Những cảnh đẹp ở Bình Định du khách hay lui tới nhất. Cùng điểm lại những cảnh đẹp cực ấn tượng của Bình Định nhé
Bãi biển Quy Nhơn
Thiên nhiên đã hào phóng ban tặng cho Quy Nhơn những bãi biển tràn ngập ánh nắng, mặt nước trong xanh, thu hút đông đảo khách du lịch đến đây hòa mình vào cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, biển cả bao la với những Bờ cát dài phẳng lặng/ Soi ánh nắng pha lê (Thơ Xuân Diệu) ngập tràn gió lộng, xen giữa những bãi biển lấp lánh cát vàng, sóng xanh và thưởng thức các món hải sản đặc sắc của địa phương:
Những bãi cát vàng trải dài.
Bãi Trứng
Bãi Trứng hay còn gọi bãi tắm Hoàng Hậu (ngày trước mỗi lần ghé Quy Nhơn, Nam Phương hoàng hậu đều đến đây tắm biển) nằm trong khu danh thắng Ghềnh Ráng (rộng 35 ha) cách thành phố Quy Nhơn 3 km về phía Đông – Nam. Bãi tắm này ghi dấu với du khách với vẻ đẹp của cung đường biển uốn lượn, cát trắng, biển xanh và vô số những tảng đá tròn trịa trên bờ.
Ngoài tắm biển, đến đây, bạn có thể tham quan vẻ đẹp của Gềnh Ráng, quần thể sơn thạch chạy sát biển, đá chất chập chùng thành hang, thành rạng, ghé mộ nhà thơ Hàn Mạc Tử, tìm hiểu về Lầu Ông Hoàng đó với Ánh trăng treo nghiêng nghiêng, hay xuôi ra đảo có tên là Hòn Đất Bi khám phá những hang động kỳ thú.
Biển Quy Hòa
Cách Bãi trứng chỉ một quả đồi đi về phía Nam là Biển Quy Hoà nép mình cạnh trại phong Quy Hoà. Giống như tên gọi, biển Quy Hoà trong lành và êm đềm với bờ cát mịn trải dài ngày đêm đùa nghịch với con sóng nhỏ, nước trong vắt và những hàng dương xanh ngát đung đưa theo tiếng gió, tiếng chim ríu rít hoà lẫn trong tiếng sóng tạo cảm giác thanh bình và yên ả. Sau khi vui đùa với sóng, bạn có thể mua vé vào tham quan trại phong Quy Hoà. Trái với tên gọi và căn bệnh, trại phong có không gian thoáng mát, thơ mộng với những kiến trúc đa dạng, cầu kỳ bên những con đường uốn lượn, quanh co. Ấn tượng nhất là một vườn tượng với những bức tượng bán thân đầy sinh động của các nhà khoa học, bác học, bác sĩ… nổi tiếng trên thế giới.
Bãi Bàu
Bạn tiếp tục đi về phía Nam theo con lộ Quy Nhơn – Sông Cầu là Bãi Bàu nằm phía Bắc huyện Sông Cầu, tỉnh Phú Yên, cách thành phố Quy Nhơn khoảng 15km. Ấn tượng đầu tiên khi đặt chân đến Bãi Bàu là một bãi biển êm đềm, tuyệt sạch và yên bình nhờ bao bọc bởi hai dãy núi nhô ra biển.
Ngoài biển xanh, cát vàng cùng những đợt sóng nhẹ, Bãi Bàu còn sở hữu những ghềnh đá, đồi núi nhấp nhô vươn ra mé biển, vì thế nếu thích cảm giác mạnh, bạn có thể tham gia các trò chơi như nhảy ghềnh, leo núi…. Khi đã thấm mệt, đừng quên thả người trên cát, vừa thư giãn vừa thưởng thức những hải sản nổi tiếng của nơi đây như sò huyết Ô Loan (Phú Yên đưa ra), cá thu chấm với nước mắm Ông Già.
Bãi Xép
Cùng một cung đường là Bãi Xép. Ngoài lợi thế của một bãi tắm đẹp, Bãi Xép cũng xanh mát với vườn cây ăn quả, rừng dừa, rừng dương, bãi cỏ… khiến bạn có cảm giác đang ở một vùng quê yên tĩnh hơn là vùng biển sóng vỗ rì rào. Từ bãi Xép, bạn có thể ngắm nhìn vẻ đẹp của dãy Phương Mai, hòn Ngang, hòn Đất và vịnh biển Quy Nhơn xinh đẹp. Nằm trong khu sinh thái rừng biển nên nếu thích mạo hiểm, bạn có thể đi ngược về phía Tây khoảng 1 km, đến suối Vàng, sẽ bắt gặp một vùng thiên nhiên hoang dã với rừng cây, thác nước đầy thơ mộng...
Bãi Dại
Sự kết nối của cung đường biển trong xanh này ôm gọn những khối đá co cụm nhiều hình dáng rải rác trên bờ và dưới biển mang đến cho bãi Dại vẻ đẹp thơ mộng và góc cạnh. Vẻ đẹp của bãi Dại có thể làm mềm lòng cả những vị khách khó tính nhất. Sau khi vùng vẫy thoả thích trong làn nước trong vắt, bạn có thể tìm cho mình bóng râm giữa các khối đá lớn, ngồi câu cá hay đong đưa trên những chiếc võng ở các nhà chòi cạnh biển nghe tiếng sóng, tiếng gió, cả tiếng đàn, sáo vi vu vang lên từ các chòi bên cạnh.
Bãi Nhổm
Cũng đấy thôi là Bãi Nhổm. Tuy nhỏ nhưng bãi Nhổm nổi bật với triền núi đá hoa cương đỏ trải dài ra biển và màu màu xanh của rừng tạo nên một cảnh quan tuyệt đẹp. Cũng như các bãi biển khác của Quy Nhơn, biển bãi Nhổm có độ dốc thấp, sóng nhẹ, nước trong xanh.
Ghềnh Ráng – Tiên Sa
Đây là một trong những bãi tắm đẹp của biển Quy Nhơn và trong tâm thức dân gian, cảnh đẹp huyền ảo bao giờ cũng là nơi có bóng dáng của thần tiên. Ghềnh Ráng cách Trung tâm thành phố Quy Nhơn tỉnh Bình Định khoảng 3km về phía Đông nam.Đến nơi đây du khách sẽ có được cảm giác tuyệt vời khi giẫm bàn chân trần lên những viên đá tròn, nhẵn như trứng chim khổng lồ, nằm xếp lên nhau trên bãi biển. Hai bên ghềnh đá nhô cao như những chàng vệ sĩ hứng tấm lưng trần chắn những đợt sóng lớn liên tục xô vào bờ, tung lên cao những đám bọt trắng xóa như pháo thăng thiên.
Bãi trứng Ghềnh Ráng.
Đến đây du khách còn được đắm mình trong không gian yên tĩnh, hài hòa của gió núi và sóng biển. Bãi tắm Hoàng Hậu - món quà của thiên nhiên ưu đãi cho vùng đất võ trời văn. Còn tên Ghềnh Ráng thì do những người đi biển đặt ra. Qua những nơi nhiều gành, lắm rạn, người ta phải tìm cách đổ bớt gió trong buồm ra cho thuyền đi chậm lại. Theo ngư dân trong nghề đi biển gọi là ráng. Đi ngang qua bãi đá Nhạn Châu, người ta phải thường làm như thế. Lâu dần thành tên, vùng này được gọi là Ghềnh Ráng.
