức năng bàng quang: đánh giá dòng chảy nước tiểu, thể tích tồn lưu nước tiểu.
- Đo áp lực bàng quang thông qua catheter niệu đạo
- Siêu âm bụng
Sau khi đánh giá, tìm hiểu chính xác nguyên nhân gây triệu chứng này từ đó các bác sĩ sẽ có phương pháp điều trị bệnh hiệu quả
IV. Một số lưu ý đối với bệnh nhân
- Đối với những người tiểu đêm do suy giảm thần kinh ở não, cần phải khắc phục bằng các biện pháp như :
+ Hạn chế uống nước vào buổi tối, trước khi đi ngủ nhớ đi tiểu.
+ Mặt khác, để tránh những tai biến não khi thức dậy nửa đêm, cần bình tĩnh ngồi dậy, tỉnh táo hẳn mới nên bước ra khỏi giường. Nếu không có công trình vệ sinh trong nhà nên dùng bô để đi tiểu chứ không nên mở cửa đi tiểu ngoài trời.
- Đối với những người do u xơ làm phì đại tuyến tiền liệt cần đi khám xem mức độ bệnh cụ thể để được điều trị. Để phát hiện sớm bệnh, đặc biệt là phòng ngừa được u ác tính ở tuyến tiền liệt, những người đàn ông trên 40 tuổi cần được đi khám tuyến tiền liệt hằng năm.
- Khi có dấu hiệu tiểu khó cần được thăm khám sớm để được điều trị kịp thời và tránh nhiễm khuẩn đường tiểu.
Tiểu đêm, dùng thuốc gì?
Hạn chế uống nước nhiều trước khi đi ngủ
để hạn chế tiểu đêm
Bao gồm các chất kháng thụ thể muscarinicacetycholin (MAR) ngăn chặn sự hoạt động dẫn truyền thần kinh của acetylcholin. Tùy theo chất mà hiệu lực chữa bệnh và tác dụng phụ có khác nhau nên cần lựa chọn dùng trong từng bệnh cụ thể. Trong chứng tiểu đêm thường dùng ba chất:
Solifenacin (vasiare): Thuốc có tác dụng ngăn chặn acetylcholin mà solifenacin làm giảm nhịp điệu co cơ bàng quang, cho phép bàng quang giữ lại một khối lượng lớn nước tiểu. Do đó được dùng trong tình trạng bàng quang hoạt động quá mức, tình trạng tiểu khẩn cấp (thôi thúc), tiểu không kiểm soát được (rò rỉ). Solifenacin chuyển hóa bởi enzym cytochrom P450 (CYP 3A4), khi dùng chung với các thuốc ức chế enzym này như ketoconazol thì solifenacin bị giảm sự thải trừ, tăng nồng độ trong máu nên phải giảm liều dùng. Đặc biệt, solifenacin làm kéo dài quãng QT trên điện tâm đồ, có tiềm năng gây ra xoắn đỉnh nên không được dùng chung với các thuốc có tiềm năng gây ra hiệu ứng này như moxifloxavin, pimozid.
Oxybutynin (ditropan): Có cơ chế và chỉ định giống solifenacin. Khi dùng thường gặp một số tác dụng phụ như nóng, khô da, khát cùng cực; đau dạ dày nặng, táo bón; nóng rát lúc đi tiểu; đi tiểu ít hơn bình thường hay không đi tiểu; mờ mắt. Nhìn chung ít độc hơn solifenacin.
Darifenacin (enablex, emselex): Làm giảm sự co cơ trơn của bàng quang, dùng cho trạng thái tiểu khẩn cấp (thôi thúc), tiểu không kiểm soát được (rò rỉ), vẫn dùng trong trạng thái bàng quang hoạt động quá mức song chưa biết chắc chắn là có hiệu lực trong trạng thái này không.
