Tiêm phòng cho trẻ

Nhanluu1294 Nhanluu1294 @Nhanluu1294

Tiêm phòng cho trẻ

18/04/2015 03:23 PM
966

Tiêm phòng cho trẻ - Lịch tiêm phòng cho trẻ

Bé nhà em được 3 tháng .khi mới sinh ở trong viện bé được tiêm 1 mũi viêm gan B. Cho em hỏi: - Em nghe nói viem gan B cách 1 tháng phải tiêm lại mới được, còn ko là phải tiêm lại từ đầu? - Em nghe nói có mũi tiêm tổng hợp ngừa 6 bênh.Tiêm như vậy có tốt ko? Em muốn tiêm cho bé thì phài tới đâu? Bsĩ tư vấn giúp em phải tiêm phòng như thế nao cho dung? Xin cảm ơn! (Luu Thi Bich Ngoc)

Trả lời:

Hiện nay có 6 bệnh được ngừa cho trẻ ở nước ta theo lịch chủng ngừa bắt buộc và miễn phí, đó là: lao, bại liệt, bạch hầu, uốn ván, ho gà, sởi. Ở một số nước châu Á, thậm chí có nước thuộc khu vực Ðông Nam Á, trong chương trình tiêm chủng mở rộng có chủng ngừa thêm bệnh thứ 7 là bệnh viêm gan siêu vi B. Ngoài chủng ngừa bắt buộc 6 bệnh kể trên, ở ta trẻ còn được chủng ngừa tự nguyện (tức gia đình lựa chọn và chịu chi phí cho việc chủng ngừa) để ngừa các bệnh sau: viêm màng não mủ Hemophillus influenza hib, viêm màng não mủ do não mô cầu Nesseria meningitidis, thủy đậu (varicella), viêm gan siêu vi B, quai bị, rubeol (có thuốc Trimovax ngừa cả 3 bệnh: quai bị, rubeol, sởi), viêm não Nhật Bản B và cả viêm gan siêu vi B. Ðối với các tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long thì bệnh ưu tiên chủng ngừa tự nguyện vì sự lây nhiễm là thương hàn và dịch tả.

Trong tình hình hiện nay đối với trẻ em châu Á, thuốc chủng ngừa bệnh có thể phân làm 5 nhóm như sau:

- Nhóm 1: Gồm 6 thuốc chủng thuộc chương trình tiêm chủng mở rộng ở nước ta cộng với thuốc chủng viêm gan siêu vi B. Ðây là nhóm chủng ngừa bắt buộc. Cần đưa chủng ngừa viêm gan siêu vi B vào chương trình tiêm chủng mở rộng là vì tỷ lệ nhiễm bệnh này ở châu Á rất cao so với các nước phương Tây và có khoảng một nửa trẻ có mẹ nhiễm siêu vi B đều trở thành người mang mầm bệnh mạn tính. Bốn nhóm còn lại thuộc loại chủng ngừa tự nguyện, tùy trường hợp bố mẹ sẽ đưa trẻ đi chủng ngừa và có thể phải trả chi phí cho việc tiêm chủng.

- Nhóm 2: Là nhóm các thuốc chủng ngừa các bệnh có thể bộc phát thành bệnh dịch địa phương (endemic diseases) như: viêm não Nhật Bản B, thương hàn, dịch tả và viêm màng não mủ do não mô cầu.

- Nhóm 3: Là nhóm các thuốc chủng ngừa các bệnh có nguy cơ cao lây nhiễm cho trẻ, là các bệnh: viêm màng não mủ do Hib, cúm (influenza), viêm phổi do Pneumococcus, thủy đậu. Riêng chủng ngừa thủy đậu được ghi nhận là sẽ giúp trẻ miễn nhiễm phần nào bệnh "giời leo" (herpes zoster).

- Nhóm 4: Là nhóm các thuốc chủng ngừa các bệnh do du lịch từ vùng này sang vùng kia, là các bệnh: viêm gan siêu vi A, sốt vàng (yellow fever). Thương hàn, nhiễm não mô cầu cũng được kể trong nhóm này.

- Nhóm 5: Là nhóm thuốc chủng trong trường hợp đặc biệt, đó là bệnh dại (được ngừa do bị chó dại cắn).