Từ đỉnh Ghềnh Ráng có thể phóng tầm mắt nhìn rộng cả bốn bề. Phía Nam như một bức tranh sơn thủy hữu tình với những dải núi xanh dựng thành từng lớp, nơi cao, nơi thấp chạy dọc theo ven biển đến tận Quy Hòa. Hướng về phương Bắc, lướt mắt qua dải cát vàng mịn óng, thành phố Quy Nhơn hiện lên với dọc ngang nhà cửa san sát, suốt ngày người đi, kẻ lại. Xoay lưng vào động cát phía Tây, quay mặt ra hướng Đông là biển cả bao la một màu xanh biếc. Chếch về hướng Đông Bắc là bán đảo Phương Mai án ngữ cửa Thị Nại như một tấm bình phong khổng lồ. Xa xa về phía Đông Nam, cách Quy Nhơn chừng 5km có một đảo lớn, tên chữ là Thanh Châu, tục gọi Cù Lao Xanh. Từ xa xưa những người dân biển đã coi hòn đảo này như một tiêu mốc để định hướng đi. Sau này một ngọn hải đăng đã được xây dựng trên đó.
Đi dọc theo con đường đất uốn lượn trên núi, du khách có dịp chiêm ngưỡng những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc kỳ dị mà tạo hóa đã tạc nên. Trên một phiến đá lớn có một bức phù điêu hình mặt người. Lại có khối sơn thạch được mưa gió và thời gian mài gọt trông tựa đầu một con sư tử lớn đang chồm ra biển Đông, có trụ dáng hình đá Vọng Phu.
Ghềnh Ráng.
Từ xa xưa, trong tâm thức dân gian, cảnh đẹp huyền ảo bao giờ cũng là nơi có bóng dáng của thần tiên. Cũng bởi lẽ đó mà Ghềnh Ráng là nơi có truyền thuyết Tiên.
Chuyện kể rằng, ngày xưa có một gia đình nông dân nghèo, sinh được một cô con gái nết na, xinh đẹp. Khi lớn lên cô gái đã có một mối tình trong trắng và mê say với một chàng trai cùng làng. Nhưng trớ trêu thay, tiếng đồn về nhan sắc "chim sa, cá lặn" của nàng đã đến tai một viên quan hám sắc và độc ác. Tên này rắp tâm ép nàng làm vợ.
Bằng thủ đoạn gian xảo và ỷ thế quyền lực, hắn bắt người con trai đi lính rồi đưa chàng đến tận nơi biên ải xa xôi và buộc nàng phải nộp 10 cân yến sào trong vòng một tháng, nếu không đúng hạn sẽ phải lấy hắn. Giữ trọn mối tình chung thủy với người yêu, người con gái không quản hiểm nguy quyết chí ra biển tìm tổ yến. Không chịu khuất phục trước âm mưu đen tối của tên quan hiếu sắc, người con trai đã trốn về tìm lại được người yêu.
Vì hạnh phúc lứa đôi và thương người yêu thân gái liễu yếu đào tơ, chàng không quản khó khăn nguy hiểm, quyết tâm thay nàng ra đảo. Người con gái trở về sống trong mong đợi và lo âu. Đến thời hạn nộp yến mà bóng chàng vẫn biền biệt. Sợ quá nàng đành bỏ chốn.
Hay chuyện, viên quan cho lính đuổi theo. Bị truy đuổi gắt gao, người con gái chạy đến Ghềnh Ráng, ẩn vào núi Vũng Chùa. Quân lính đuổi tới đây bỗng trời nổi cơn giông tố, gió cuốn ào ào, mưa bay mù mịt, sấm chớp đùng đùng. Bỗng nhiên núi nứt ra một khe lớn, nàng chạy vụt vào đó rồi biến mất. Khi giông tan, trời quang, mây tạnh, khe núi biến thành một dòng suối mát, uốn lượn trên sườn núi như một dải lụa nối trời với đất. Người đời gọi đó là suối tiên.
Chàng trai khi tìm được đủ số yến cũng hối hả trở về những mong chuộc lại được người yêu. Nào ngờ trên đường từ đảo vào đất liền cũng gặp giông bão, yến bị sóng biển cuốn trôi hết. Chàng đuối sức rồi ngất xỉu, sóng biển đã đưa chàng tấp vào Ghềnh Ráng. Khi tỉnh lại, chàng còn đang ngơ ngác chưa hiểu mình bị dạt vào nơi đâu thì thấy bóng người con gái lúc hiện lúc ẩn, chàng vừa gọi vừa chạy theo cho đến khi hai người cùng biến mất.
Ghềnh Ráng trở thành nơi đoàn tụ của những đôi uyên ương, vì cường quyền mà không nên được nghĩa vợ chồng lúc còn ở dương gian. Họ đã phải thoát tục thành tiên mới đến được với nhau. Câu chuyện đượm màu huyền thoại và đậm chất nhân văn ấy đã gán cho Ghềnh Ráng thêm hai chữ Tiên Sa, nên trong dân gian thường gọi vùng này bằng cái tên ghép Ghềnh Ráng - Tiên Sa.
Bãi Tiên Sa - thu hút đông đảo khách du lịch.
Vì đắm say cảnh trời biển bao la, mà trong những lần theo vua Bảo Đại đi kinh lý các tỉnh miền Trung, Nam Phương Hoàng hậu đã chọn nơi đây làm bãi tắm cho riêng mình. Năm 1927, ông đã cho xây dựng một tòa biệt thự ba tầng cùng những công trình phục vụ cho cuộc sống đế vương trong những khi đi kinh lí và nghỉ ngơi, thưởng ngoạn cảnh đẹp ở Bình Định. Tòa biệt thự này đã bị nhân dân đập phá năm 1949, nay chỉ còn lại phế tích, và bãi tắm Hoàng hậu có tên gọi bắt nguồn từ đây.
Ghềnh Ráng còn nổi tiếng thêm nhờ tài danh của thi sỹ Hàn Mạc Tử. Do mắc chứng bệnh hiểm nghèo, ông đã phải sống những năm tháng cuối đời trong trại phong Quy Hòa. Tâm trạng đầy đau thương và giông bão lại được tiếp thêm cảm hứng từ cảnh thiên nhiên siêu thực ông đã viết lên những áng thơ bất hủ để lại cho đời. Hàn Mạc Tử qua đời khi còn quá trẻ, lúc nhà thơ mới vừa 28 tuổi. Để thỏa nguyện mong ước của thi sỹ lúc sinh thời, năm 1969 gia đình và thân hữu đã đưa thi hài Hàn Mạc Tử về táng ở Ghềnh Ráng.
Ngôi mộ trang nhã đã xây cất trên một gò cao, lưng dựa vào núi, mặt quay ra biển là nơi mà ai ai dù chỉ một lần đặt chân đến Ghềnh Ráng cũng đều ghé thăm. Đó không chỉ đơn thuần là một kiến trúc xinh đẹp ở vào vị trí đắc địa của một danh thắng mà hơn thế là nơi tưởng niệm một thi nhân.
