Mẹo vặt chữa bệnh vẩy nến hiệu quả. Bệnh vẩy nến là một loại bệnh không lây lan. Trừ khi bệnh xâm nhập xương khớp hoặc nhiễm độc, vẩy nến thường không gây ra ảnh hưởng xấu cho sức khỏe tổng quát. Nếu có, chỉ là một chút ảnh hưởng tâm lý, buồn phiền lo âu vì da chẳng giống ai.
Bệnh nhẹ khi dưới 2% da bị ảnh hưởng, trung bình khi da có dấu hiệu bệnh từ 3 đến 10% và nặng khi vẩy bao phủ 10% da.
Tế bào ở các vẩy tăng sinh rất mau, chưa kịp rụng đã ra lớp khác nên các vẩy chùm đè lên nhau. Bệnh gây khó chịu nhất khi xuất hiện ở da đầu, bìu dái, bàn tay, bàn chân và móng tay. Vẩy nến ở lòng bàn tay, bàn chân gây nhiều khó khăn cho người bệnh khi đi đứng, lao động chân tay. Xương khớp cổ tay, cổ chân, đầu gối, lưng quần và cổ cũng thường bị ảnh hưởng và gây ra trở ngại di động, làm việc cho người bệnh.
Vẩy nến là bệnh mãn tính, tồn tại suốt đời. Bệnh nhân cần thường xuyên điều trị, đôi khi bệnh trầm trọng, cần nhập viện, y phí khá tốn kém.
Nguyên nhân
Nguyên nhân gây ra bệnh chưa được biết rõ. Có giải thích cho rằng bệnh gây ra do một sự nhầm lẫn của hệ miễn dịch, đặc biệt là các bạch cầu loại T. Bình thường, các tế bào này tuần hành theo máu khắp cơ thể để truy lùng, tiêu diệt các sinh vật hoặc hóa chất gây bệnh. Trong bệnh vẩy nến, bạch cầu T tấn công nhầm các tế bào biểu bì, tưởng chúng là thù địch. Bị kích thích, biểu bì tăng sinh rất nhanh trong vòng vài ba ngày, thay vì cả tháng như thường lệ. Không tróc kịp, các tế bào này và T cell xếp thành từng lớp vẩy trên da. Nguyên nhân của sự nhầm lẫn vẫn còn trong vòng bí mật và diễn tiến bệnh tiếp tục nếu không được điều trị. Cũng có giải thích bệnh có tính cách thừa kế di truyền và nhiều người trong một gia đình có thể cùng bị bệnh.
Một số yếu tố có thể khiến bệnh phát ra là:
-xúc động tâm lý mạnh ảnh hưởng lên hệ miễn dịch, có thể kích thích bệnh xuất hiện lần đầu hoặc tăng mức trầm trọng của bệnh đang tiến triển.
-chấn thương liên tục trên da như vết trầy, vết cắt, cháy da;
-nhiễm độc da hoặc cuống họng, nhiễm HIV
-tác dụng của một vài dược phẩm như thuốc chống sốt rét, thuốc trị tâm bệnh lithium, thuốc trị cao huyết áp loại beta blocker.
-tiêu thụ nhiều rượu hoặc thuốc lá
-mập phì
-thời tiết lạnh hoặc do một vài thực phẩm.
Vẩy nến không lây lan vì không phải là bệnh truyền nhiễm.
Mặc dù vẻ dáng vẩy coi “dị hợm”, nhưng người bệnh không là hiểm họa cho sức khỏe và sự an toàn của người khác.
Nguyên nhân làm bệnh vảy nến tái phát?
Trong khi những nguyên nhân tiềm tàng của bệnh vảy nến bắt nguồn từ hệ miễn dịch của cơ thể, những tác nhân kích thích nhất định có thể làm cho bệnh nặng hơn và tái phát. Bao gồm:
. Thời tiết khô và lạnh. Thời tiết như thế có thể làm da bạn bị khô, làm cơ hội cho bệnh tái phát cao hơn. Ngược lại, thời tiết nóng, nhiều nắng có thể giúp kiểm soát các triệu chứng của bệnh ở đa số người.
. Căng thẳng. Mắc bệnh vảy nến có thể tự gây ra căng thẳng và bệnh nhân thường báo cáo rằng các triệu chứng của bệnh bộc phát đặc biệt trong suốt thời gian căng thẳng đó.