Lịch tiêm chủng theo chương trình tiêm chủng quốc gia:

LỨA TUỔI

LOẠI VẮC XIN PHÒNG BỆNH

LỊCH TIÊM 

Từ sơ sinh (càng sớm càng tốt)

Lao (BCG)

Mũi 1: Có thể nhắc lại sau 4 năm

Viêm gan B (Hepatitis B)

Mũi 1

Bại liệt (Poliomyelitis)

Bại liệt sơ sinh

1 tháng tuổi

Viêm gan B

Mũi 2

2 tháng tuổi

Bạch hầu, ho gà, uốn ván, bại liệt (Diphtheria, pertussis, tetanus, polio)

Mũi 1

Viêm màng não mủ, viêm họng, viêm PQ, viêm phổi…do trực khuẩn H.influenza týp b

Mũi 1

Viêm gan B

Mũi 3 (Một năm sau nhắc lại mũi 4 và 8 năm sau nhắc lại mũi 5)

3 tháng tuổi

Bạch hầu, ho gà, uốn ván, bại liệt

Mũi 2

Viêm màng não mủ, viêm họng, viêm PQ, viêm phổi…do trực khuẩn H.influenza týp b

Mũi 2

4 tháng tuổi

Bạch hầu, ho gà, uốn ván, bại liệt

Mũi 3 (nhắc lại sau 1 năm)

Viêm màng não mủ, viêm họng, viêm PQ, viêm phổi…do trực khuẩn H.influenza týp b

Mũi 3 (nhắc lại sau 1 năm)

9 tháng tuổi

Vacxin phối hợp sởi, quai bị, rubella (MMR)

Tiêm 1 mũi, 4-6 năm sau tiêm nhắc lại (Khi cần thiết nhắc lại sau 15 tháng)

Thủy đậu (Varicella)

Tiêm 1 mũi duy nhất (9 tháng – 12 tuổi)

Nếu trên 12 tuổi: tiêm 2 mũi (cách nhau 6 – 8 tuần)

12 tháng tuổi

Viêm não Nhật Bản B (Japanese B encephalitis)

Tiêm 3 mũi (2 mũi đầu cách nhau 1-2 tuần và mũi 3 sau 1 năm)

15 tháng tuổi

Vacxin phối hợp sởi, quai bị, rubella (vacxin MMR)

Tiêm 1 mũi (nhắc lại sau 4-5 năm)

18 tháng và người lớn

Viêm màng não do não mô cầu (vacxin A+C meningoencephalitis)

Tiêm 1 mũi

(Cứ 3 năm tiêm nhắc lại 1 lần hoặc theo chỉ định khi có dịch)

24 tháng tuổi và người lớn

Viêm gan A (Hepatitis A) = Vacxin Avaxim

Tiêm 2 mũi

Từ 2-15 tuổi: khoảng cách giữa 2 mũi là 6 tháng

Trên 15 tuổi: khoảng cách giữa 2 mũi là 6-12 tháng

Viêm phổi, viêm màng não mủ.. do phế cầu khuẩn = vacxin Pneumo 23

Tiêm 1 mũi

(Cứ 5 năm nhắc lại 1 lần)

Thương hàn (Typhoid) = vacxin Typhim Vi

Tiêm 1 mũi. Cứ 3 năm nhắc lại 1 lần

36 tháng và người lớn

Vacxin Cúm = vacxin Vaxigrip

Vacxin được tiêm mỗi năm 01 lần, đặc biệt những người có nguy cơ mắc các biến chứng của bệnh cúm. Có thể dùng cho phụ nữ đang cho con bú.

35 tháng tuổi – người lớn

01 liều = 0.5 ml/mỗi năm

06 tháng – 35 tháng tuổi

01 liều = 0.25ml/mỗi năm

(trẻ dưới 8 tuổi: chưa mắc cúm hoặc chưa tiêm chủng phải tiêm liều thứ 2 sau 4 tuần)

Lưu ý: Vacxin bạch hầu - ho gà - uốn ván - bại liệt nên nhắc lại khi 4 – 6 tuổi, 10 – 11 tuổi và 16 – 21 tuổi.

* Nguồn: Viện Nhi TW

Bạn có thể cho con đến tiêm tại 50C Hàng Bài hoặc Trung tâm y tế cộng đồng ở 70 Nguyễn Chí Thanh, số 3 Ông Bích Khiêm (Hà Nội)

Một số lưu ý:

- Nếu trẻ bị sốt nhẹ, tiêu chảy hay suy dinh dưỡng vẫn cho trẻ tiêm chủng như thường lệ.

- Sau khi tiêm, nếu trẻ bị sốt nhẹ, chỗ tiêm bị sưng đỏ là phản ứng bình thường, không đáng ngại.