Đầm Thị Nại, Bán đảo Phương Mai
Phía Đông Bắc Quy Nhơn là đầm lớn chạy dài hơn 10 cây số, bề rộng tới gần 4 cây số. Đầm này đã có thời gian mang tên chữ là Hải Hạc Đàm, nhưng trong dân gian thì từ lâu vẫn gọi là đầm Thị Nại. Đó là cách gọi tắc của một địa danh Chàm, nguyên gốc tiếng Phạn là Cri Vinaya đã được phiên âm qua tiếng hán thành Thị-lị-bì-nại. Thị Nại là đầm lớn nhất của Bình Định. Các nhánh của sông Kôn, sông Hà Thanh đều chảy về đây. Sa bồi tụ dần theo năm tháng khiến cho đầm mỗi ngày một đầy thêm. Khi nước triều lên thì mặt đầm nước mênh mông, vào những hôm trời gió, sóng dập dờn như mặt biển. Những lúc triều xuống, nước rút cạn để trơ lòng đầm, sình lầy lai láng. Cảnh quan như vậy nên trong các sách cổ nơi đây có tên đầm Biển Cạn. Trong đầm ở gần bờ phía Tây có một núi nhỏ nổi lên hình dáng trông xa tựa như một ngôi tháp cổ, tục danh gọi là tháp Thầy Bói. Có người giải thích sở dĩ có tên như vậy vì xưa kia có một ông thầy xem bói rất giỏi đến đây xây tháp, hành nghề. Những người sùng mộ phải đi thuyền ra để được xem bói. Sau khi ông thầy qua đời, không ai coi sóc, lâu ngày tháp bị gió bão phá sập. Hiện nay trên miếu này vẫn còn một ngôi miếu nhỏ, nhưng không phải ngọn tháp kia mà do dân chài lập ra để thờ thủy thần.
Mưu sinh trên đầm Thị Nại.
Lại có thuyết cho rằng từ xưa đến nay ở đây chẳng có tháp nào cả. Gọi là tháp chẳng qua vì khóm đá trông xa hình thuông như cái tháp mà thôi. Còn Thầy Bói ở đây là tên một giống chim ăn cá, ngoài Bắc gọi là chim Bói Cá, có người Bình Định gọi là chim Thầy Bói. Đầm nước cạn, dễ bắt cá nên loài chim này kéo về đây kiếm ăn rất nhiều. Lúc mỏi cách chim thường tụ tập trên các khối đá nên có tên như vậy. Không rõ thực hư ra sao, cách giải thích nào là đúng, nhưng tháp Thầy Bói nhô lên trên đầm đã làm cho cảnh quan thêm sinh động, duyên dáng. Mỗi buổi ban mai, trước khi mặt trời nhô lên khỏi dãy Triều Châu, mặt đầm mờ mờ, huyền ảo như chốn thần tiên. Đầm Thị Nại nổi tiếng là nhiều cá và cá ngon, nhất là cá Nục. Có hai loại cá Nục: Nục Vọng và Nục Gai. Cá nhiều ăn không hết, người ta phơi khô, làm mắm. làm muối, nấu mắm là những nghề truyền thống có từ lâu đời của cư dân sống quanh đầm. Ai đã vào Bình Định hẳn không quên hương vị nước mắm Gò Bồi, thứ mắm làm từ cá Nục Thị Nại.
Mũi Yến trên bán đảo Phương Mai (Quy Nhơn).
Nước đầm thông với biển bằng một cửa hẹp có tên cửa Giã. Trong tiếng Việt cổ, giã là Biển. Sau này ở một số vùng giã trở thành từ chỉ nghề đánh cá biển. Có lẽ trước đây cửa biển này là nơi thường xuyên ra vào của thuyền bè đánh cá nên mới có tên như vậy và từ lâu những sản phẩm của biển cả đã ngược theo sông Côn lên đến tận miền thượng để đổi lấy sản phẩm.
Ai về cửa Giã chiều hôm,
Măng le gửi xuống, cá chuồn gửi lên
Thông thường cửa này vẫn thường được gọi là cửa Thị Nại. Cửa được tạo bởi Mũi Rùa bên bờ phía Tây và Gành Hổ thuộc dãy núi Phương Mai bên bờ Đông, trong thế “ô thủy khẩu giao nha”. Theo quan niệm phong thủy, đó là một hình thể đẹp. Nằm về phía Đông đầm Thị Nại, như một tấm bình phong khổng lồ án ngữ phía biển cho thành phố Quy Nhơn, bán đảo Phương Mai là đoạn cuối cùng của dải núi Triều Châu. Đây là một vùng núi thấp có nhiều đoạn nhấp nhô. Cao hơn cả là hòn Chớp Vung, hòn Mai, hòn Diệp Chử…Nhìn từ xa, Phương Mai như đầu một con Rồng thân nằm dài về phía Bắc, đến tận cửa Đề Gi. Tận cùng phía Nam của bán đảo là một lưỡi nhọn hình mũi mác với nhiều hốc đá hiểm trở, chim yến thường kéo về làm tổ. Dân trong vùng thường gọi nơi đây bằng hai cái tên Mũi Mác và Mũi Yến. Dãy núi phía Tây Bắc Mũi Mác có một nhánh nhỏ, nhọn sắc như nanh cọp, chĩa về phía Tây, tục gọi Gành Hổ, trong các sách cổ gọi là Hổ Ki. Nằm kẹp giữa hai dải núi này là một động cát, trên có bàu nước ngọt khá lớn. Bán đảo Phương Mai được nối với dãy Triều Châu bằng một dải núi dài chừng hai cây số, bề ngang chỉ hẹp độ nửa cây có tên Eo Vượt. Giải thích tên gọi và hình dạng của eo núi, truyền thuyết dân gian kể rằng, ngày xưa nước đầm Thị Nại không ăn sâu vào bán đảo như hiện nay. Một hôm có ông khổng lồ đến đây be bờ tát cá trong đầm. Thình lình có một con cá Vượt rất lớn tung mình qua núi nhảy vọt qua biển. Ông khổng lồ chạy theo nhưng chụp không được. Tức quá ông mới dậm chân, khiến đất núi sụp xuống. Vết chân giận dữ của ông chính là vùng biển ăn sát phía Tây dải núi. Không hiểu vì truyền thuyết khổng lồ tát cá hay vì hình dáng giống cái gầu mà vũng nước có tên gọi Sòng Tát Khổng lồ, còn dải núi sau đó có tên là Eo Vượt. Bán đảo Phương Mai núi dăng hiểm trở, nhưng xen vào các vách đá ở dựa chân núi có những thung lũng và khoảng trống để hình thành nên các điểm dân cư, tụ tập chủ yếu thành 3 xã Nhơn Lý, Nhơn Hội, Nhơn Hải và một phần phường Hải Cảng. Dân ở đây sống bằng nghề biển và nghề nông, quanh năm chài lưới và làm ruộng.