. Một số loại dược phẩm. Những loại thuốc nào đó, như là lithium (một cách điều trị phổ biến cho rối loạn lưỡng cực), thuốc sốt rét, và một vài loại thuốc beta-blocker (dùng để trị chứng cao huyết áp, bệnh tim, và một số chứng loạn nhịp tim) có thể làm bệnh vảy nến bộc phát.
. Nhiễm trùng hay bệnh. Những loại bệnh nhiễm trùng nào đó, như viêm họng hay viêm amiđan có thể gây bệnh vảy nến giọt (guttate psoriasis) và những loại bệnh khác. Bệnh vảy nến có thể nặng thêm ở những người mắc bệnh HIV.
. Tổn thương da. Ở một số người mắc bệnh vảy nến, tổn thương da – bao gồm đứt, bầm tím, bỏng, u bướu, tiêm chủng, vết xăm và những loại khác – có thể làm cho bệnh vảy nến bộc phát ở nơi bị tổn thương. Tình trạng này được gọi là “hiện tượng Koeboner”.
. Chất có cồn. Sử dụng chất có cồn có thể gia tăng nguy cơ tái phát bệnh, chí ít là ở đàn ông.
. Hút thuốc. Một số chuyên gia cho rằng hút thuốc có thể làm bệnh vảy nến nặng thêm.
Triệu chứng của bệnh vẩy nến bao gồm:
- Các tế bào da chết dày lên, những nốt vẩy da gây ngứa, các vẩy như vẩy cá trên da ngày càng phát triển. Sâu dưới vẩy có màu hồng còn phía trên vẩy da thì màu trắng.
- Các vẩy này phát triển trên da đầu, đầu gối, khuỷu tay, phần trên của thân là nhiều. Tuy nhiên, khi chúng phát triển ở móng tay và móng chân, thì các vẩy trở nên dày hơn, sần sùi và không màu.
- Những vẩy như vẩy cá, màu đỏ gây tổn thương da ở lòng bàn tay với các mụn nhỏ là dấu hiệu của vẩy nến ở lòng bàn tay, và xuất hiện dấu hiệu tương tự gọi là vẩy nến ở bàn chân. Và nó liên quan đến các khớp, dễ phát triển thành bệnh viêm khớp vẩy nến.
Triệu chứng của bệnh viêm khớp vẩy nến bao gồm:
- Các khớp trở nên đau, cứng nhắc, không linh hoạt và yếu đi.
- Làm giảm khả năng vận động
- Các móng tay chân sần sùi, và thay đổi theo hướng xấu đi.
Nếu thấy các dấu hiệu trên thì có đến 80% khả năng bạn mắc bệnh viêm khớp vẩy nến.
Điều trị – Điều trị vẩy nên là cả một thách thức với mục đích chính là gián đoạn sự tăng sinh quá nhanh của tế bào biểu bì, giảm viêm da, vẩy nến.
Có nhiều phương thức trị liệu khác nhau. Bác sĩ sẽ lựa phương thức thích hợp cho từng bệnh nhân và tùy theo bệnh nặng hay nhẹ. Hiện nay không có trị liệu dứt được bệnh vẩy nến, mà chỉ làm dịu tạm thời.
Các phương thức đó là:
1- Thuốc thoa ngoài da:
Với dạng bệnh nhẹ, thuốc thoa trên da có thể giải quyết vấn đề. Bệnh nặng hơn, cần phối hợp với thuốc uống hoặc chích.
a-Thuốc Corticosteroids như Ultravate, Tenovate, Psorcon, rất công hiệu và thường được dùng ở trường hợp bệnh nhẹ hoặc trung bình.
b-Thuốc Donovex thuộc nhóm Vitamin D tổng hợp làm giảm viêm và ngăn sự tăng sinh tế bào da.
c-Thuốc Retinoid từ sinh tố A như Tazorac.
d-Nhựa than đá (Coal Tar) được dùng để trị vẩy nến từ thuở xa xưa để giảm viêm ngứa. Thuốc khá công hiệu, ít tác dụng phụ nhưng có mùi khó chịu lại dính quần áo khó coi.
