Nguyên nhân gây ung thư tuyến giáp
Trước sự lo ngại về rò rỉ phóng xạ tại các nhà máy điện hạt nhân của Nhật, dưới đây các chuyên gia sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về các nguyên nhân gây nên căn bệnh ung thư tuyến giáp.
1. Phóng xạ
Tuyến giáp bị nhiễm phóng xạ từ thời kỳ ấu thơ, cho đến nay vẫn được xem là yếu tố chính dẫn đến căn bệnh ung thư tuyến giáp.
Nhiễm phóng xạ có thể từ bên ngoài (tia phóng xạ được dùng để điều trị một số bệnh) hoặc bị nhiễm vào bên trong cơ thể (đường tiêu hoá hoặc đường hô hấp) do iot phóng xạ.
Những nghiên cứu đối với trẻ em sống ở vùng Hiroshima và Nagasaki về chủ đề nhiễm nhiễm phóng xạ trong các vụ thử hạt nhân và sống ở Nga và các nước láng giềng sau thảm họa Chernobyl cho thấy chỉ những trẻ em dưới 15 tuổi mới có nguy cơ mắc ung thư tuyến giáp do nhiễm tia phóng xạ. Ở những trẻ em này, nguy cơ mắc bệnh tỷ lệ thuận với hàm lượng phóng xạ nhiễm phải.
2. Di truyền
Theo số liệu nghiên cứu, khoảng 3-5% bệnh nhân ung thư tuyến giáp (chiếm 70% số lượng bệnh nhân ung thư tuyến giáp) có bố hoặc mẹ đã từng bị ung thư tuyến giáp. Tuy nhiên các nhà khoa học cho biết hiện nay vẫn chưa pháp hiện được gene nào dẫn tới sự di truyền này.
Hơn nữa, 25-30% ung thư tuỷ (chiếm 7% ung thư u tuyến giáp) có liên quan tới sự thay đổi hình dạng của một số gene (gene Ret). Những bệnh di truyền hiếm gặp cũng có thể kết hợp với ung thư tuỷ như pô lip ruột kết...
3. Tuổi tác, thay đổi hooc-môn
Phần lớn bệnh nhân ung thư tuyến giáp được phát hiện ở độ tuổi từ 30-50. Phụ nữ có nguy cơ mắc bệnh này cao hơn nam giới từ 2-4 lần. Sự chệnh lệch này được giải thích là do yếu tố hooc-môn đặc thù ở nữ giới và quá trình mang thai đã kích thích sự hình thành bưới giáp và hạch tuyến giáp.
4. Do mắc bệnh tuyến giáp
Rất nhiều giả thiết đưa ra là những người bị bướu giáp, bệnh basedow hoặc hooc-môn tuyến giáp TSH mãn tính có nguy cơ mắc bệnh ung thư tuyến giáp cao hơn những người khác.
5. Các nguyên nhân khác
Ngoài những nguyên nhân quan trọng được kể ở trên, các nhà nghiên cứu cũng đưa ra rất nhiều nguyên nhân khác gây nên bệnh ung thư tuyến giáp: thiếu iot, thừa cân, nghiện rượu, nghiện thuốc lá...Nguyên nhân gay ung thư tuyến giáp và cách điều tr
Tiếp xúc với tia xạ, nguy hiểm!
Nguyên nhân chính của ung thư tuyến giáp dạng nhú và dạng nang chưa được biết rõ. Tuy nhiên, những bệnh nhân đã có tiền sử tiếp xúc với tia xạ, đặc biệt là trẻ em thì về sau, tỷ lệ mắc ung thư giáp và u giáp cao. Đáng lưu ý: những bệnh nhân phải xạ trị vùng đầu, cổ, ngực điều trị các bệnh lý khác như: u tuyến yên, ung thư vòm họng thì nguy cơ ung thư tuyến giáp cao hơn hẳn nhóm không xạ trị.