Do địa thế hùng hiểm, bán đảo Phương Mai còn dấu trong mình những di tích kì bí. Hiện còn những ngôi chùa, tên dân gian gọi là chùa Phật Lồi. Chùa ở Hải Giang, xã Nhơn Hải. Trong chùa hiện có thờ một pho tượng bằng đá sa thạch, cao bằng hình người, sau lưng có bốn hàng chữ Phạn, dân quen gọi là chữ bùa. Theo lời kể của dân địa phương thì người ta đã tìm thấy pho tượng này ở mé bàu nước ngọt, dưới chân núi Phương Mai, rồi đem về thờ ở đây. Có không ít những giai thoại huyền bí xung quanh pho tượng này. Người ta truyền lại rằng xưa kia pho tượng này vốn ở tận Cù Lao Xanh. Bỗng một hôm tượng biến mất. Dân đảo đi tìm khắp nới mà không thấy. Mãi về sau, nghe tin dân ở Phương Mai tìm được tượng , dân cù lao mới xem thì thấy đúng là pho tượng họ đã mất, mới xin được rước về. Hàng trăm trai tráng khỏe mạnh xúm vào mà không làm sao khiêng nổi. Họ cho là pho tượng muốn ở lại nơi đây nên đành cúng cho chùa Phật Lồi ở Hải Giang. Lại có chuyện kể rằng, vào những năm dịch bệnh hoành hành, tượng thường đổ mồ hôi. Dân địa phương bôi son vào lưng tượng, lấy giấy màu vàng in hàng chữ bùa rồi đem về dán ở cửa nhà, sau đó đốt đi thành tro, hòa vào nước lã uống thì khỏi bệnh. Người khỏe mạnh uống thứ nước đó cũng tránh được bệnh dịch. Những câu chuyện mang màu sắc mê tín như vậy đã làm tôn thêm vẻ kì bí của ngôi chùa cùng pho tượng. Ngày nay chẳng còn mấy ai tin vào những câu chuyện ấy, nhưng đến Phương Mai, chẳng ai lại không muốn đến thăm quan ngôi chùa và chiêm ngưỡng pho tượng đá , một tác phẩm nghệ thuật đã sống cùng thời gian nhiều thế kỷ.
Thắng cảnh Hầm Hô
Danh thắng Hầm Hô cách thành phố Qui Nhơn hơn 55 km về hướng Bắc, thuộc địa phận thôn Phú Mỹ, xã Tây Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Không rõ cái tên dân dã và lạ tai này có tự bao giờ mà ý nghĩa của nó mỗi người giải thích một khác. Có người cho rằng do ở đây có một thác nước cao chừng sáu, bảy mét, đổ vào một hầm đá rộng, phát ra tiếng kêu ầm ồ như tiếng hô báo cho người chèo bè mảng trên dòng biết sắp tới chỗ nguy hiểm mà lo phòng bị nên gọi là Hầm Hô. Lại có người giải thích rằng ở miệng Hầm Hô đá mọc lởm chởm, chìa ra giống như hàm răng hô nên có tên ấy (!)
Thắng cảnh Hầm hô.
Hầm Hô là nơi gặp gỡ của hai nhánh sông Đồng Hưu và sông Cát đổ vào sông Phú Phong. Thắng cảnh là cả một khúc sông dài tới gần ba kilômét, hai bên bờ là những khối đá trập trùng, chỗ thì dựng đứng như thành vách, nới thì chồng chất lên nhau thành đống, lại có đoạn đá nhọn lởm chởm như những thanh gươm dựng đứng.. Làm dịu đi vẻ hiểm trở của những vách đa nhấp nhô là những lùm cây xanh mướt. Nhưng bụi sim, mua lá xanh, hoa tím xen lẫn những khóm phong lan cheo leo trên đá, lửng lơ trên những cành cây. Điểm xuyết vào đó là những cây cổ thụ im lìm như đang trầm mặc suy tư. Xa xa là những rừng hoa ngâu đốm vàng với lác đác những khóm Mai trắng ẩn hiện. Cây cối mọc lâu ngày, rễ rủ như tóc xõa, soi bóng xuống mặt nước lung linh, với từng đàn cá đang tung tăng bơi lội. Sông Hầm Hô có tiếng là nhiều cá, nhất là về mùa lũ. Cá từ khắp nơi kéo về từng bầy trông đặc cả nước. Các lội ngược dòng bị thác nước hất tung trở lại trông như thể cá bay. Dân gian truyền rằng, hàng năm Long vương tổ chức kì thi cho cá tại thác Hầm Hô. Con nào vượt qua được sẽ hóa thành rồng, nên cá từ sông Côn dồn cả về đây để thử vận may. Có lẽ do điển tích này mà thác Hầm Hô còn có tên chữ là Vũ Môn, còn dân gian gọi là thác Cá Bay. Vậy mới có thơ rằng:
Hầm Hô nước chảy trong xanh
Dưới sông cá lội, trên cành chim reo.
Thế nhưng, cảnh đẹp đích thực của Hầm Hô khiến du khách viếng thăm phải sửng sốt về sự tạo hóa của thiên nhiên ngay dưới lòng sông. Với chiều rộng trên dưới ba mươi mét, lòng sông chi chít những trụ đá hoa cương thiên hình vạn trạng. Vào mùa nước cạn, những ngày trời trong xanh, khi những tia nắng ban mai rọi xuống, những khối đá hoa cương ánh lên muôn màu lóng lánh, rực rỡ như ngàn vạn viên kim cương khoe mình trên làn nước trong xanh. Hình dáng thật kì dị của những trụ đá đã chấp cánh cho trí tưởng tượng của bao thế hệ của cư dân nơi đây. Hòn lớn, hòn nhỏ, khối vuông, khối tròn, có những cụm nhìn tựa đàn voi đang tắm, có những dãy trông như thể bầy ngựa đang phi. Lại có tảng chẳng khác gì một con cá sấu khổng lồ đang há miệng săn người và rồi biết bao hình dạng giống như người, như thú, như vật dụng thường ngày…Tất cả bày la liệt, ngổn ngang mà hài hòa, mà ngoạn mục đến mức không một họa sĩ, một nhà điêu khắc tài danh nào có thể tạo dựng nổi.
Nếu có dịp du ngoạn bằng thuyền đi dọc sông, đắm mình vào thế giới huyền ảo của thiên nhiên, du khách sẽ có được cảm giác như đi vào thế giới thần thoại. Vượt qua bờ đập, đi ngược dòng sông một đoạn sẽ gặp một vách đá dựng đứng như tường thành với cái tên dân gian Hòn Đá Thành. Trên vách đá rêu phủ xanh rì, từng chùm rễ cây leo lòng thòng rủ xuống trong hệt như một bức tường thành cổ kính. Bên trái thành có một bãi đá chồng chất lên nhau. Liên tưởng như có một người khổng lồ đổ cả một thúng đá xuống lòng sông, dân trong vùng gọi đây là khúc sông Trời Lấp. Qua khúc sông nay, ngược tiếp dòng sông sẽ trông thấy hai bên nhiều khối đá lô nhô, hòn cao, hòa thấp với muôn vàn hình dáng khác nhau. Bên những hòn đá vây tụ vào nhau là một vũng nước sâu có tê vũng cá Rói. Vào mùa cạn nước, trong vũng vẫn đầy, từng đàn cá Rói từ khắp nơi đổ dồn về đây. Khi có mồi ăn, chúng xông vào tranh giành xâu xé, ngồi trên bờ xem không chán mắt. Tiếp một đoạn nữa, có một khối đá giống như một cá Sấu lớn nằm ngang giữa lòng sông, chắn dòng nước chảy xiết làm bọt bắn tung trắng xóa, nên có tục danh là hòn Trào. từ đây không thể đi thuyền được nữa. Muốn đi tiếp vào trong, phải lên bộ đi men theo bờ. Càng đi lại càng thấy lòng sông hẹp lại nhưng cảnh vật lại càng kì thú. Bất chợt từ trên bờ nhìn xuống, ta có cảm giác như không phải dòng sông mà trước mắt có cả một đàn cừu trắng đang nô giỡn trên thảo nguyên. Ngược về phía thượng nguồn, độ dốc càng lớn, nước chảy càng mạnh. Từng đoạn, từng đoạn chia khúc thành những thác nhỏ, nước chảy ầm ầm dội vào vách núi, cảnh vật càng thêm huyền ảo. Đây đó vang lên tiếng gù của chim Cu Gáy, tiếng hót véo von của chim Khướu, chim Vành Khuyên, tiếng kêu tích tích của những chú chim Sâu đang nhảy nhót trên cành. Thỉnh thoảng lại vang lên tiếng Tắc Kè vọng lại từ những hốc đá, lùm cây. Hương rừng ngào ngạt, diệu thơm hòa lẫn tiếng chim kêu ríu rít khiến cho du khách có cảm giác như lạc vào cõi thần tiên.