2- Quang trị liệu với ánh sáng mặt trời, các tia tử ngoại B (UBV), quang hóa trị liệu PUVA (Psoralen Plus Ultraviolet A), laser xung nhuộm màu tía (Pulsed Dye Laser).
3- Dược Phẩm – Có nhiều dược phẩm đặc trị bệnh vẩy nến:
a- Rheumatrex (Methotrexate). Thuốc này được dùng trong trường hợp bệnh nặng, tái phát và không bớt sau khi dùng các phương thức khác. Thuốc phải do bác sĩ quyết định và theo dõi sau khi đã chẩn định bệnh bằng sinh thiết mô bào. Thuốc có nhiều tác dụng phụ mạnh.
b- Neoral (Cycloporine) Thuốc dùng khi bệnh nặng, không thuyên giảm với PUVA, Retinoid hoặc Methotrexate. Thuốc có thể gây ra cao huyết áp và bệnh thận.
c- Retinoid uống (Acitretin), Tegison cho các trường hợp vẩy nến trầm trọng.
d- Dược phẩm sinh học Alefacept (Amevive), etanercept (Enbrel), infliximab (Remicade).
Đây là các loại thuốc chích có tác dụng trên tế bào miễn dịch T cell để trị bệnh được nghi là do miền dịch gây ra và được dùng khi các trị liệu khác không thành công.
Kết luận
Vẩy nến là bệnh hơi khó trị, cần kiên nhẫn. Bác sĩ lo chọn lựa thuốc, bệnh nhân cũng cần hợp tác với bác sĩ và tự chăm sóc bệnh của mình.
-Tắm mỗi ngày để loại bỏ vẩy bám trên da. Tránh nước quá nóng, xà bông quá mạnh làm da thêm khô ngứa. Lau da nhẹ nhàng tránh gây tổn thương thêm.
-Pha dầu tắm như Epson, Dead Sea salt, dầu thực vật trong bồn nước, ngâm mình khoảng 15 phút cho da mềm.
-Ngay sau khi tắm, da còn hơi nước, thoa các loại kem làm ẩm da. Mùa lạnh khô, cần thoa kem làm ẩm da nhiều lần trong ngày.
-Nhớ thoa và dùng thuốc trị bệnh do bác sĩ chỉ định
-Giữ hẹn tái khám để bác sĩ theo dõi tiến triển bệnh, thay đổi trị liệu.
-Phơi nắng nhẹ cũng giúp phần nào nhưng đừng để da cháy nắng
-Tránh gãi chỗ ngứa. Giữ da ấm.
-Tìm hiểu thêm về bệnh để biết cách chăm sóc, tránh tái phát hoặc trầm trọng hơn.
Đôi khi người bệnh cũng nên có thái độ hòa hoãn, sống chung hòa bình với Vẩy Nến, một bệnh tương đối lành tính, tuy khó chữa, nhưng không gây hậu quả hiểm nghèo như nhiều bệnh khác.
Cách dùng thuốc chữa bệnh vẩy nến
Bệnh Vẩy Nến là do sự rối loạn điều tiết tạo nên một màng ngăn bám chặt trên da. Màng bám này sản sinh tế bào nhanh gấp 10 lần so với bình thường rồi chết. Nhưng thay vì mất đi như tế bào chết bình thường thì nó nổi lên thành từng vẩy trắng.
Bệnh Vẩy Nến thường xuất hiện ở đầu gối, khuỷu tay, da đầu nhưng đôi khi cả ở thân thể, gan bàn tay, bàn chân và các ngón chân. đôi khi xuất hiện toàn thân, các vảy trắng bong ra khi gãi và để lại một lớp dưới màu hồng, đôi khi có rớm máu
Vẩy Nến được xem như một tình trạng tăng sinh quá mức của các keratinocyte ở thượng bì dưới sự kích thích của các lymphocyte ở bì. Cơ chế chính xác và dây chuyền tương tác giữa các keratinocyte và các tế bào miễn dịch vẫn chưa được hiểu một cách đầy đủ. Tuy nhiên, nhiều bằng chứng cho thấy các tế bào T hoạt hóa là những chất điều chỉnh miễn dịch chủ yếu trong sinh bệnh học của vẩy nến.Thoạt đầu, các tế bào T hoạt hóa xâm nhập vào lớp bì ở vùng da tổn thương nhờ các phân tử kết dính tế bào và cytokine tiền viêm interleukin-8 (IL-8). Đa số tế bào T ở thượng bì là loại CD4+helper.
