Theo các nhà khoa học, các bộ phận của cây sứ đều có thể dùng làm thuốc như hoa, nụ hoa, lá tươi, vỏ thân, vỏ rễ, và nhựa cây, nhưng hoa được sử dụng nhiều nhất. Toàn cây có chứa fulvo plumierin là một loại kháng sinh thực vật, có tác dụng ức chế sự phát triển và tăng sinh của một số vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis. Từng bộ phận khác nhau của cây có những công dụng khác nhau:
- Rễ và vỏ thân: trong vỏ thân có glucozit là agoniadin và một chất đắng là plumierit. Rễ và vỏ thân hơi có độc, vị đắng, tính mát. Dân gian sử dụng để làm thuốc tẩy xổ (dùng 8 - 15 g), nhuận tràng (dùng 3 - 5 g), chữa táo bón (thay thế cho đại hoàng) và chữa thủy thũng.
- Lá sứ: theo dân gian dùng lá cây sứ dùng để chữa bong gân, sai khớp, mụn nhọt.
- Nhựa mủ: Thành phần chủ yếu là axít plumeric. Cũng có thể dùng nhựa mủ để tẩy xổ, nhưng liều thấp hơn nhiều so với vỏ thân, 0,5 - 0,7 g/ngày dưới dạng nhũ dịch.
- Hoa: hoa sứ có công dụng trừ ho, hạ áp, tiêu đờm. Trong dân gian thường sử dụng hoa sứ phơi khô để làm thuốc chữa ho, kiết lỵ... Hoa sứ khô có tác dụng mạnh hơn hoa tươi. Nên thu hái hoa ngay khi vừa nở hết, phơi hay sấy khô dùng dần.
Một số bài thuốc hay có dùng cây sứ
- Chữa chứng cao huyết áp, cách dùng như sau: hàng ngày sử dụng 12 - 20g hoa sứ (loại khô), đem sắc (nấu) lấy nước, uống thay trà trong ngày.
- Chân răng sưng đau: vỏ rễ ngâm rượu, dùng ngậm rất hiệu quả (chú ý không được nuốt).
- Ho: sử dụng 4 - 12g hoa sứ khô, sắc lấy nước, uống thay trà trong ngày (dùng loại hoa cánh trắng, tâm điểm vàng).
- Đau nhức hay mụn nhọt: cũng dùng lá tươi giã nhuyễn đắp vào.
- Bong gân: dùng một lá tươi rửa sạch, giã nhuyễn, trộn với một ít muối ăn đắp lên chỗ sưng. Lại dùng một ít lá tươi khác, hơ lên lửa cho héo và đắp phía ngoài rồi cố định bằng băng hoặc vải sạch. Ngày đắp 1 - 3 lần, liên tục như vậy 1 - 2 ngày.