Không nên dùng các thuốc trên cho người mẫn cảm với thuốc (riêng darifenacin có thể gây dị ứng nặng phát ban, khó thở, sưng mặt, môi, lưỡi, họng); không dùng cho những người bàng quang và đường niệu có cản trở cơ học, tăng nhãn áp, bị phì đại tuyến tiền liệt, tắc nghẽn dạ dày ruột, trào ngược dạ dày thực quản (GERD), tiêu hóa chậm, viêm loét đại tràng, nhược cơ, có bệnh gan thận.
Các thuốc chẹn alpha-1
Chẹn alpha -1 được dùng cho người rối loạn tiểu do phì đại lành tính tuyến tiền liệt. Trong bệnh này có 60% thành phần mô tăng sinh là tế bào cơ trơn và mô liên kết. Các thụ thể alpha -1 nằm trong các cơ trơn tuyến tiền liệt bị kích thích thì trương lực cơ tăng, gây rối loạn tiểu. Chẹn alpha -1 ngăn chặn sự tăng trương lực cơ, giúp cổ bàng quang mở ra dễ dàng, cải thiện các triệu chứng có liên quan đến chức năng tống xuất nước tiểu của bàng quang, cải thiện rối loạn tiểu, làm cho người bệnh dễ chịu. Thường dùng là indoramin, prazosin, terazosin, doxazosin, tamsulosin. Tùy theo loại mà có khoảng 10% người dùng chẹn alpha-1 có thể bị một hay một số các chứng mệt mỏi, hoa mắt, khô miệng, chảy máu cam, buồn nôn nhưng nhẹ.
Chẹn alpha-1 gây hạ huyết áp tư thế đứng, gây ù tai, chóng mặt, mệt mỏi, sung huyết mũi, rối loạn xuất tinh. Không dùng thuốc này cho người bị bệnh suy tim sung huyết. Một số thuốc gây ngủ gà nhiều (indoramin) hay giảm huyết áp tư thế đứng mạnh (prazosin, terazosin), không dùng thuốc khi vận hành máy (ít nhất là 12 giờ). Riêng doxazosin làm giảm triglycerid, giảm cholesterol tốt (HDL-C), tăng cholesterol xấu (LDL- C) cần thận trọng với người có rối loạn lipid - máu. Không dùng cho người có thai cho con bú vì không an toàn và thiếu thông tin.
Các loại thuốc an thần
Dùng cho người tiểu đêm do mất ngủ. Người thường thức dậy giữa đêm khó ngủ lại chỉ cần dùng loại thuốc ngủ tác dụng ngắn.
Một số bài thuốc dân gian dành cho người mắc chứng tiểu đêm
Có thể lựa chọn và sử dụng món ăn – bài thuốc của y học cổ truyền và các thực phẩm chức năng có công dụng dự phòng và hỗ trợ trị liệu chứng tiểu đêm như sau:
Bài 1: phá cố chỉ 12g, ích trí nhân 12g, sà sàng tử 8g, thổ ty tử 12g, khiếm thực 12h, kim anh từ 12, tiểu hồi hương 5g, cam thảo 3g, tất cả đem hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 20 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày
Bài 2:Bầu dục lợn hoặc dê 1 đôi làm sạch, thái miếng rồi đem hầm với khiếm thực 50g, chế đủ gia vị, ăn trong ngày, 7 ngày là một liệu trình.
Bài 3: Bàng quang lợn 1 cái, làm sạch rồi nhét đầy mẫu lệ vào bên trong, buộc kín miệng rồi đem đun trong 15 phút, sau đó bỏ bết mẫu lệ, ăn bàng quang và uống nước dùng, 7 ngày là một liệu trình.
Bài 4: Xương sống lợn (còn cả tủy) 3 đốt, hạch đào nhân 30g, đỗ trọng 15g, tất cả đem hầm nhừ, ăn nóng.
Bài 5: Bạch quả 5 trái, hạt bí đao 30g, hai thứ đem nấu chín ăn, 10 ngày là một liệu trình.