Các tế bào T bị kích hoạt bởi các tế bào nhận diện kháng nguyên. Quá trình này sản xuất ra nhiều loại cytokine. Các tế bào T sản xuất IL-2 và interferon-y (INE-y) được gọi là tế bào Th1 và miễn dịch trung gian tế bào. Ngược lại, các tế bào T sản xuất IL-4, IL-5 và IL-10 được gọi là các thế bào Th2 và góp phần trong miễn dịch cơ thể. Các cytokime Th1 là những chất tiền viêm, còn các cytokine Th2 là những chất chống viêm. Trong vẩy nến, loại Th1 chiếm ưu thế còn Th2 ít hơn.
Triệu chứng của :Bệnh Vẩy Nến
Bệnh thường xuất hiện từ từ, tồn tại một thời gian rồi thuyên giảm. Sau đó bệnh tái phát, nhất là khi có chấn thương da, cháy nắng, viêm, dị ứng thuốc. Dấu hiệu đặc biệt nhất là những mảng vết thương trên da khô, hình bầu dục hoặc tròn, mầu hồng đỏ phủ lên trên là nhiều lớp vẩy mầu bạc. Các vết này rất ngứa và đau. Ngứa vì da khô và dây thần kinh dưới da bị một vài hóa chất kích thích, khiến cho não phát ra cảm giác ngứa, muốn gãi. Ngoài ra, dấu vết trên da có thể là:
-vẩy nến giọt mầu đỏ hình bầu dục.
-vẩy nến đảo ngược ở nếp gấp trên da như cơ quan sinh dục, nách.
-vẩy nến mủ với bóng nước chứa mủ.
-vẩy nến từng mảng lớn mầu đỏ với hậu quả trầm trọng như rối loạn thân nhiệt, mất cân bằng chất điện giải cơ thể.
-vẩy nến khớp xương, gây trở ngại cho cử động.
Bệnh thường có trên da đầu, sau vành tai, khuỷu tay, đầu gối, hông, vùng cơ quan sinh dục. Móng tay, lông mày, rốn, hậu môn cũng thường bị ảnh hưởng. Đôi khi bệnh lan khắp cơ thể.
Khi lành, vết thương thường không để lại sẹo và ở trên đầu, tóc vẫn mọc.
Trong 60% các trường hợp, móng tay móng chân cũng bị bệnh: móng chẻ, mất mầu dầy cộm nom như bị bệnh nấm.
Khoảng từ 10 tới 30% bệnh nhân bị viêm khớp-vẩy nến, thường thường ở tuổi 30 tới 50.
Xác Định :Bệnh Vẩy Nến
Không có thử nghiệm máu hoặc phương thức khoa học nào để chẩn đoán bệnh. Bác sĩ xác định bệnh qua hình thù, mầu sắc của vẩy trên da, đôi khi lấy một chút mô ở vùng bệnh để tìm tế bào đặc biệt vẩy nến.
Tiên lượng bệnh - Bệnh Vẩy Nến là bệnh không lây lan. Trừ khi bệnh xâm nhập xương khớp hoặc nhiễm độc, vẩy nến thường không gây ra ảnh hưởng xấu cho sức khỏe tổng quát. Nếu có, chỉ là một chút ảnh hưởng tâm lý, buồn phiền lo âu vì da chẳng giống ai.
Bệnh nhẹ khi dưới 2% da bị ảnh hưởng; trung bình khi da có dấu hiệu bệnh từ 3 đến 10% và nặng khi vẩy bao phủ 10% da.
Tế bào ở các vẩy tăng sinh rất mau, chưa kịp rụng đã ra lớp khác nên các vẩy chùm đè lên nhau. Bệnh gây khó chịu nhất khi xuất hiện ở da đầu, bìu dái, bàn tay, bàn chân và móng tay. Vẩy nến ở lòng bàn tay, bàn chân gây nhiều khó khăn cho người bệnh khi đi đứng, lao động chân tay. Xương khớp cổ tay, cổ chân, đầu gối, lưng quần và cổ cũng thường bị ảnh hưởng và gây ra trở ngại di động, làm việc cho người bệnh.
