Thủ tục lễ cưới của người Dao quần trắng
Chị gái chồng sẽ đeo nữ trang lên người cô dâu để chính thức công nhận cô dâu là người nhà mình. Ảnh: BáoYên Bái
(Cinet) – Theo phong tục cưới của người Dao thì dù xa hay gần, khi sang đến nhà trai, đoàn nhà gái cũng phải nghỉ lại ở đâu đó rồi đến giờ hoàng đạo (thường là vào khoảng 5h – 6h chiều) thì cô dâu mới được lên nhà trai.
Lễ cưới (theo tiếng Dao gọi là "áy cón") truyền thống của người Dao quần trắng được diễn ra trong 3 ngày 2 đêm. Trước khi lễ cưới được tổ chức thì cả nhà trai và nhà gái sẽ phải chuẩn bị lương thực, thực phẩm, đồ lễ và ông mờ, bà mờ…
Lễ ăn hỏi, để làm lễ ăn hỏi nhà trai phải mang đồ lễ gồm một đôi gà thiến, một con lợn 30 kg, 10 lít rượu, một đồng bạc trắng và 50.000 đồng tiền mặt sang nhà gái và chọn ngày lành tháng tốt để tổ chức lễ cưới.
Vào lễ cưới, trước khi sang nhà gái, nhà trai cử một đoàn đi đón dâu với số lượng bắt buộc là 11 người trong đó có trưởng đoàn, chủ hôn, chú rể, phù rể và các nam thanh niên trẻ, khỏe có tài hát đối đáp, tất cả đều mặc trang phục truyền thống của dân tộc. Lúc này, chú rể phải làm thủ tục bái tổ tiên trước khi sang nhà cô dâu và kế ngay đó, bạn chú rể đứng hát xin tổ tiên phù hộ cho một đám cưới suôn sẻ, gặp nhiều may mắn.
Theo phong tục của người Dao quần trắng thì chú rể khi ra khỏi nhà phải đội một chiếc nón mới mang ý nghĩa là sẽ che chở, bảo vệ cho chú rể trong suốt chặng đường đi và khi đến nơi, đoàn nhà trai không được vào nhà gái ngay mà phải vào nghỉ tại nhà ông đi hỏi cho đến 5h chiều (theo người Dao thì đó là giờ đẹp) thì nhà trai mới bắt đầu đi từ nhà ông hỏi sang nhà gái.
Lễ vật cưới mang sang nhà gái gồm một vòng tay bằng bạc, trầu cau, muối, chè, bánh dày, hai bó miến, rượu, 8 con cá được cắt bằng giấy với ý nghĩa sau này 2 vợ chồng có đông con cháu và 1 ống nhỏ bên trong có 24 tờ lá rong được đổ gio bếp vào với ý nghĩa tượng trưng cho 2 vợ chồng trong 12 tháng sẽ luôn gặp may mắn, hạnh phúc, mọi điều xấu sẽ luôn lùi xa.
Ngày cưới, Vào lễ cưới, trước khi sang nhà gái, nhà trai cử một đoàn đi đón dâu với số lượng bắt buộc là 11 người trong đó có trưởng đoàn, chủ hôn, chú rể, phù rể và các nam thanh niên trẻ, khỏe có tài hát đối đáp.
khi đoàn đón dâu đến chân cầu thang nhà gái thì đoàn nhà trai vẫn chưa được mời vào nhà ngay mà sẽ có các cô gái là bạn bè của cô dâu chặn lối để hát đối đáp, ý của nhà gái nói với đoàn nhà trai là muốn lên nhà thì phải bước qua con dao (mang ý nghĩa là vượt qua mọi chông gai) và uống một ít rượu. Đây là lúc các chàng phù rể phải tìm được những câu hát thật hay để các cô gái mời lên nhà. Rồi trên cầu thang nhà gái có sẵn một mâm lễ vật gồm một khăn mặt, một chiếc cân và 2 bát nước.
Chú rể chùm Guý vằng để tượng trưng cho những cánh long, cánh phượng che chở cho chú rể. Ảnh: Internet
Trong ngày cưới, chú rể được chùm lên đầu chiếc áo vàng (Guý vằng) để tượng trưng cho những cánh long, cánh phượng che chở cho chú rể. Sau khi đã xong thủ tục thì đoàn nhà trai mới được lên nhà. Khi bước qua cửa thì chú rể sẽ phải bước chân trái đầu tiên và thầy cúng làm phép rửa chân cho chú rể.