Năm tháng qua đi, nước chảy mài mòn những tản đá tạo thành vô số những khối hình lô nhô trông xa hệt như một cành san hô khổng lồ mà mỗi nhánh lại có một hình dáng riêng. Ba khối đá nhẵn thín chụm đầu vào nhau như cỗ đầu rau được đặt tên là Hòn Ông Táo. Xa xa nhìn những khối đá lúp xúp khiến ta liên tưởng đến cái nồi nấu cơm, bát, chén, một cái ấm pha trà…Truyền khẩu dân gian kể lại rằng đây là nới mà thần tiên trên trời thường xuống du ngoạn, vui chơi vào những lúc đêm khuya tĩnh mịch. Còn đó dấu chân trên đá của một ông khổng lồ ngồi câu cá. Nằm giữa lòng sông có một phiến đá với những nét ngang dọc, rêu phủ lờ mờ, tương truyền là nơi các vị tiên chơi cờ nên gọi là Bàn Cờ Tiên. Cạnh bàn cờ có hòn đá nước chảy xuyên qua, rồi ùn lên trông như sôi ùng ục. Người đời gọi đó là Hòn Vò Rượu.
Hầm Hô có đá khổng lồ,
Có hang Bảy Cử, có vò rượu sôi
Đúng vào nơi kì thú nhất thiên nhiên lại trải rộng cho du khách một khoảng trống đến hàng nghìn mét vuông có thể dừng chân hạ trại. Nước dưới suối nơi này cũng như hiền dịu hơn tạo thành một nơi tắm lí tưởng. từ đây có thể nhìn bao quát cả một vùng rộng về cả hai phía Đông, Tây. Con người dường như nhỏ bé lại trước một không gian mênh mông. Thắng cảnh Hầm Hô thật đồ sộ. Đá chất chồng, xếp thành nhiều tầng, nhiều lớp mà ngắm nhìn thì như đứng trước một tác phẩm điêu khắc hoành tráng và hoàn mĩ đến độ cho người xem một cảm giác choáng ngợp và trong lòng trào dâng những cảm xúc nghệ thuật. Những khối đá vô tri như sống động, như có hồn được bao phủ bởi rêu phong của thời gian, bởi huyền tích do con người thêu dệt. Những dáng vẻ vừa như tả thực, vừa như cách điệu siêu thoát đưa ta đi hết sự ngạc nhiên này đến sự ngạc nhiên khác mà sự linh diệu của thắng cảnh chỉ có thể cảm nhận phần nào khi được tận mắt nhìn thấy, được đắm mình trong đó.
Dường như mọi sự miêu tả bằng giấy mực đều không thể lột tả hết được vẻ đẹp của Hầm Hô. Hơn thế, đến đây du khách không chỉ được thưởng ngoạn cảnh đẹp kì ảo của thiên nhiên mà còn có dịp sống lại những ngày tháng hào hùng của lịch sử. Chính tại nơi đây, hơn hai trăm năm về trước vị danh tướng Võ Văn Dũng đã rèn quân luyện võ để rồi sau đó hợp lực với các thủ lĩnh Tây Sơn phất cờ khởi nghĩa. Cũng tại nơi đây, anh hùng Mai Xuân Thưởng đã xây dựng căn cứ kháng Pháp. Danh tháng này vì thế, còn có ý nghĩ thiêng liêng của một chứng tích lịch sử.
Suối khoáng Hội Vân
Đi về phía nam, đến địa phận thôn Hội Vân, xã Cát Hiệp, huyện Phù Cát có một suối nước nóng đã nổi tiếng từ lâu. Vào nửa sau thế kỷ 18, khi ghi chép về xứ sở Đàng Trong, nhà bác học Lê Quý Đôn đã từng viết: “Phường Đống Đa, huyện Phù Ly, phủ Quy Nhơn (vào năm Minh Mệnh 13 tức năm 1832, huyện Phù Ly chia thành hai huyện Phù Mỹ và Phù Cát – TG) có một cái đầm tròn. đầm ngày ngày thường sôi, nước trong suốt tới đáy, nóng không thể gần được. Lúc tạnh thì bốc khói, lúc mưa khói càng bốc lên nghi ngút. Trâu, dê ngã xuống cũng như bị luộc. Trong đầm cũng có cá sống được. Tôm, cua đều có sắc đỏ”. Là hiện tượng thiên nhiên đặc biệt nên các sách địa lí chí đều nhắc đến suối nước nóng này. Sách Đại nam nhất thống chí, 9 quyển nói về Bình Định, ở mục khe nước nóng, chép rằng: “Khe nước nóng ở trong rừng về phía nam huyện Phù Cát, bề dọc 2 trượng (khoảng 8m-TG), bề ngang chừng một trượng, lởm chởm nhiều đá, nước thường bốc hơi như nước sôi, chảy ra hơn 10 trượng khí nóng mới bớt dần. Đến thôn Tân Hòa thì hợp với chằm nước đục mà cùng chảy vào sông Nha Đoài”. Đấy là mô tả của sử cũ. Hiện trạng có thể thấy suối phát nguyên từ vùng núi thấp phía bắc, đến thôn Hội Vân nước chảy vào một hồ nhỏ rộng chừng 400m2, sâu hơn 1m. Đáy hồ là những tảng đá lởm chởm chen kẽ nhau. Từ đó mạch nước nóng phun lên ùng ục, khói tỏa nghi ngút giống như một chảo nước nóng đang sôi. Hồ nằm lọt giữa một thung lũng cát mênh mông, xung quanh có núi non vây bọc. Chếch xa xa về phái Đông -Bắc là dãy núi Bà hùng vĩ, vào những ngày lạnh trời, nhất là vào những lúc sớm mai, hơi nước bốc lên tụ lại thành những làn khói mây mờ mờ làm cho cảnh vật trở nên huyền ảo. Khi trời nắng nóng, sương mù tan biến trả lại cho mặt nước một khoản không trong vắt, có thể nhìn thấu những vòi nước phun lên từ đáy, giống như những con rồng đang giỡn đùa giữa dòng nước. Quanh miệng hồ là những dải cát dài trắng mịn làm thành một bãi phơi nắng lí tưởng.
Suối nước nóng.