Điều trị- Điều trị Bệnh Vẩy Nến là cả một thách thức với mục đích chính là gián đoạn sự tăng sinh quá nhanh của tế bào biểu bì, giảm viêm da, vẩy nến.
Có nhiều phương thức trị liệu khác nhau. Bác sĩ sẽ lựa phương thức thích hợp cho từng bệnh nhân và tùy theo bệnh nặng hay nhẹ. Điều trị tại chỗ bạn có thể tắm gội bằng Sastid hoặc Polytar. Bôi mỡ Salicylé 5% hoặc mỡ BenzoSaly vào tổn thương có nhiều vẩy. Nếu tổn thương bớt vảy hoặc hết vảy thì bạn có thể bôi các chế phẩm có chứa steroid như Temprosone, Flucinar, Synalar, Fucicort, Diprosalic…Song song là điều trị toàn thân khi bệnh trong giai đoạn bùng phát thì bạn nên dùng một đợt kháng sinh như Ampicilline hoặc Rovamycin. Có thể dùng thêm thuốc chống ngứa, chống dị ứng như Phenecgan hoặc Chlorpheniramine lúc đi ngủ.
Các phương thức điều trị đó là:
1- Thuốc thoa ngoài da:
Thuốc Chữa Bệnh Vẩy Nến :Với dạng bệnh nhẹ, thuốc thoa trên da có thể giải quyết vấn đề. Bệnh nặng hơn, cần phối hợp với thuốc uống hoặc chích.
a-Thuốc Corticosteroids như Ultravate, Tenovate, Psorcon, rất công hiệu và thường được dùng ở trường hợp bệnh nhẹ hoặc trung bình.
b-Thuốc Donovex thuộc nhóm Vitamin D tổng hợp làm giảm viêm và ngăn sự tăng sinh tế bào da.
c-Thuốc Retinoid từ sinh tố A như Tazorac.
2- Quang trị liệu với ánh sáng mặt trời, các tia tử ngoại B (UBV), quang hóa trị liệu PUVA (Psoralen Plus Ultraviolet A), laser xung nhuộm màu tía (Pulsed Dye Laser).
3- Dược Phẩm - Có nhiều dược phẩm đặc trị bệnh vẩy nến:
a- Rheumatrex (Methotrexate). Thuốc này được dùng trong trường hợp bệnh nặng, tái phát và không bớt sau khi dùng các phương thức khác. Thuốc phải do bác sĩ quyết định và theo dõi sau khi đã chẩn định bệnh bằng sinh thiết mô bào. Thuốc có nhiều tác dụng phụ mạnh.
b- Neoral (Cycloporine) Thuốc dùng khi bệnh nặng, không thuyên giảm với PUVA, Retinoid hoặc Methotrexate. Thuốc có thể gây ra cao huyết áp và bệnh thận.
c- Retinoid uống (Acitretin), Tegison cho các trường hợp vẩy nến trầm trọng.
d- Dược phẩm sinh học Alefacept (Amevive), etanercept (Enbrel), infliximab (Remicade). Đây là các loại thuốc chích có tác dụng trên tế bào miễn dịch T cell để trị bệnh được nghi là do miền dịch gây ra và được dùng khi các trị liệu khác không thành công.
Giới thiêu sản phẩm tốt nhất HT chữa Bệnh Vẩy Nến và Á sừng :Kliquidclorophyll-A-Kliquidclorophyl-A ức chế phát triển của vi khuẩn và nấm, kích thích việc phục hồi các mô đã bị hư hại, trị Bệnh Vẩy Nến vô cùng hiệu nghiệm, kết quả thật nhanh chóng không ngờ.Thực tế cho thấy, rất nhiều bệnh nhân đã được chữa dứt bệnh vẩy nến trong vòng 30 ngày đến 90 ngày (với trường hợp nặng nhất ).
Chlorophyll giúp thải độc cho gan,lọc máu, tiêu diệt nấm và vi khuẩn trên da giúp cho da nhanh chóng phục hồi các tổ chức mô . Kết hợp với iposalic,Glovate hoặc Flucinar bôi ngoài hiệu quả đáp ứng càng cao. Tại nhiều nước châu Âu (Đức, Anh, Pháp …) và FDA tại Mỹ coi chlorophyll và chlorophyllin như một thực phẩm-thuốc an toàn, không có giới hạn về liều lượng uống (Báo cáo của FAO-WHO số 557, năm 1974).