Sau đó chú rể đi thẳng vào buồng cô dâu và đêm hôm đó sẽ ngủ lại một đêm tại buồng, còn cô dâu lại được giấu tạm đi nơi khác. Trong khi đó, ở bên ngoài vẫn diễn ra mọi thủ tục, nghi lễ giữa trưởng đoàn, ông mối với người đại diện bên nhà gái và cuộc hát đối đáp giữa nam nữ thanh niên của hai họ. Rồi sau đó dân làng cùng đến chúc mừng hạnh phúc cho đôi bạn trẻ.
Đến giờ đẹp (khoảng 10h đêm) là lễ kết tóc se tơ cho cô dâu chú rể. Người cầm bó đuốc sẽ đi trước với ý nghĩa là xua tà, đuổi cái ác, soi đường chỉ lối cho cô dâu.
Đến sáng hôm sau, chú rể ra vái tổ tiên, thầy cúng báo với thổ công rằng đất nhà có thêm người mới. Sau khi chú rể làm lễ thưa rượu ông bà, cha mẹ và những người có mặt tham dự xong thì chú rể sẽ tự bỏ về nhà trước.
Đến giờ đã định, sau khi đã trang điểm xong thì cô dâu sẽ lên buồng, dùng quạt để che mặt và thầy mờ của nhà trai choàng cho cô dâu chiếc áo vàng mà chú rể đã mặc hôm qua, còn đoàn nhà trai sẽ đứng hát xin dâu. Người Dao quan niệm, khi đi lấy chồng thì cô dâu không được để hở mặt ra bởi như thế sẽ mất vía và cô dâu sẽ không gặp may trong suốt cuộc đời.
Ra đến cửa, thầy cúng sẽ làm phép để xin cô dâu ra khỏi nhà được bình an. Ông mờ cùng các phù dâu, phù rể đưa cô dâu về nhà trai. Trên đường đi lúc nào ông mờ tay cũng cầm một chiếc ô và ở đầu ô đã được làm phép.
Theo phong tục của người Dao thì dù xa hay gần, khi sang đến nhà trai, đoàn nhà gái cũng phải nghỉ lại ở đâu đó rồi đến giờ hoàng đạo (thường là vào khoảng 5h – 6h chiều) thì cô dâu mới được lên nhà trai. Đó là khoảng thời gian tốt nhất cho cô dâu và chú rể sau này.
Đến gần cầu thang nhà trai thì một bà cô hay chị gái chồng sẽ đeo nữ trang lên người cô dâu rồi thầy mờ chùm “Gúy vằng” lên đầu. Điều đó có nghĩa là nhà trai đã chính thức công nhận cô dâu là người nhà mình.
Người cầm bó đuốc sẽ đi trước để soi đường chỉ lối cho cô dâu. Ảnh: Báo Yên Bái
Sau đó, một phù rể sẽ cầm tay áo của cô dâu dẫn lên cầu thang, thầy cúng bên nhà trai đã chờ sẵn ở cửa và làm phép rửa chân cho cô dâu, bước chân đầu tiên bước vào nhà chồng thì cô dâu phải bước chân phải. Trong đám cưới của người Dao thì chú rể không được ra đón và cũng không được nhìn mặt cô dâu cho đến khi các nghi lễ lạy tạ tổ tiên được thực hiện xong bởi người Dao cho rằng, có như vậy thì mới tránh được những điều rủi ro, cô dâu và chú rể mới sống hạnh phúc trăm năm.
Sau khi vào đến buồng cô dâu sẽ được cởi Gúy vằng. Ở bên ngoài, thầy mờ sẽ nói chuyện với đại diện bên nhà trai, nói rằng từ nay con gái đã là con của gia đình và nhờ bên này bảo ban cháu thêm. Rồi cô dâu ra để vái lạy gia tiên, họ hàng bên nhà chồng. Sau đó thầy cúng sẽ cúng trình báo tổ tiên nhà trai rồi thay mặt gia chủ mời tổ tiên về dự và phù hộ cho hai gia đình cùng đôi vợ chồng trẻ. Những người đến dự đều chúc mừng hạnh phúc cho cô dâu, chú rể, tạo nên không khí vui tươi của cả bản làng.
Hiện nay, một lễ cưới theo đúng phong tục tập quán của người Dao quần trắng không còn nhiều nơi tổ chức bởi do cuộc sống mới nên đã có sự cải tiến cho gọn nhẹ hơn.
Lễ cưới truyền thống của người Dao quần trắng chứa đựng nhiều giá trị văn hóa cần được gìn giữ nhằm góp phần bảo tồn và phát huy vốn văn hóa phi vật thể đặc sắc trong cộng đồng các dân tộc Việt./.