Là một danh thắng du khách có thể đến chiêm ngưỡng, thưởng ngoạn cảnh đẹp, nghỉ ngơi giải trí, Hội Vân còn nổi tiếng và hấp dẫn khách đến từ mọi miền nhờ nguồn nước khoáng thiên nhiên giàu khả năng trị liệu đối với nhiều loại bệnh khác nhau. Linh thiêng hóa khả năng chữa bệnh của nước suối, dân địa phương đã lưu truyền một sự tích kể rằng, xưa kia, khi Bình Định còn là quốc đô của Champa, trong hoàng tộc có một công nương sắc đẹp mê hồn nhưng bỗng mắc một chứng bệnh kì quái, không một danh y nào có thể chữa nổi. Da dẻ nàng tự dưng nổi mụn xù xì, khiến nàng trở nên xấu xí và vô cùng khổ sở vì ngứa ngáy. Nàng xấu hổ phải suốt ngày dấu mình trong cung cấm, suốt ngày rầu rĩ. Buồn chán vì bệnh tình, công nương héo hon gầy mòn. Phụ hoàng dẫu đầy kho vàng bạc châu báu mà vẫn vô phương cứu giúp.
Rồi đến một ngày, nhân tổ chức một cuộc đi săn trong rừng, vị Quốc vương nọ đã cho con gái đi cùng những mong giúp nàng khuây khỏa. Khi đến vùng này thấy trước mặt có một áng mây trắng tụ lại khác thường, quốc vương cho quân lính đi trước dò đường thì thấy một suối nước nóng. Công nương đã xuống tắm ở đây. Và kì lạ thay nàng tự nhiên thấy hết ngứa ngáy, trong người cảm thấy khoan khoái dễ chịu. Nàng xin với vua cha cho hạ trại, nán lại bên suối một thời gian để được ngày ngày ngâm mình trong dòng nước nóng. Thế rồi, ngày qua ngày bệnh tình của công nương qua khỏi lúc nào không biết. Mọi người cho rằng đó là suối nước mà thần tiên đã ban cho. Chính vì vậy con suối này có tên gọi là suối Tiên.
Đó là truyền thuyết. Còn trên thực tế, chẳng biết tự bao giờ, tiếng đồn về sự linh nghiệm trong chữa trị bệnh tại của suối nước Hội Vân đã lan truyền đi khắp cả nước. Người ta kéo nhau đến Hội Vân như đi trẩy hội, không chỉ những người có bệnh mà ngay cả những người khỏe mạnh cũng muốn đến tận nới để mục kích cảnh thần tiên và tắm thử nước suối Tiên. Họ còn múc nước đem về làm quà cho bà con, thân hữu.
Khả năng chữa trị một số bệnh của suối khoáng Hội Vân, thực ra cũng không phải là điều gì huyền bí. Từ thời Pháp thuộc, các nhà chuyên môn đã tới đây nghiên cứu, khảo sát. Trong vòng mấy chục năm qua, các nhà khoa học Việt Nam cũng đã tiến hành nhiều cuộc khảo nghiệm và đi tới những kết luận khoa học về khả năng trị liệu của nước suối Hội Vận.
Trong khoảng thời gian từ năm 1920 đến 1957 đã xuất hiện nhiều bài báo của các tác giả Madrole, D.Sallet, Flendel và H. Fontaine công bố các kết quả nghiên cứu về thành phần của nước khoáng. Năm 1965 công việc này lại được tiếp tục bởi một nhóm các nhà khoa học Mỹ. Từ sau năm 1975 các chuyên gia Bộ y tế cùng với chuyên gia quốc tế đã tiến hành nghiên cứu một cách hệ thống và đưa ra những đánh giá khoa học về nguồn nước tự nhiên này. Đó là loại nước khoáng có nhiệt độ dao động từ 70-800C, vô trùng, chứa khoảng 20 chất khoáng có ích với những nồng độ thích hợp có tác dụng tốt cho việc chữa bệnh. Từ năm 1978 một nhà điều dưỡng đã được xây dựng và trong tương lai không xa tỉnh Bình Định sẽ nâng cấp nhà điều dưỡng này thành một trung tâm điều dưỡng có tầm cỡ quốc gia với quy mô 300 giường bệnh nội trú. Chắc chắn với cảnh trí thiên nhiên kì thú và nguồn “thuốc tiên” thiên nhiên vô tận này, thắng cảnh Hội Vân sẽ hấp dẫn thêm vô vàn du khách tới thăm.
Đảo yến Quy Nhơn
Gọi là “đảo” nhưng thực ra xứ sở của loài chim yếu nằm trên bán đảo Phương Mai. Dãy Triều Châu ăn ra biển, trải dài chừng 15km, tạo thành những ngọn núi nhấp nhô, trùng điệp với tên gọi thật ngộ nghĩnh: Hòn Mai, hòn Chóp Vung, núi Cột Cờ, Núi Đen…và trong số đó, ngọn núi án ngữ phía Nam mang tên Hòn Yến. Cứ mối mùa xuân đến tiết trời ấm áp, chim yến rủ nhau từng đàn đông nghịt đến đây làm tổ. Chính vì vậy mà mũi đất tận cùng của bán đảo cũng được gọi là Mũi Yến. Bán đảo Phương Mai như một con khủng long khổng lồ nằm che chắn sóng to gió lớn cho thành phố Quy Nhơn. Thiên nhiên nơi đây vừa tạo nên một bức tranh thủy mặc tuyệt đẹp, vừa ban tặng cho con người một kho báu mà không phải nơi nào cũng có. Đó là yến sào (tổ chim yến)-một đặc sản cao cấp được cả thế giới ưa chuộng.
Hang Cả hiện có số lượng tổ yến lớn nhất ở Bình Định.
Đảo yến trước đây thuộc địa phận hai thôn Xương Lý và Hương Mai. Phía Nam thôn Xương Lý là đầm Nha Phiên, phía Bắc là thôn Hưng Lương (cả hai thôn này đều nằm trong xã Nhơn Lý). Những người sinh cơ lập nghiệp đầu tiên tại Xương Lý thuộc dòng họ Nguyễn quê gốc ở Nghệ An, cho đến nay đã được 10 đời. Thôn Hương Mai chính là 4 thôn Hải Giang, Hải Đông, Hải Nam và Hải Minh, nay thuộc xã Nhơn Hải. Trước năm 1955, Nhơn Lý và Nhơn Hải thuộc tổng Trung An, huyện Phù Cát, sau năm 1955 cắt về huyện Tuy Phước, hiện nay thuộc thành phố Quy Nhơn.
Đảo yến là một cảnh quan thiên nhiên kì thú, hấp dẫn bởi những hang động thiên tạo có tuổi hàng vạn năm với những hòn đá có nơi cao tới cả trăm mét. Lòng hang động hiểm trở, cheo leo là nơi thích hợp cho loài chim yến đến làm tổ. Trên đảo yến có tất cả 30 hang lớn nhỏ, tập trung chủ yếu ở hai xã Nhơn Hải và Nhơn Lý. Trong mỗi hang nhỏ như hang Rừng Cao, hang Dơi, hang Ba Nghé, hang Cạn, hang Hẹp, hang Hầm Xe, hang Phanh…hàng năm cũng có thể thu được từ 100 đến 300 tổ yến. Còn những hang lớn như hang Cả, hang Đôi Trong, hang Đôi Ngoài, hang Hích, hang Sức Khỏe, hang Nghìm, hang Luông, hang Khô, hang Cân, hang Cỏ…, đặc biệt là những hang có cửa quay về hướng đông hoặc Đông- Nam, thoáng mát, trần hang có nguồn nước ngọt rịn nhỏ qua khe đá, bên dưới là sóng biển dập duềnh, hàng năm có thể thu được 14 đến 15 ngàn tổ.
