Nếu như ung thư phổi được phát hiện ở giai đoạn 1 thì người ta thấy là khả năng điều trị thành công có thể tới 60, 70 thậm chí tới 80% với những can thiệp ngoại khoa và sau đó sử dụng hóa trị liệu như tôi đã nói ở trên. Thế nhưng, vấn đề ở đây là làm thế nào để có thể phát hiện được ung thư phổi ở giai đoạn đầu. Đây là một điều rất khó và là thách thức của y học bởi vì chúng ta biết là những triệu chứng ban đầu của ung thư phổi rất là mờ nhạt, không có hoặc nếu có thì không đặc hiệu làm cho người bệnh nhầm lẫn với những bệnh khác, không nghĩ đó là ung thư phổi. Chỉ có 20% những bệnh nhân ung thư phổi được phát hiện ở giai đoạn sớm có nghĩa là 80% còn lại là ở những giai đoạn cuối. Muốn đuợc phát hiện sớm thì chúng ta phải có ý thức phòng bệnh. Chúng ta phải đến với thầy thuốc sớm khi có những dấu hiệu bất thường để có thể được chẩn đoán sớm.
Ung thư phổi giai đoạn đầu có khả năng chữa khỏi
Đối với vấn đề chế độ ăn. Về mặt khoa học thì chưa có bằng chứng gì nói rằng ăn đạm hay ăn thịt thì sẽ ảnh hưởng tới việc điều trị hoặc làm ung thư phát triển nhanh hơn. Vì vậy, thiết nghĩ là không có vấn đề gì, chúng ta vẫn có thể ăn được. Tuy nhiên, nói vậy thì không phải bệnh nhân chỉ ăn thịt mà không ăn cái khác. Tất cả bệnh nhân bị ung thư nói chung và ung thư phổi nói riêng thường xuyên bị chán ăn, vì vậy, người thân trong gia đình phải động viên bệnh nhân nên ăn và ăn theo sở thích của mình. Chúng ta phải ăn theo một chế độ ăn cân đối, lành mạnh. Trong đó, có cả thịt, cá, rau, củ quả. Nhưng cũng khẳng định rằng ăn thịt không ảnh hưởng đến kết quả của việc điều trị ung thư.
Điều trị ung thư phổi.
Ung thư phổi là bệnh lý ác tính phổ biến nhất trên thế giới. Ở Hoa kỳ, ung thư phổi chỉ đứng sau ung thư tiền liệt tuyến (nam) và ung thư vú (nữ).
Ung thư phổi nguyên phát có thể được xếp thành hai nhóm chính: ung thư tế bào nhỏ và ung thư không phải tế bào nhỏ.
Ung thư tế bào nhỏ (chiếm khoảng 20%) có bản chất về sinh học cũng như lâm sàng hoàn toàn khác với ung thư không phải tế bào nhỏ. Khi được chẩn đoán, ung thư tế bào nhỏ thường đã xâm lấn và cho di căn xa. Hơn nữa, ung thư tế bào nhỏ nhạy với các loại thuốc trị ung thư. Phương pháp điều trị ung thư tế bào nhỏ, vì thế, chủ yếu là hoá trị. Chỉ một số rất ít BN bị ung thư tế bào nhỏ (5%) được điều trị bằng phẫu thuật (những BN này nhập viện trong bệnh cảnh một nốt phổi đơn độc).
Ung thư không phải tế bào nhỏ, ngược lại, có tiên lượng hoàn toàn khác hẳn ung thư tế bào nhỏ. Tiên lượng của ung thư không phải tế bào nhỏ phụ thuộc vào giai đoạn phát triển của khối u. Trong giai đoạn sớm (I,II), phẫu thuật hoàn toàn có thể là phương pháp điều trị triệt căn.
Các phương pháp điều trị
Phẫu thuật loại bỏ khối u:
Có hiệu quả nhất khi khối u còn nhỏ và chưa có di căn. Bệnh nhân có thể trạng tốt để phẫu thuật. 20% bệnh nhân được điều trị theo phương pháp này. Những bệnh nhân được phẫu thuật lấy toàn bộ khối u có thời gian sống thêm lâu dài.
Điều trị tia xạ:
Phương pháp này được áp dụng cho 35% bệnh nhân. Mục đích là phá hủy khối u khi nó còn nhỏ (thường có đường kính 6 cm) và không có di căn. Đối với những khối u lớn thì nó làm giảm sự phát triển của khối u. Phương pháp điều trị này kéo dài đời sống của bệnh nhân nhưng ít khi chữa khỏi bệnh.
Điều trị bằng hóa chất:
Có tác dụng tốt ở hầu hết bệnh nhân ung thư phổi loại tế bào nhỏ và đôi khi ở những loại ung thư phổi khác. Những tiến bộ gần đây về hóa trị liệu đã làm giảm đáng kể những tác dụng phụ so với trước đây.
Điều trị hỗ trợ:
Chỉ áp dụng cho khoảng 1/3 bệnh nhân ung thư phổi giai đoạn muộn không điều trị được bằng các phương pháp kể trên, bao gồm chăm sóc bệnh nhân, điều trị triệu chứng và làm giảm đau.
