Bệnh thủy đậu không phải chỉ là bệnh của trẻ nhỏ. Bệnh lành tính khi trẻ mắc bệnh khoảng 2-10 tuổi, nhưng nghiêm trọng hơn với người lớn và có thể gây ra những biến chứng nặng.
Bệnh thủy đậu do vi rút gây ra (vi rút hec-pet, V.Z) có thể lây nhiễm theo đường hô hấp, do nước bọt của người bệnh hoặc do tiếp xúc trực tiếp với vết thương ngoài da. Bệnh thể hiện đầu tiên bằng triệu chứng sốt, mệt mỏi, rồi xuất hiện những vết đỏ hơn mọc ở da là đặc trưng của bệnh và kéo dài khoảng 2 tuần, thường cư trú ở da đầu, mặt, ngực và ít hơn ở các chi (cẳng chân, cẳng tay). Các mụn nước diễn biến trong khoảng 2-3 tuần, một số khỏi dần trong khi lại mọc một số khác. Vì thế trên cơ thể có những mụn nước khác nhau. Mỗi đợt sốt là mỗi đợt mọc những mụn nước mới, điều này làm cho người bệnh lo lắng, dần dần các mụn nước trở nên đục hơn và đóng vảy. Mỏi mệt thường kéo dài đến một tháng. Khoảng ngày thứ 3 của bệnh, người bệnh có thể ho khan và khó thở kèm theo sốt 400C. Một số thể nặng có thể dẫn đến suy hô hấp cấp, nhưng phần lớn trường hợp chỉ diễn biến nhẹ trong khoảng 15 ngày. Nếu người bệnh bị suy giảm miễn dịch thì các triệu chứng ngoài da nặng nề hơn với nhiều loại tổn thương lớn hơn, chảy máu, hoại tử. Các tổn thương nội tạng thường gặp như: viêm gan, viêm thần kinh, viêm phổi...
Điều trị: Dù ngứa đến mấy cũng không gãi để tránh bị thẹo. Bôi thuốc chống nhiễm khuẩn (Betadne, Flourrscine, Tale). Trong trường hợp bội nhiễm, dùng kháng sinh theo chỉ dẫn của bác sĩ. Trường hợp người bệnh bị suy giảm miễn dịch có thể dùng thêm thuốc chống vi rút Hec-pet (Acidovin), nếu ngứa nhiều có thể dùng thuốc chống histamin uống và đắp gạc ướt. Nói chung, không nên tắm trong suốt thời gian bị bệnh vì bệnh đang tiến triển, nước và xà bông có thể kích thích và gây tổn thương thêm cho da. Khi các mụn nước đã khô kéo dài khoảng 3 tuần mới bong vảy và sau vài tháng mới hết tổn thương cho da. Để tránh lây lan, người bệnh cần được chăm sóc cách ly cho đến khi các tổn thương ngoài da khỏi hẳn. Khi đang bị thủy đậu người bệnh cần tránh ánh nắng. Bôi kem chống nắng loại có chỉ số tối đa, bôi nhiều lần trong ngày và bôi toàn thân để tránh có thẹo. Sau khi bị thủy đậu, vi rút vẫn tồn tại trong một số bộ phận của hệ thần kinh và có thể hoạt động trở lại khi có suy giảm miễn dịch tế bào và gây ra dịch bệnh Zona.Bệnh thủy đậu và cách xử trí.
Những nốt ban hồng đường kính vài mm biến thành phỏng nước rất ngứa, lan khắp cơ thể. Bệnh thường xuất hiện ở trẻ em chưa chủng ngừa, gây sốt, mệt mỏi, khó chịu, kém ăn nhiều ngày. Người lớn bệnh nặng có thể tử vong nếu không được chăm sóc đúng.