Nếu có dịp đến đảo yến vào mùa Xuân, ta sẽ thấy từng đàn chim yến bay rợp trời, gọi nhau ríu rít. Mặc dù sống theo bầy đàn như vậy nhưng chim yến lại là loài sống thành từng đôi với nhau không hề nhầm lẫn. Các tài liệu của các nhà nghiên cứu, trên đảo yến Quy Nhơn chủ yếu có hai loài: Yến cỏ và Yến sào. Yến cỏ thân hình lớn hơn yến sào, làm tổ bằng cỏ, rác lấy từ các mỏm núi. Yến sào mới là loài chim quý. Loài yến này có thân hình nhỏ như chim sẻ nhưng bay rất khỏe. Chúng kiếm ăn bằng cách vừa bay vừa đớp mồi trên biển. Người ta nói loài yến sào có thể bay 10 giờ liên tục không nghỉ. Chúng làm tổ không phải bằng cây cỏ mà bằng chính nước dãi của mình. Mỗi ngày một ít, chim yến tự tiết ra nước dải, kéo thành sợi, quây lại làm tổ. Sau một thời gian, tổ yến khô đi trông giống như những chiếc vành tai gắn chặt vào trần hang vách đá. Khi hoàn thành tổ vừa đủ để nằm lọt thân mình, yến bắt đầu sinh sản.
Tổ yến là một nguồn lợi từ xưa đã được nhân dân địa phương biết đến. Theo các tài liệu lịch sử, nghề khai thác yến sào ở Bình Định có từ lâu đời. Đến thế kỷ 19, trong mục nói về sản vật Bình Định, sách Đại Nam nhất thống chí chép rằng: “Yến sào sản ở các đảo ngoài biển, có thuế, hàng năm mỗi người phải nộp 10 cân”. Tổ yến cũng có nhiều loại. Yến sào màu đỏ hoặc hồng rất quý và đắt giá nhất, yến quan tai
to có màu trắng ngà, yến thiên tai mỏng và nhỏ và yến bãi là loại chất lượng kém nhất.
Lấy tổ yến là một nghề nguy hiểm. Trước đây, ngoài lòng dũng cảm, nghề này còn có những bí quyết mang tính cha truyền con nối. Ngày nay nghề này đã được quản lí và để hạn chế tai nạn trong quá trình khai thác, người làm nghề được huấn luyện kỹ thuật cẩn thận. Tuy nhiên, muốn trở thành người khai thác giỏi, ngoài kiến thức và kinh nghiệm còn phải có tinh thần vững vàng, sự bình tĩnh gan dạ và động tác khéo léo. Để có thể lấy tổ yến trên vách và trần hang, người ta bắt các giàn giáo bằng tre liên kết lại với nhau. Người khai thác có thể đi lại trên giàn giáo như những chiếc cầu bắt vắt vẻo dọc ngang. Có những hang cao, giàn giáo phải dùng đến 300 cây tre. Những cột dọc phải nối từ 4 đến 5 cây tre mới lên tới đỉnh. Cách lấy tổ yến cũng hết sức công phu. Tai nào xa không với tay được, người ta dùng gậy đầu đóng đinh ghim vào tổ để lấy ra. Vào những khi khí hậu khô hanh, trước khi lấy còn phải dùng nước phun vào tổ yến cho mềm để tránh bị vụn nát.
Trước kia, nghề khai thác yến hoàn toàn tự phát và người làm nghề phải đóng thuế cao nên khi vào vụ, người ta ra sức tận thu, nguồn lợi thiên nhiên này đứng trước nguy cơ bị cạn kiệt. Ngày nay, do ý thức được tầm quan trọng của việc duy trì và phát triển nguồn lợi, công việc khai thác phải tuân thủ theo một lịch trình nghiêm ngặt. Tháng Giêng, tháng Hai là mùa yến làm tổ sinh sản, sau đó một tháng mới được thu hoạch vụ đầu. Vụ thứ hai phải chờ đến khi chim con cứng cáp biết bay đi kiếm mồi mới thu hoạch. Vụ thứ ba khai thác ít, chủ yếu chỉ dưỡng cho đàn yến có điều kiện tăng trưởng bầy, đàn. Đến nay sản lượng yến thu hoạch hàng năm của Bình Định ước khoảng hơn 700kg. Đây là một mặt hàng xuất khẩu đem lại nguồn lợi kinh tế cao cho tỉnh.
Đến với đảo yến, du khách không những được chiêm ngưỡng cảnh quan ngoạn mục bên ngoài, nếu có dịp vào sâu trong hang, khách còn có dịp đắm mình trong khung cảnh hoành tráng, kì vĩ do thiên nhiên tạo nên. Trên các vách đá, xen lẫn những giọt nước tí tách rơi là những chấm trắng li ti tựa như một bầu trời đầy sao của những đêm hè, các tổ yến đan khít vào nhau thành một chuỗi dài, đâu đó các chú yến đang xòe cách hà hơi ấm cho con, thỉnh thoảng lại nghe tiếng chim con chíp chíp đòi mẹ mớm mồi. Tiếng sóng, tiếng nước rơi, tiếng vỗ cách, tiếng chim yến kêu…tất cả hòa quyện vào nhau tạo nên một âm hưởng kì lạ khiến cho ta cảm giác như đang lạc bước vào chốn thiên cung.
Đảo yến không chỉ có yến và phong cảnh đẹp mà nơi đây còn có những di tích lịch sử văn hóa từ thời vương quốc Chăm Pa qua triều Tây Sơn đến nhà Nguyễn sau này. Đến đảo yến du khách sẽ có dịp được ghé thăm Chùa Phật Lồi, nơi có pho tượng Chàm huyền bí, được chiêm ngưỡng núi Tam Tòa với những di tích liên quan đến Uy Minh vương Lý Nhật Quang thời Lý và các chiến binh Tây Sơn thế kỷ XVIII, thấy tận mắt pháo đài Hổ Ky với những lỗ đặt súng thần công, dấu tích còn sót lại của những công trình phòng thủ bờ biển được các bậc tiền nhân dựng lên.
Như một bức tranh nghệ thuật hoàn mỹ với những dáng vẻ thiên nhiên vừa hư vừa thực, đảo yến là nơi du khách không thể bỏ qua nếu có dịp đến thăm thành phố Quy Nhơn.
Hải đăng ở Nhơn Châu
Đến đảo Nhơn Châu (Cù Lao Xanh), thuộc thành phố Quy Nhơn, bạn đừng bỏ qua cơ hội lên thăm hải đăng Nhơn Châu, ngọn đèn biển cao và hiện đại nhất Việt Nam.
Trạm Hải đăng Nhơn Châu được xây dựng năm 1899 với mục đích bảo đảm tàu thuyền an toàn khi đi qua nơi có đảo, đá ngầm, báo hiệu cho các lái tàu nhận biết địa danh để cập cảng, ngư dân trên biển biết phương hướng về bến và mục đích quan trọng nhất là xác định chủ quyền đất nước. Được biết, để xây dựng ngọn hải đăng này, người Pháp đã huy động lượng phu dịch lớn làm ròng rã trong 3 năm mới hoàn thành.