-Kliquidclorophyl-A đã được áp dụng rất nhiều trong việc điều trị các bệnh thoái hoá da,Viêm da, nhiễm trùng da, tăng huyết áp, tiểu đường, alzhermer,vẩy nến , á sùng …
Các lợi điểm chính của việc sử dụng chlorophyllin:
- Nguồn gốc tự nhiên, có thể sử dụng lâu dài, không có tác dụng phụ và không tương tác với các thuốc khác.
- Ức chế sự phát triển của các vi khuẩn, đặc biệt là các vi khuẩn kỵ khí (có nhiều trong đường tiêu hoá và khoang miệng, mảng bám răng,các lớp tế bào da bị chết) các vi khuẩn này bị ức chế bởi oxy được sinh ra từ chlorophyllin. Chất diệp lục còn có khả năng sát khuẩn, khử mùi trong các vết thương, vết loét. Năm 1948, cố DS. Đỗ Tất Lợi là người đầu tiên sử dụng chất diệp lục chiết suất từ cây xanh vào mục đích chữa trị các vết thương nhiễm trùng.Các vết lở loét ngoài da cho bộ đội.
Hướng dẫn sử dụng: Ngày uống từ 1 đến 3 lần, mỗi lẫn pha 1 thìa dung dịch vào 250 ml nước, lắc kỹ trước khi sử dụng .Dùng bôi ngoài: vào buổi tối trước khi đi ngủ
Vảy nến, bệnh lành tính nhưng khó trị
Ước tính có khoảng 2-3% dân số thế giới mắc bệnh vảy nến, lứa tuổi nào cũng có thể bị nhưng thường gặp nhất ở 15-35 tuổi.
Vảy nến là bệnh lý viêm mạn tính, miễn dịch qua trung gian tế bào, có liên quan tới gien di truyền, biểu hiện ngoài da hoặc khớp; hay cả da và khớp. Tỷ lệ bệnh gần như bằng nhau ở nam và nữ giới, không phân biệt thuộc thành phần kinh tế xã hội. Vảy nến cũng xuất hiện ở tất cả các dân tộc nhưng với tỷ lệ khác nhau.
Hiện tại chưa ai biết chính xác nguyên nhân gây ra bệnh vảy nến, nhưng người ta tin chắc bệnh có liên quan tới yếu tố gien. Các nhà nghiên cứu đã công nhận rằng hệ thống miễn dịch của cơ thể phát ra những tín hiệu sai lệch làm kích hoạt tốc độ phát triển của tế bào da nhanh một cách bất thường. Một tế bào da bình thường trưởng thành và rời khỏi bề mặt da trong khoảng 28-30 ngày. Tế bào da của người bệnh vảy nến chỉ cần 3-4 ngày là trưởng thành và di chuyển lên bề mặt da, thay vì rơi ra, chúng lại dính với nhau và tạo nên vảy nến.
Thương tổn đặc trưng là mảng da màu đỏ, giới hạn rõ, bề mặt có vảy trắng, dễ tróc, thường xuất hiện ở da đầu, đầu gối, cùi chỏ và thân mình. Ngoài ra thương tổn cũng có thể xuất hiện ở bất cứ vị trí nào của cơ thể như móng, lòng bàn tay, lòng bàn chân, vùng sinh dục và mặt...
Những tổn thương do vảy nến. Ảnh: Trọng Hào. |
Có 5 thể vảy nến. Đó là vảy nến mảng (thường gặp nhất, chiếm khoảng 80%), vảy nến giọt, vảy nến đảo nghịch, vảy nến mủ và vảy nến đỏ da toàn thân.
Các thương tổn da của bệnh vảy nến nhìn có vẻ ghê sợ nhưng hoàn toàn không lây cho người khác. Do vậy không nên kỳ thị hay xa lánh bệnh nhân vảy nến.
Lưu ý tầm soát các bệnh lý kèm theo:
Trong hầu hết các trường hợp, vảy nến diễn tiến lành tính, bệnh nhân có thể sống chung với bệnh mà không có ảnh hưởng đáng kể về mặt sức khỏe ngoại trừ ảnh hưởng đến tính thẩm mỹ. Tuy nhiên cần lưu ý một số bệnh kèm theo xuất hiện trước, trong hoặc sau khi khởi phát vảy nến như viêm khớp vảy nến, hội chứng chuyển hóa, bệnh tim mạch...