Các chuyên gia cũng cho biết thêm: 20%-50% ung thư tuyến giáp có yếu tố di truyền - do một gien bất thường trong cơ thể gây nên. Theo tiến sĩ Đỗ Trung Quân (ĐH Y Hà Nội): ung thư tuyến giáp có liên quan đến yếu tố gia đình, đặc biệt liên quan đến bệnh Cowden - bệnh có tính chất gia đình (bướu đa nhân, ung thư phổi, ung thư đại tràng, vú).
Theo các tài liệu nghiên cứu đã công bố, người dân được cung cấp đủ iốt thì ung thư tuyến giáp gặp chủ yếu là loại ung thư dạng nhú (60-80%). Ở những nước mà người dân bị thiếu iốt thì ung thư tuyến giáp chủ yếu là ung thư dạng nang. Nhiều nghiên cứu cũng khẳng định, khoảng 6% bệnh nhân Basedow sau phẫu thuật bị ung thư tuyến giáp.
Ảnh minh họa.
Ung thư tuyến giáp thường xuất hiện ban đầu dạng khối u tuyến giáp. Tuy nhiên người bệnh thường không biết mình có khối u. Hầu hết khối u tuyến giáp được phát hiện khi bệnh nhân đi khám sức khỏe, hoặc khám bệnh lý khác.
Ung thư tuyến giáp có thể biểu hiện: Khối u tuyến giáp cứng, không di động được hoặc ít di động khi nuốt. Giọng nói thay đổi, khàn hơn. Bệnh nhân có thể thấy khó nuốt hoặc khó thở. Khi đi khám, các bác sĩ có thể thấy có hạch vùng cổ. Tuy nhiên, tiến sĩ Đỗ Trung Quân lưu ý: khi có biểu hiện lâm sàng như trên thì bệnh đã tiến triển nặng. Đôi khi có thể phát hiện được di căn xa của ung thư khác:ung thư phổi hoặc di căn xương.
Đáp ứng điều trị cao
Ung thư tuyến giáp thường gặp ở nữ nhiều hơn nam, tỷ lệ bệnh nhân nữ mắc ung thư tuyến giáp cao gấp 2-4 lần so với nam giới. Tiến sĩ Đỗ Trung Quân nêu rõ: "So với một số ung thư khác (ung thư gan, phổi, đại tràng, dạ dày, buồng trứng, tử cung...), thì ung thư tuyến giáp đáp ứng với điều trị tốt nhất. Đây là loại ung thư có khả năng chữa khỏi, và tỷ lệ sống sau điều trị là rất cao và kéo dài nhất". Sau khi được chẩn đoán, bác sĩ sẽ đưa ra các quyết định lựa chọn phương pháp điều trị.
Ảnh minh họa.
Phẫu
thuật là phương pháp được lựa chọn hàng đầu. Tuy nhiên, việc phẫu thuật
rộng hay hẹp tùy thuộc vào kích thước khối u, mức độ di căn tại chỗ,
hạch nhiều hay ít... Với u lớn hơn 1 cm - loại ung thư tuyến giáp nang và nhú, chỉ định phẫu thuật thường là cắt bỏ thùy tuyến giáp có khối u. Với khối u lớn hơn 1 cm, sẽ phải cắt bỏ toàn bộ tuyến giáp và lấy toàn bộ hạch vùng cổ. Sau mổ 2-4 ngày, bệnh nhân có thể đi lại và ăn uống bình thường. Sau phẫu thuật khối u tuyến giáp,
bệnh nhân cần điều trị iốt phóng xạ. Phương pháp này có thể gây tác
dụng phụ: rối loạn tiêu hóa, nôn, buồn nôn. Có thể làm tăng nguy cơ ung hư máu (5/1.000 trường hợp). Bệnh nhân cũng có thể bị khô miệng, xơ hóa tuyến
nước bọt, hỏng răng. Ngoài ra, có thể xơ phổi (với trường hợp ung thư tuyến giáp di căn phổi phải xạ trị nhiều lần).