Hải đăng Nhơn Châu.
Hải đăng cao 118 mét so với mực nước biển, trong đó tháp đèn cao 16m, đường kính rộng 3m. Bóng đèn 12V, công suất 100W, được khuếch đại qua thấu kính đặc biệt có thể chiếu xa 25 hải lý. Loại bóng đèn halogien này cực đắt, phải nhập từ nước ngoài, giá mỗi chiếc đến 500 triệu đồng. Đèn hoạt động từ 6 giờ chiều đến 6 giờ sáng mỗi ngày bằng hệ thống điện lấy từ năng lượng mặt trời. Tuy nhiên, pin chỉ hoạt động vào mùa nắng, mùa mưa vẫn phải dùng máy nổ với hàng chục chiếc “xơ cua”, bảo đảm không để hải đăng ngưng phát sáng.
Cùng với tháp hải đăng là khu nhà 2 tầng khá bề thế xây kiểu Pháp gồm 16 phòng, có thể chứa hơn 100 người đến tham quan, nghỉ ngơi. Gần đó là hang đá có thể chứa đến 50 người, là nơi đốt lửa trại và sinh hoạt tập thể rất lý thú. Hiện nay Trạm Hải đăng Nhơn Châu do Xí nghiệp 201 thuộc Công ty Bảo đảm an toàn hàng hải 2 quản lý, vận hành với 5 cán bộ, nhân viên được đào tạo cơ bản, có trình độ chuyên môn cao. Tuy công việc của họ tương đối đơn điệu, sống xa gia đình, lại ở trên đồi cao, cách biệt với thế giới bên ngoài, nhưng ai nấy đều xác định trách nhiệm được giao, không một chút lơ là, giữ ngọn đèn biển luôn chiếu sáng. Có người như trạm trưởng Nguyễn Ngọc Anh đã có mặt 5 năm trên đảo, người ít nhất cũng đã ăn 2 cái Tết. Tự bao giờ họ coi Trạm là nhà, đảo là quê hương, tham gia Ban an toàn thống nhất đảo, chung tay bảo vệ địa bàn bình yên. Những ngày có áp thấp nhiệt đới, biển động mạnh hoặc ngày có bão, Trạm phối hợp cùng Bộ đội Biên phòng bắn pháo hoa trên hải đăng báo hiệu cho tàu bè vào nơi trú ẩn.
Từ nhiều năm nay, hải đăng Nhơn Châu đón rất nhiều đoàn khách đến thăm, đặc biệt là thanh niên, sinh viên các trường đại học, các đoàn khách quốc tế. Đứng trên bao lơn của chóp đèn, nhìn bao quát cả biển trời, bên dưới là xã đảo Nhơn Châu xanh tươi ôm bờ cát trắng, từng đoàn thuyền đánh cá nhấp nhô giữa sóng nước và xa xa là thành phố Quy Nhơn xinh đẹp với những ngôi nhà vươn cao, ai mà chẳng thấy hạnh phúc đến trào nước mắt trước hình ảnh Tổ quốc thiêng liêng mà mình cảm nhận.
Tượng Trần Hưng Đạo trên Bán đảo phương mai
Tọa lạc bên bến cửa khẩu đồi Hải Minh (bán đảo Phương Mai, thành phố Quy Nhơn), nơi giao duyên hữu tình: đất - biển - trời, tượng đài Trần Hưng Đạo đứng sừng sững, “trơ gan cùng tuế nguyệt”. Khởi công năm 1972 và hoàn thành năm 1973, tác giả thiết lập đồ án và điêu khắc tượng đài Trần Hưng Đạo là kiến trúc sư Đàm Quang Việt.
Tượng Trần Hưng Đạo ở Quy Nhơn.
Tượng đài nằm ở địa hình lý tưởng với độ cao khoảng 40 mét so với mực nước biển. Hai bên hông tượng đài trổ hai hướng đi xuống mép dưới biển xếp bằng những bậc đá chẻ, phối hợp với vách dựng uốn cong (kè móng) bảo vệ cho mặt bằng đài tượng vững chắc, đồng thời tạo đường lượn mềm mại, duyên dáng cho công trình. Khuôn viên tượng đài xây dựng hệ thống lan can bảo vệ, điểm xuyết những bồn hoa tạo dáng thanh thoát, giúp người xem có cảm giác nhẹ nhõm và an tâm khi đứng trên cao nhìn xuống phía dưới là mặt nước biển quanh năm sóng vỗ. Do địa hình đồi núi nên lối đi lên tượng đài theo hình chữ S và vào từ phía sau tượng, nhưng nhờ triền dốc thoai thoải đã được trải nhựa, khách tham quan không có cảm giác mệt mỏi mà còn được ngắm cảnh Quy Nhơn – thành phố biển và thi ca, đẹp như một bức tranh thủy mặc. Leo lên cầu thang treo cao khoảng 2,5 mét bằng thép trong lòng đài tượng (kết cấu rỗng), lên vị trí bề mặt tiếp xúc của 2 chân tượng, đến đây ta thấy một tấm bia khắc chìm toàn bộ lai lịch của tượng đài. Đặc biệt phía trong vạt áo, họ tên những người có liên quan đến công trình tượng đài được khắc chi chít, càng khó đọc vì ngược sáng. Tượng đài Trần Hưng Đạo được tạc trong tư thế đứng trên thuyền rồng chỉ huy trận Bạch Đằng giang, với trang phục áo giáp, mũ sắt. Chân trái đứng trụ, chân phải gác lên mạn thuyền, tay phải chỉ về phương bắc, tay trái nắm chuôi kiếm đeo ở thắt lưng trong tư thế chuẩn bị xung trận. Khuôn mặt toát lên thần sắc của một vị tướng dũng mãnh, đầy quyền lực và quyết đoán. Với chiều cao 16 mét (tính cả đài tượng), tượng đài Trần Hưng Đạo có thể nhìn thấy từ đường Xuân Diệu – Thành phố Quy Nhơn, như một biểu tượng của cửa khẩu.
Nhân dân Bình Định tự hào có tượng đài Trần Hưng Đạo, di tích lưu niệm một anh hùng dân tộc được các nhà khoa học về lịch sử quân sự xếp vào 1 trong 10 tướng soái lừng danh thế giới từ thời cổ đại đến nay và ghi danh trong cuốn Từ điển Bách khoa toàn thư của Anh năm 1984. Danh nhân văn hóa Phan Huy Chú thế kỷ 19 có lời bình: ''Danh tướng thời Trần như Hưng Đạo Vương không mấy đời có, kiêm cả văn võ, thừa trí dũng, dựng nên công lao sự nghiệp kỳ vĩ mà giữ vững trung nghĩa cùng một hàng với Quách Tử Nghi. Ông không những là anh hùng một thời đại mà cho đến những bậc tướng thần cổ kim cũng ít ai bì kịp”./.
Phong tục cưới hỏi của người Bình Định
Kinh nghiệm du lịch Bình Định
Món ăn ngon ở Bình Định "hớp hồn" thực khách
Kinh nghiệm du lịch bụi Quy Nhơn
Kinh nghiệm đi du lịch suối nước nóng Bình Châu 2013
(st)