- Sau năm đầu, nhớ đưa trẻ đi tiêm ngừa nhắc lại theo hướng dẫn của nhân viên y tế.

Tiêm phòng cho trẻ - khi nào không nên?

Các bậc cha mẹ đều nắm rõ lịch tiêm phòng cho trẻ; tuy nhiên ít người quan tâm chỉ định cấm chủng ngừa khi trẻ không khoẻ.

Lao

Việc ngừa lao cho trẻ sơ sinh được thực hiện bằng cách tiêm vaccine BCG ngay trong tuần đầu sau sinh. Thuốc được tiêm trong da. Sau khi tiêm, có thể nổi mẩn đỏ, sưng tấy nhẹ, hoặc loét tại chỗ tiêm.

Không nên tiêm cho trẻ bị viêm da có mủ, đang bị sốt trên 37,5 độ C, bị tiêu chảy, suy dinh dưỡng, bệnh tai mũi họng, viêm phổi, vàng da,... và nhất là trẻ bị nhiễm HIV. Việc tiêm BCG có hiệu quả lâu dài, nhưng không được dùng cho những người đã bị lao.

Tiêm phòng cho trẻ - khi nào không nên? - 1
Các bậc cha mẹ đều nắm rõ lịch tiêm phòng cho trẻ; tuy nhiên ít người quan tâm chỉ định cấm chủng ngừa khi trẻ không khoẻ. (Ảnh minh họa).

Bạch hầu, uốn ván, ho gà

Việc tiêm ngừa bệnh bạch hầu, uốn ván và ho gà được thực hiện cùng một lúc khi các trẻ đã được 2 tháng tuổi. Thuốc chủng ngừa được pha trộn chung, viết tắt là DTP (theo tiếng Anh) hoặc DTC (theo tiếng Pháp) và được tiêm vào bắp thịt của trẻ.

Theo lịch tiêm chủng, trẻ được tiêm 8 liều cách nhau ít nhất 30 ngày. Liều thứ nhất khi trẻ được 2 tháng tuổi. Liều thứ ba trước khi trẻ được 12 tháng tuổi. Trẻ sẽ được tiêm nhắc lại 1 năm sau khi tiêm liều thứ ba. Thuốc có hiệu quả bảo vệ trong nhiều năm sau khi đã tiêm đủ liều. Tại chỗ tiêm ngừa có thể bị nổi mẩn đỏ, sưng đau nhẹ, gây sốt 38-39oC.

Trong trường hợp trẻ đang mắc bệnh nhiễm khuẩn, sốt cao, rối loạn thần kinh... không nên tiêm ngừa.

Bại liệt

Trẻ sẽ được chủng ngừa sốt bại liệt cùng lúc với tiêm ngừa bạch hầu, uốn ván, ho gà bằng thuốc ngừa dạng uống (vaccin Sabin): uống ba lần vào lúc 2 tháng tuổi, 3 tháng tuổi và 4 tháng tuổi. Trẻ sẽ được bảo vệ trong 10 năm. Sau khi uống thuốc ngừa, trẻ có thể bị nhức đầu, đau cơ hoặc tiêu chảy và rất hiếm khi bị liệt mềm cấp (1/5 triệu các trường hợp).

Tuyệt đối không được cho uống Sabin ngừa sốt bại liệt trong lúc trẻ đang bị sốt, bị nôn, tiêu chảy, đang được điều trị bằng thuốc corticoid, mắc bệnh ác tính (u lympho, bạch cầu cấp...) hoặc bị nhiễm HIV. Không cho các cháu uống thuốc Sabin đồng thời với vaccine thương hàn uống.

Với một số trường hợp trẻ không uống được, nên dùng vaccine dạng tiêm (vaccine Salk).

Sởi

Trẻ được chủng ngừa bệnh sởi khi đã hơn 9 tháng tuổi. Thuốc được tiêm dưới da và có tác dụng bảo vệ trong nhiều năm. Sau khi tiêm, có thể có phản ứng tại chỗ tiêm: sưng đỏ, nổi mụn nước. Trẻ cũng có thể bị sốt, ho, sổ mũi và nhức đầu. Thuốc ngừa bệnh sởi được tiêm một lần.

Khi trẻ đang sốt cao, bị suy giảm miễn dịch nhiễm HIV, cần hoãn tiêm thuốc ngừa bệnh sởi.