Bệnh ung thư tuyến giáp và những điều cần biết
Nguyên nhân
Ngày nay những tiến bộ về sinh học phân tử gần đây đã làm sáng tỏ nhiều cơ chế nguyên nhân của bệnh. Người ta cho rằng có sự sắp xếp lại các tyrosine kinase domains của gen RET và TRK. Sự sắp xếp lại trật tự RET gặp trong 5-33% ung thư thể nhú và không có liên quan tới chiếu xạ và 60-80% ở những người có tiền sử chiếu xạ vùng đầu cổ giai đoạn niên thiếu.
Ngoài ra còn một số phối hợp xảy ra khác nhưng tỷ lệ ít hơn như: rối loạn sản sinh nội tiết tố.
Hội chứng Pendred (bướu cổ và điếc thần kinh)-Chiếu xạ liều thấp tuyến giáp ở tuổi thiếu niên có thể gây tăng nguy cơ ung thư tuyến giáp thể
Phân loại ung thư tuyến giáp
- Ung thư thể nhú (Papillary thyroid cancer – PTC): Là thể bệnh thường gặp nhất chiếm 70% – 90% các loại ung thư tuyến giáp biệt hóa. Phần lớn bệnh xuất hiện ở trước tuổi 40, bệnh nhân nữ chiếm tỷ lệ nhiều hơn nam.
- Ung thư thể nang (Follicular thyroid cancer FTC): Ung thư thể nang thường gặp ở bệnh nhân sống ở vùng thường xuyên thiếu hụt Iod. Chẩn đoán khó khăn vì u nang lành và u nang ác tính thường giống nhau về hình thái. Thường là dựa vào hình ảnh xâm lấn vào u mô thần kinh và các mô lân cận. Tuổi thường gặp lớn hơn 40 tuổi và có xu hướng di căn theo đường máu đến xương, phổi và thần kinh. Tiên lượng nặng hơn K thể nhú.
- Ung thư tế bào Hurthle: Thường giống như ung thư thể nang – u tế bào Hurthle có 2 loại: u lành và u ác. Xét nghiệm giải phẫu bệnh cho thấy u tế bào Hurthle có kích thước to hơn tế bào nang. K tế bào Hurthle thường gặp ở người lớn tuổi trên 50 tuổi, ít di căn hạch thường, di căn xương và phổi.
- K giáp không biệt hóa: K giáp thể tủy (Medullary thyroid cancer – UTC) thường chiếm 5-10% trong ung thư tuyến giáp. Biểu hiện khối u ở cổ hoặc ở tuyến giáp thường phối hợp với các bệnh lý bạch huyết. Bệnh thường liên quan tới gia đình, những người bị tân sinh đa nội tiết. Xét nghiệm thường cho kết quả calcitonin tăng cao. Lâm sàng bệnh nhân thường xuất hiện đau đầu, đi lỏng, bệnh tiến triển chậm, tiên lượng nặng. Nên xét nghiệm Calcitonin những thành viên trong gia đình nếu có điều kiện, kiểm tra đột biến RET bằng kiểm định DNA là tốt nhất.
Điều trị tốt nhất là cắt bỏ triệt để nếu có di căn kết hợp hoá trị liệu. Điều trị hỗ trợ DCPX 131I không có hiệu quả.
Ung thư thể tủy thường gặp nhiều ổ (multifocal) xâm lấn bên trong tuyến giáp.
Ung thư bất định sản: Về mô học, ung thư gồm 2 loại tế bào nhỏ và tế bào khổng lồ. Loại tế bào khổng lồ là loại ung thư ác tính nhất, 50% bệnh nhân có thể tử vong trong thời gian 6-12 tháng ung thư xâm nhập rất mạnh và di căn sớm thường gặp ở bệnh nhân trên 60 tuổi.
