Cần theo dõi sát sao để phát hiện các dấu hiệu tiền sốc vì sốc là biến chứng nguy hiểm nhất của bệnh sốt xuất huyết, rất dễ dẫn đến tử vong. Đừng quá phụ thuộc vào triệu chứng xuất huyết vì nhiều trẻ bị sốc mà không có dấu hiệu này.
Bệnh sốt xuất huyết thường bắt đầu bằng triệu chứng sốt với 3 đặc điểm: đột ngột, liên tục và sốt cao. Triệu chứng xuất huyết thường xảy ra sau khi bắt đầu sốt một vài ngày và rất đa dạng: chảy máu cam, chảy máu dưới da, nôn hay tiêu ra máu. Có những trẻ hoàn toàn không bị xuất huyết.
Dù có hoặc không triệu chứng xuất huyết thì bệnh vẫn có thể dẫn tới một biến chứng vô cùng nguy hiểm mà các thầy thuốc đều luôn cảnh giác, đó là sốc. Sốc là một hội chứng (nghĩa là nhiều triệu chứng hội tụ lại) với 3 tình trạng suy giảm của cơ thể: giảm tri giác (người bệnh không còn lanh lợi, tỉnh táo mà trở nên lừ đừ, có khi mê sảng), giảm nhiệt độ (nhất là đầu chi) và giảm huyết áp. Sốc là biến chứng nguy kịch nhất của bệnh sốt xuất huyết. Đa số trẻ sốt xuất huyết tử vong do sốc nặng, không phục hồi được nữa.
Căn cứ vào các triệu chứng và biến chứng, ngành y đã phân bệnh sốt xuất huyết làm 4 cấp từ nhẹ tới nặng. Ở cấp 1, người bệnh chỉ sốt, chưa có triệu chứng xuất huyết. Cấp 2, người bệnh sốt có triệu chứng xuất huyết. Ở cấp 3, người bệnh bắt đầu có dấu hiệu sốc và cấp 4 thì đã bị sốc nặng.
Trẻ sốt xuất huyết cấp 1 sẽ được điều trị tại nhà theo đơn, có hẹn ngày tái khám. Với cấp 2, tùy trường hợp, trẻ có thể điều trị tại nhà có theo dõi chặt chẽ, hoặc nhập viện nếu xét thấy cần thiết. Những trường hợp cấp 3 và 4 nhất thiết phải nhập viện ngay.
Khoảng 70% trẻ sốt xuất huyết được điều trị tại nhà. Trong trường hợp này, cần cho trẻ nằm nghỉ tuyệt đối, uống nước đầy đủ, ăn các chất dễ tiêu, thực hiện đúng đơn thuốc của bác sĩ và theo dõi chặt chẽ sự tiến triển của bệnh.
Nằm nghỉ là điều đầu tiên phải thực hiện. Trẻ cần nằm nghỉ trong một phòng thoáng mát. Tuyệt đối không ra mưa, ra nắng, không đi đâu vì nhiều trẻ tuy sốt những vẫn có vẻ khỏe mạnh.
Cho trẻ uống nước đầy đủ là điều rất cần thiết vì bệnh sốt xuất huyết thường làm máu bị cô đặc lại, rất khó lưu thông. Đó chính là nguyên nhân chủ yếu gây ra biến chứng sốc. Để phòng tránh, nên cho trẻ uống Oresol (chất thường dùng để bù nước trong bệnh tiêu chảy) hoặc nước cam, nước chanh, nước khoáng hay nước lọc đun sôi. Cho trẻ uống từ từ, thong thả vì việc uống quá nhanh, quá nhiều cùng một lúc có thể sẽ gây nôn, đầy bụng. Về ăn, cần chọn các chất dễ tiêu như cháo, súp và không bao giờ được ăn no quá.
Trong bệnh sốt xuất huyết, các bác sĩ thường cho trẻ dùng thuốc hạ sốt paracetamol (với nhiều tên khác nhau như Acemol, Cetamol, Efferalgan, Panadol). Đừng bao giờ cho trẻ dùng các thuốc nhóm aspirine như Aspegic, Aspro... chúng có thể làm tăng nguy cơ chảy máu và một số tai biến khác (có trường hợp dẫn đến tử vong). Không được tự ý cho trẻ dùng thuốc kháng sinh vì chúng không có tác dụng gì với bệnh sốt xuất huyết mà chỉ làm trẻ mệt thêm.
Trường hợp trẻ sốt cao, có thể áp dụng thêm phương pháp “lau mát” với 3 động tác cơ bản: Dùng 1 khăn lông rấp nước mát đắp lên đầu, lên trán trẻ; lấy 1 khăn lông khác dấp nước ấm để lau mình mẩy, tay chân; nếu sờ 2 bàn chân trẻ thấy lạnh thì dùng 1 chai nước ấm ủ giữa 2 bàn chân, phủ lên 1 khăn lông khô.
Ngoài ra, cha mẹ cần theo dõi bệnh của trẻ thật chu đáo để phát hiện các triệu chứng tiền sốc, bao gồm:
- Trẻ đang tỉnh táo, bỗng trở nên lừ đừ, có khi vật vã.
- Trẻ có những cơn đau bụng dữ dội mà trước đây không có hoặc rất ít.
- Tay, chân lạnh.
- Da trẻ đổi màu, trở nên bầm bầm, môi xám lại.
- Trẻ tiểu ít hẳn hoặc không tiểu chút nào, nhưng rất khát.
Bạn hãy lưu ý phát hiện các triệu chứng tiền sốc, nhất là từ ngày thứ 3 của bệnh (tính từ ngày bắt đầu sốt), vì biến chứng sốc thường xảy ra từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 7. Nếu bạn nhận thấy một hoặc vài triệu chứng kể trên thì dù chưa đến ngày tái khám hoặc bận công việc gì cũng phải cấp tốc đưa trẻ đến bệnh viện.