Tiêm phòng cho trẻ - khi nào không nên? - 2
Trong trường hợp trẻ đang mắc bệnh nhiễm khuẩn, sốt cao, rối loạn thần kinh... không nên tiêm ngừa. (Ảnh minh họa).

Viêm gan siêu vi B

Từ năm 1995, việc phòng ngừa viêm gan siêu vi B (VGSVB) được chưa vào Chương trình Tiêm chủng mở rộng. Theo đó, tất cả trẻ em được tiêm ba mũi:

    * Mũi thứ nhất: 0-2 tháng tuổi.

    * Mũi thứ hai: sau lần mũi đầu 1-4 tháng.

    * Mũi thứ ba: sau mũi 2 từ 6 đến 18 tháng.

Hầu hết các vaccine ngừa VGSVB đều rất an toàn. Một số ít các trường hợp có thể bị sốt nhẹ, đau chỗ tiêm, nôn ói, chóng mặt, mệt mỏi, đau cơ sau khi tiêm.

Đối với trẻ sinh ra nhẹ cân (ít hơn 1,5kg) có thể chờ cho đến khi trẻ được 2kg hoặc từ 2 tháng tuổi mới bắt đầu tiêm ngừa VGSVB.

Viêm não Nhật Bản

Để phòng ngừa bệnh viêm não Nhật Bản, trẻ cũng cần được tiêm 3 mũi dưới da:

    * Mũi tiêm đầu: Khi trẻ hơn 1 tuổi.

    * Mũi thứ hai: Tiêm sau mũi thứ nhất 1-2 tuần.

    * Mũi thứ ba: Sau mũi thứ hai 1 năm.

Sau khi tiêm, ngay tại chỗ tiêm có thể bị đỏ, sưng tấy. Đôi khi trẻ bị ớn lạnh, đau đầu, sốt sau khi tiêm.

Tiêm ngừa bệnh viêm não Nhật Bản không dược tiến hành cho trẻ đang sốt cao, mắc bệnh tim, thận, gan, tiểu đường hoặc suy dinh dưỡng, đang mắc bệnh ung thư máu và nhất là trẻ đã từng bị dị ứng với thuốc ngừa VNNB.

Các bệnh khác

Tại Việt Nam, việc tiêm phòng tả và thương hàn đã được nhắc đến, và tùy theo tình hình dịch tễ của từng địa phương, mà các bệnh này được xem xét đưa hay không đưa vào Chương trình Tiêm chủng mở rộng.

Bên cạnh 8 bệnh nói trên trong chương trình này, một số bệnh khác từ lâu đã có vaccine phòng ngừa như: dại, thủy đậu, viêm màng não, quai bị, cúm,... cũng được quan tâm. Tuy nhiên, nhiều nhà khoa học đưa ra quan điểm (đến nay vẫn chưa thống nhất) không nên tiêm ngừa quá nhiều loại vaccine cho trẻ, đề phòng gây “quá tải” cho hệ miễn dịch của cơ thể.

Những điều cần biết về việc tiêm phòng (chích ngừa) cho trẻ em

Cho đến nay, nhiều bà mẹ đã thấy rõ lợi ích to lớn của việc tiêm phòng cho trẻ, và đã tích cực đưa trẻ đi tiêm phòng. Tuy nhiên, vẫn còn 1 số bạn chưa hiểu rõ điều này. Chúng tôi đã gặp không ít bà mẹ đã tỏ ra ngần ngại khi được động viên đưa trẻ đi tiêm phòng. Một số bà mẹ thoái thác: "Cháu đi tiêm phòng mấy lần về đều bị phản ứng, phát sốt lên, cả nhà sợ lắm, thôi xin BS miễn cho cháu kỳ này", hoặc có bà mẹ từ chối hẳn: "gia đình chúng tôi thật không dám cho cháu đi chích ngừa lao nữa, vì trước đây anh cháu đi chích về đã bị sưng hạch ở nách, phải chữa hàng tháng mới khỏi..." hoặc "cháu uống thuốc ngừa bại liệt song thì bị tiêu chảy ngay, nên lần này không dám cho cháu đi uống nữa"...

Xem xét các trường hợp trên, chúng tôi đã thấy rằng hầu hết các trẻ đó đều không có chống chỉ định trong tiêm phòng, nghĩa là vẫn có thể tiêm phòng trong an toàn. Có những ngần ngại hoặc những từ chối trên kia, chỉ là do bà mẹ chưa hiểu hết đầy đủ về việc tiêm phòng thôi.