Các nghiên cứu cũng chỉ ra tiểu đêm là yếu tố làm tăng nguy cơ mắc kèm các bệnh khác và tăng tỉ lệ tử vong ở người cao tuổi.
Cách điều trị chứng tiểu đêm nhiều ở người bệnh đái tháo đường
Tại sao phải coi trọng việc điều trị chứng tiểu đêm nhiều?
Chúng ta đã biết, những biến đổi bệnh lý ở mạch máu nhỏ của thận sẽ dẫn đến chứng đi tiểu đêm nhiều lần; đã có nghiên cứu chứng minh rằng: trước khi có những biến đổi mô học ở mạch máu nhỏ của thận thì đã có thể xuất hiện sự biến đổi chức năng, vì thế người mắc bệnh đái tháo đường có thể vẫn bị mắc chứng đi tiểu nhiều lần vào ban đêm ngay cả trước khi xuất hiện những triệu chứng điển hình của bệnh thận như phù thũng và cao huyết áp. Vì vậy, chứng đi tiểu nhiều lần vào ban đêm có thể coi là triệu chứng cảnh báo về thay đổi bệnh lý của thận. Lúc này cần nhanh chóng tích cực điều trị để làm chậm lại sự xuất hiện những biến chứng của bệnh thận.
Ngoài ra, cùng với chứng đi tiểu với lượng tiểu nhiều thì số lần đi tiểu cũng tăng lên, bệnh nhân nhẹ là 2-3 lần một đêm, nặng thì có thể lên tới trên 10 lần một đêm khiến cho người bệnh ngủ không đủ giấc, tinh lực giảm sút, chán ăn, trong người bứt rứt khó chịu, tinh thần ủ rũ; đây có thể là nguyên nhân dẫn đến lượng đường huyết tăng cao khó có thể khống chế được. Vì vậy cả bác sỹ và người bệnh cần coi trọng những triệu chứng lâm sàng này để có biện pháp điều trị tích cực.
Nên tiến hành kiểm tra những gì khi xuất hiện chứng tiểu đêm nhiều?
Khi xuất hiện triệu chứng tiểu đêm nhiều, người bệnh đái tháo đường có thể được kiểm tra áp lực thẩm thấu nước tiểu sau 12 tiếng nhịn uống, tỉ trọng nước tiểu, lượng đường trong nước tiểu, lượng nước tiểu (so sánh giữa ban ngày và ban đêm) và CCr. Ngoài ra, tỉ lệ thanh trừ creatinin, tiêu chí về anbumin trong mạch máu nhỏ của thận như a1-MG, b2-MG và NAG cũng cần được tham khảo và cũng được coi là tiêu chuẩn đánh giá việc điều trị có hiệu quả.
Người mắc chứng tiểu đêm nhiều cần chú ý những gì trong sinh hoạt và sử dụng thuốc?
Người bệnh nên tránh xa những nguyên nhân gây tiểu đêm nhiều như uống trà, cà phê hoặc uống quá nhiều nước trước khi đi ngủ. Do người bị đái tháo đường, bị phù do bị bệnh thận thường phải uống thuốc lợi tiểu, vì thế nên uống thuốc 1 lần vào buổi sáng khi ngủ dậy, không nên uống vào buổi chiều hoặc buổi tối. Thuốc chữa chứng táo bón lại nên uống vào buổi tối trước khi đi ngủ giúp bệnh nhân có thể có thói quen đi đại tiện một lần vào buổi sáng khi ngủ dậy.
Việc truyền nước tĩnh mạch cũng hết sức tránh làm vào buổi chiều hoặc trước khi đi ngủ; thuốc an thần và thuốc bắc cũng nên sử dụng ở mức độ hợp lý để cải thiện chất lượng giấc ngủ cho người bệnh; khi cần thiết có thể điều trị kết hợp với thuốc an thần chống lo lắng, mệt mỏi.