Vảy nến khớp là một dạng đặc biệt của viêm khớp, xảy ra khoảng 10-30% bệnh nhân vảy nến. Ở vảy nến khớp, các khớp và mô mềm xung quanh khớp bị viêm đỏ và cứng. Vảy nến khớp có thể bị ở ngón tay, ngón chân, và có thể xảy ra ở cổ, lưng, ngón chân và mắt cá. Trong những trường hợp bệnh nặng, vảy nến khớp có thể gây biến dạng và phá hủy khớp không hồi phục.
Hiện nay người ta nói nhiều đến một số rối loạn chuyển hóa kèm theo vảy nến như rối loạn mỡ máu, tăng huyết áp, béo phì, xơ vữa động mạch… Đây chính là những yếu tố nguy cơ tim mạch do vậy cần lưu ý và tầm soát để phát hiện sớm trên bệnh nhân vảy nến.
Vảy nến ở đầu. Ảnh: Trọng Hào. |
Một số yếu tố khởi phát hoặc làm vảy nến nặng hơn
Stress có thể làm bộc phát bệnh vảy nến lần đầu tiên hoặc làm bệnh trở nặng hơn. Vảy nến có thể xảy ra ở vị trí da bị chấn thương, người ta gọi đó là hiện tượng Koebner. Chích ngừa, phơi nắng, cào gãi cũng có thể gây hiện tượng Koebner. Một số thuốc như: thuốc chống sốt rét, lithium, một vài thuốc ức chế beta cũng là tác nhân làm bùng phát bệnh. Các yếu tố khác như: thay đổi khí hậu, chế độ ăn, dị ứng…
Có thể kiểm soát nhưng không thể trị khỏi hẳn vảy nến. Hiện tại có rất nhiều phương pháp điều trị vảy nến, vẫn chưa có cách nào điều trị khỏi hẳn bệnh. Hy vọng trong tương lai sẽ có thể thay đổi các gien gây bệnh này, hoặc có các phương pháp điều trị bệnh hiệu quả, chuyên biệt hơn cho nhiều dạng vảy nến.
Vảy nến không thể khỏi hẳn nhưng chúng ta có thể kiểm soát bệnh trong một khoảng thời gian vài tháng thậm chí vài năm. Đôi khi, bệnh không tái phát trở lại, nhưng đa số bệnh nhân mang bệnh mạn tính kéo dài với từng đợt bùng phát và hết bệnh xen kẽ nhau.
Diễn tiến của bệnh vảy nến khó mà đoán trước được gây khó khăn trong điều trị ở nhiều bệnh nhân. Điều quan trọng là phải có đời sống tinh thần thoải mái và đi khám chuyên khoa da để tìm ra phương pháp điều trị thích hợp với tình trạng của mình.
Bệnh nhân vảy nến cần hiểu rõ về tình trạng bệnh của mình
Tại Bệnh viện Da liễu TP HCM, hàng năm có khoảng 11.000 đến 15.000 lượt bệnh nhân vảy nến đến khám và điều trị. Trong quá trình điều trị, chúng tôi nhận thấy tầm quan trọng của việc tư vấn cho người bệnh vảy nến để họ hiểu rõ tình trạng bệnh của mình, biết cách tự chăm sóc, tránh các yếu tố khởi phát hoặc làm bệnh nặng hơn, tuân thủ và hợp tác tốt với bác sĩ nhằm mang lại kết quả điều trị tốt nhất.
Ngoài ra, người bệnh vảy nến cũng cần tìm hiểu về bệnh thông qua các câu lạc bộ vảy nến dành cho thân nhân, bệnh nhân vảy nến. Các câu lạc bộ này thường được tổ chức định kỳ tại những bệnh viện chuyên khoa da liễu, hay thông qua các diễn đàn chia sẻ, giao lưu giữa những người vảy nến với nhau.
Bệnh vảy phấn hồng Gibert
Đoán bệnh qua móng tay
Nguyên nhân và cách phòng chống nấm da đầu ở người lớn
Bệnh vảy phấn trắng Alba
Bệnh vẩy nến
(st)