Tác giả viết bài này với mục đích trình bày để các bà mẹ hiểu rõ 2 điều: những phản ứng không mong muốn của việc tiêm phòng và những chống chỉ định trong tiêm phòng; để các bà mẹ yên tâm, tích cực cho trẻ đi tiêm phòng và hiểu rõ hơn những trường hợp nào thì cần tránh tiêm phòng.

I. Những phản ứng không mong muốn của việc tiêm phòng:

Tiêm phòng là một biện pháp thực tế nhất, hiệu quả nhất để phòng bệnh: điều đó chắc mọi chúng ta đều rõ. Tuy nhiên, cũng cần hiểu rằng, trong 1 số trường hợp, có thể xảy ra phản ứng ở trẻ. Những phản ứng này, thầy thuốc không mong muốn có, gia đình lại càng không mong muốn có, cho nên được gọi là những phản ứng không mong muốn. Vậy những phản ứng đó ra sao? Có nguy hại cho trẻ không? Có làm mất tác dụng phòng bệnh của thuốc không? Chúng ta sẽ lần lượt xem xét từng vấn đề trên đây.

1. Phản ứng tại chỗ: Phản ứng này luôn xảy ra sau khi tiêm phòng. Một số trẻ cảm thấy đau nơi tiêm, cảm giác đau đó thường kéo dài từ 1 vài giờ đến 1 ngày, có thể làm các trẻ nhỏ quấy khóc. Một số trẻ khác lại thấy nổi cục lên ở nơi tiêm. Cục này thường nhỏ bằng hạt đậu, có khi viêm tấy đỏ, và có thể tồn tại tới 2-3 tuần mới tiêu tan. Cũng có trẻ lại bị mẩn ngứa xung quanh nơi tiêm, có thể kéo dài từ 3 tới 6 ngày. Những phản ứng này có thể xảy ra trong 5-10% số các trẻ tiêm phòng và thường là tự khỏi.

2. Phản ứng toàn thân: ở đây, sốt là chứng hay gặp nhất. Sau khi tiêm phòng 1 vài giờ hoặc 1 ngày, một số trẻ có thể bị sốt: sốt thường nhẹ, nhưng cũng đôi khi sốt cao (trên 39o), kèm theo tình trạng vật vã, quấy khóc, những trẻ lớn có thể kêu nhức đầu. Chứng sốt này hay thấy hơn cả trong các trường hợp tiêm phòng bệnh thương hàn, tiêm phòng bệnh ho gà. Cũng có trường hợp, sau khi tiêm phòng sau tới 5-12 ngày, trẻ mới bị sốt: thông thường chứng sốt muộân này xảy ra sau khi tiêm phòng bệnh sởi, đôi khi tiêm phòng bệnh quai bị. Tuy nhiên, tất cả các chứng sốt nói trên đều khỏi trong 1-2 ngày, và thường là tự khỏi. Chỉ có một số ít trường hợp sốt cao mới cần dùng đến thuốc hạ nhiệt (Paracetamol). Chúng tôi chưa hề gặp một tai biến nào nguy hiểm trong các trường hợp sốt sau tiêm phòng nói trên.

3. Phản ứng ngoài da: Ban mề đay, ngứa toàn thân, đôi khi có thể xảy ra ở một số trẻ có tiền sử hay bị dị ứng, và có thể tồn tại từ 3 đến 6 ngày. Ngoài ra, tình trạng phát ban (ban đỏ, gần giống như ban sởi, nhưng nhẹ hơn) có thể xảy ra 2-10% trẻ tiêm phòng bệnh sởi hoặc bệnh rubêôn. Ban này thường xuất hiện trong khoảng từ ngày thứ 6 đến ngày thứ 12 sau khi tiêm phòng, có thể kèm theo sốt nhẹ, và thường tự khỏi không cần dùng thuốc. Chỉ có một số trường hợp ban mề đay, nếu gây khó chịu nhiều cho trẻ, thì có thể dùng thêm 1 số thuốc chống dị ứng (Sirop Phenergan, Sirop Promethazine...).