Cần có một chế độ ăn thích hợp, nghỉ ngơi, chăm sóc về mặt y tế và giải trí đôi khi giúp ích cho bệnh nhân.
Ở hầu hết các bệnh nhân ung thư, kết quả điều trị tốt nhất khi ung thư được phát hiện sớm và điều trị kịp thời.
Hiện nay có nhiều phương pháp điều trị mới bao gồm đưa chất đồng vị phóng xạ vào phế quản, điều trị bằng tia xạ, điều trị bằng laser, các thuốc hóa chất mới, những nghiên cứu sinh học phân tử đang được tiến hành và đã thu được một số kết quả.
Trong quá trình điều trị, nếu có bất cứ vấn đề gì, bạn và gia đình nên trao đổi trực tiếp với các Bác sĩ để có biện pháp điều trị hiệu quả nhất cho người bệnh.
Tầm soát bệnh ung thư phổi giai đoạn đầu.
Theo kết quả nhận được từ chương trình National Lung Cancer Screening Trial thì việc sử dụng kỹ thuật chụp CT hiệu quả trong việc tầm soát bệnh ung thư phổi ở giai đoạn đầu ở người nghiện hút thuốc lá, bởi vì kết quả sơ bộ ban đầu cho thấy bằng chứng rõ ràng về sự giảm đáng kể tỷ lệ tử vong ở các bệnh nhân ung thư phổi, khi chụp CT, màn hình cung cấp đầy đủ hình ảnh các tổn thương phổi, chụp điểm ba chiều của các mô trong cơ thể.
Chụp CT sẽ làm giảm đáng kể tỷ lệ bệnh nhân tử vong do ung thư phổi,
nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên thế giới, theo the National Cancer
Institute, Hoa Kỳ.
"Nghiên cứu này có tầm quan trọng lớn trên toàn thế giới", theo David Gandara, Giám đốc khoa ung thư ngực tại UC Davis Cancer Center, Hoa Kỳ, chủ tịch của The International Association for the Study of Lung Cancer, một tổ chức nghiên cứu ung thư phổi gồm 4.000 thành viên. Gandara cho biết các kết quả nghiên cứu đại diện cho lần đầu tiên thử nghiệm đã hạn chế được tỉ lệ bệnh nhân tử vong do ung thư phổi.
Các thử nghiệm ghi danh hơn 53.000 người nghiện thuốc lá tuổi từ 55-74, những người này được tầm soát ung thư phổi hoặc là chụp CT scan hoặc chụp X-quang ngực tiêu chuẩn, một lần ở đầu nghiên cứu và hai lần trong 2 năm tiếp theo. Bệnh nhân được theo dõi trong 5 năm.
Các nhà nghiên cứu nhận thấy các ca tử vong do ung thư phổi ít hơn 20% trong số người tham gia thử nghiệm tầm soát bệnh ung thư phổi với chụp CT.
Trong tổng số bệnh nhân ung thư phổi trong nghiên cứu, có 354 người tử vong vì ung thư phổi sau khi tham gia tầm soát ung thư phổi bằng chụp CT. Trong khi có tới 442 người tử vong, khi đang tham gia tầm soát ung thư phổi bằng kỹ thuật chụp X-quang truyền thống. Nghiên cứu cũng cho thấy bệnh nhân chụp CT có tỷ lệ tử vong thấp hơn từ các nguyên nhân khác.
Chi phí quét CT tương đối cao và người bệnh chỉ nên tiếp xúc với bức xạ liều thấp, theo Gandara, các nhà nghiên cứu đang thử nghiệm theo những cách khác để tầm soát ung thư phổi có thể có ít tác dụng phụ tiềm năng.
"Đã có dữ liệu đáng kể về việc ung thư làm biến đổi một số protein trong máu và có những dấu hiệu của khối u ADN trong máu," Gandara nói, trích dẫn gần đây UC Davis nghiên cứu tìm thấy những đột biến gen khác nhau trong một số bệnh nhân ung thư phổi.
Trong khi chụp CT thích hợp cho những người nghiện thuốc lá có nguy cơ cao tầm soát bệnh ung thư phổi, Gandara cho biết, xét nghiệm máu sẽ là một kỹ thuật kiểm tra hiệu quả hơn, đặc biệt là cho những người chưa bao giờ hút thuốc nhưng có thể có một khuynh hướng di truyền bởi bệnh ung thư phổi.
Hiện nay, tỷ lệ tăng tiến của bệnh nhân bị ung thư phổi nhưng "không bao giờ hút thuốc, và không có tiếp xúc với khói thuốc lá", ông nói. "Đây là những bệnh nhân trẻ, chủ yếu là phụ nữ trẻ, một số ở độ tuổi 20 hoặc 30, và khối ung thư phổi của họ có nguyên nhân sinh học, hoàn toàn khác với khối ung thư của người hút thuốc. Chúng tôi có thể có thể phát triển xét nghiệm máu cho tất cả những bệnh nhân này."