Bệnh thủy đậu (trái rạ) do virus Varicelle Zoster gây nên, có thể bị quanh năm
nhưng thường gặp nhiều khi thời tiết thay đổi. Bệnh xảy ra phần lớn ở trẻ em
(90%), lây lan cao qua đường hô lấp (80-90%) và chỉ lây cho người lần đầu mắc bệnh
vì có tính miễn dịch rất cao, ít khi bị bệnh lần 2. Bệnh thường lành tính ở trẻ
em, nhưng khá nặng khi gặp ở người lớn với tỷ lệ tử vong 2-25/100.000.
Do vậy, người bị mắc bệnh cần được cách ly tiếp xúc với người ngoài trong vòng
7-10 ngày và trẻ em dưới 12 tuổi nên được chủng ngừa.
Vì vaccine không có hiệu quả suốt đời và chỉ có hiệu quả phòng bệnh 70-88% nên
ngoài việc tiêm chủng ngay sau khi sinh, trẻ em còn cần được tiêm nhắc lại sau
14 tháng. Phụ nữ có thai bị nhiễm bệnh trong thời kỳ đầu mang thai có thể gây
ra các dị tật bẩm sinh ở trẻ. Trẻ nhỏ mắc bệnh nhẹ hơn trẻ lớn, với thể thông
thường không có biến chứng thì bệnh sẽ tự khỏi trong vòng 10 ngày.
Biến chứng
Các biến chứng hay gặp nhất là bội nhiễm da do nốt phỏng bị vỡ hoặc do trẻ gãi
hay dịch nước hóa mủ. Viêm phổi gặp ở 20-30% người bệnh. Biến chứng nặng nhất
là viêm não do thủy đậu, gặp ở 0,1-0,2% và thường rất nặng ở người lớn. Các biến
chứng như: giảm tiểu cầu, viêm tủy cắt ngang, liệt thần kinh mặt, rối loạn tiểu
não, hội chứng Reye, viêm cơ tim, viêm thận, viêm gan, viêm đa rễ thần kinh...
ít gặp hơn.
Xử trí
- Cách ly ngay người bệnh cho đến khi các nốt thủy đậu đã đóng vảy.
- Giữ vệ sinh thân thể bằng tắm rửa hàng ngày với loại xà phòng sát trùng.
- Ăn uống tăng cường chất bổ để tạo sức đề kháng cho cơ thể.
- Cắt ngắn móng tay, tránh gãi.
- Bôi hoặc uống các thuốc chống ngứa.
- Khi người bệnh sốt cao, cần hạ sốt nhưng không được dùng Aspirin.
- Có thể dùng các thuốc chống virus: Acyclovir, Vidarabin, Lamivudin...
Chữa thuỷ đậu theo Y học cổ truyền
Trường hợp nhẹ: Không cần cho uống thuốc, chỉ kiêng lạnh,
kiêng gió, giữ vệ sinh da dẻ thật tốt. Có thể dùng bài thuốc nam: lá dâu 12g,
cam thảo đất 10g, kim ngân hoa 12g, kinh giới 6g cho vào ấm sắc lấy nước uống
nhiều lần.
Trường hợp nặng (sốt cao, khát nước, mặt đỏ miệng lưỡi tróc, mụn
thuỷ đậu dày và to, quầng đỏ, mụn nước đục, tiểu tiện ít và khó: dùng chủ yếu
phép thanh nhiệt giải độc. Kim ngân hoa 12g, lá tre 16g, bạc hà 8g, hoa kinh giới
8g, rau diếp cá 16g, cam thảo đất 12g, quả dành dành 8g sắc lấy nước uống. Nếu
có ho, thêm 10g lá chanh, 12g lá táo. nếu ăn không tiêu thêm sơn trang, thần
khúc 10g.
Điều quan trọng nhất là phải chủ động tiêm vaccine phòng ngừa khi trẻ được 12
tháng và có thể tiêm nhắc lại lúc 12 tuổi. Vaccine có hiệu quả phòng bệnh 95%
và ngừa bệnh nặng 100%. Nếu bệnh nhân bị lại, thường nhẹ, không quá nguy hiểm.
(ST)