Biểu hiện lâm sàng
Ung thư tuyến giáp thường tiến triển âm thầm, nhất là ung thư tuyến giáp thể nhú. Đối với những người xuất hiện u tuyến giáp thể nhân (đơn nhân hoặc đa nhân). Biểu hiện tuyến giáp to, xuất hiện một nhân hoặc nhiều nhân cứng, bờ gồ ghề di động theo nhịp nuốt, nếu khối u to có thể chèn ép gây khàn tiếng, khó thở, khó nuốt. Những trường hợp xuất hiện như vậy, người bệnh đến cơ sở chuyên khoa khám và xét nghiệm tế bào để chẩn đoán xác định.
- Hạch: thường xuất hiện hạch cùng bên, vùng cảnh thấp, thượng đòn hoặc hạch góc hàm, cổ đối bên. Tuy nhiên nếu xuất hiện các biểu hiện như vậy trên lâm sàng là đã ở giai đoạn muộn của bệnh. Vì thế người bệnh và thầy thuốc cần lưu ý một số yếu tố liên quan đến bệnh nhân xuất hiện u tuyến giáp như sau:
- Bướu giáp to xuất hiện nhân cứng chắc.
Chẩn đoán hình ảnh:
- Xquang
- Xạ hình. Ung thư tuyến giáp ít bắt Iod phóng xạ nên có giá trị chẩn đoán ung thư tuyến giáp giai đoạn di căn hạch.
- Siêu âm: giúp xác định u nang hoặc nhân đặc.
Chẩn đoán sinh hóa:
Định lượng Calcitonia (do tế bào C hoặc tế bào cận giáp tiết ra) thường xuất hiện tăng cao trong trường hợp ung thư thể tủy.
Định lượng FT3, FT4, TSH, Tg, AntiTg để chẩn đoán phân biệt Basedow và đánh giá tiên lượng di căn.
Các phương pháp điều trị
Đối với điều trị K giáp căn cứ vào từng loại bệnh, thể bệnh và giai đoạn bệnh để có biện pháp điều trị cụ thể.
- Phẫu thuật được chỉ định có tính quyết định trong điều trị ung thư tuyến giáp thể biệt hóa. Có nhiều phương pháp phẫu thuật khác nhau được áp dụng, tùy theo kích thước, vị trí tình trạng di căn của khối u. Có thể chỉ định cắt thùy tuyến giáp, cắt toàn bộ tuyến giáp, vét hạch di căn, …
- Điều trị hormon chỉ định đối với ung thư tuyến giáp thể biệt hoá.
- Điều trị tia xạ: Áp dụng 131I sau khi phẫu thuật (RAI- Radioactive iodine) hoặc điều trị tia xạ ngoài, khi độ tập trung Iod tuyến giáp thấp. Doxuribixin (adriamgxin), Cisplatin Etoposide.
Nếu điều trị kịp thời, bệnh nhân K giáp thể nhú thường sống sau 5 năm chiếm 80-90%; Thể nang sống sau 5 năm chiếm 50-70%; Thể tủy sống sau 5 năm chiếm 40%; Thể không biệt hóa sống sau 5 năm là dưới 50%;
Theo dõi:
Thường xuyên 3-6 tháng người bệnh bị ung thư tuyến giáp, nên khám bệnh, theo dõi tại cơ sở chuyên khoa (chỉ định Xquang, xạ hình phát hiện di căn, định lượng hormon tuyến giáp), để có biện pháp theo dõi điều trị kịp thời. Hy vọng rằng người bệnh bị ung thư tuyến giáp sẽ cải thiện chất lượng cuộc sống và kéo dài cuộc sống. Hiện tại số bệnh nhân điều trị ung thư tuyến giáp tại Viện Y học phóng xạ & U bướu quân đội kéo dài từ 5-10 năm số lượng đã lên tới vài chục bệnh nhân và họ thường xuyên được chăm sóc theo dõi định kỳ, sức khỏe rất ổn định.
(ST)