4. Tai biến thần kinh: Đây mới là các tai biến đáng quan tâm hơn cả. Một số ít trẻ sau khi tiêm phòng bệnh ho gà, có thể bị co giật (làm kinh) đôi khi kèm theo sốt cao. Các cơn co giật này có thể xảy ra trong khoảng từ 30 phút đến 3 ngày sau khi tiêm phòng. Phần lớn các trẻ này, qua điều tra, đã thấy có tiền sử có những cơn làm kinh từ trước khi tiêm phòng ho gà. Tỷ lệ các trẻ làm kinh là khoảng 0,6%, nghĩa là trong 1.000 trẻ em tiêm phòng ho gà, thì có khoảng 6 trẻ có thể lên cơn co giật (hầu hết đã có tiền sử có những cơn làm kinh trước đó). Đại đa số trường hợp nói trên đều qua khỏi; chúng tôi chưa gặp 1 trường hợp nào nguy hiểm đến tính mạng trong số các trẻ nói trên. Tuy nhiên, cũng nên cân nhắc kỹ lưỡng việc tiêm phòng ho gà cho những trẻ đã có tiền sử có những cơn làm kinh trước đây, và cũng có thể miễn cho các trẻ này. Nếu xét thấy không thật sự cần thiết. Ở một số quốc gia, tình trạng này được coi là 1 "chống chỉ định" cho việc tiêm phòng ho gà.

Đặc biệt, một số ít trường hợp bệnh não có thể xảy ra, cũng ở những trẻ tiêm phòng ho gà mà đã có tiền sử có những cơn làm kinh trước đó. Những trẻ này thường nhỏ tuổi (dưới 6 tháng), sau khi tiêm có thể bị hôn mê, co giật, nôn ói... và có thể để lại di chứng sau này. Tuy nhiên, số trẻ bị bệnh não này rất hiếm: theo 1 công trình nghiên cứu quốc tế, thì chỉ chiếm 1 phần triệu số trẻ tiêm phòng nói trên. Đối với những trẻ này, dĩ nhiên nên cho miễn việc chích ngừa ho gà.

5. Hội chứng "rên la kéo dài": Một số trẻ, thường ở lứa tuổi 3-6 tháng sau tiêm phòng khoảng 6-10 giờ, bổng phát ra những tiếng rên, có khi la hét to lên. Sự rên la này có thể xảy ra ở khoảng dưới 3% số trẻ tiêm phòng. Những tình trạng này có thể tự khỏi, nhưng nhiều khi thầy thuốc buộc phải dùng thuốc an thần để làm yên trẻ, và để gia đình an tâm. Tác giả đã có trường hợp phải dùng thuốc ngủ (Gerdenal) cho 1 trẻ la hét quá dữ. Tuy nhiên, tất cả các trường hợp nói trên - chỉ do ảnh hưởng của thuốc tới thần kinh của trẻ - đều qua khỏi không gây biến chứng gì.

6. Viêm hạch: Ở một số trẻ nhỏ, sau khi tiêm thuốc phòng lao (BCG) có thể thấy nổi hạch ở nách, bên phía mới tiêm phòng: trẻ đã có hiện tượng "viêm hạch nách do tiêm phòng lao". Viêm hạch này có thể xuất hiện sau khi tiêm phòng khoảng 3 đến 5 tuần, và có 2 loại: viêm hạch đơn thuần và viêm hạch hóa mủ.
Viêm hạch đơn thuần, là hạch nổi sưng to lên thường to bằng hạt đậu phộng (hột lạc), sờ vào hơi cứng, nhưng không có mủ ở trong, và thường sưng kéo dài khoảng 1 tháng rồi tự khỏi. Theo 1 thống kê quốc tế, thì tình trạng viêm hạch đơn thuần này có thể xảy ra ở khoảng 6-12% số trẻ tiêm phòng lao, và thường không gây khó chịu gì cho trẻ.

Loại viêm hạch hóa mủ gây phiền phức hơn: hạch sưng tấy lên, to dần, có khi bằng 1 quả chanh, ấn vào thấy lũng nhũng vì mủ ở trong. Hạch này có thể tự vỡ, mủ chảy ra, rồi sau khi được rửa sạch hàng ngày, sẽ khỏi dần. Tuy nhiên, cũng có 1 số trường hợp phải can thiệp bằng phẫu thuật: mổ ra, nạo mủ, rồi băng lại. Dĩ nhiên, cũng phải rửa sạch hàng ngày. Loại viêm hạch hóa mủ này có thể xảy ra ở khoảng 0,1-4,3% trẻ tiêm phòng lao, theo 1 thống kê quốc tế.

Thông thường, ở những trẻ có viêm hạch như kể trên, tình trạng toàn thân vẫn tốt, trẻ không sốt, và vẫn có thể tăng cân đều đặn như mọi trẻ bình thường khác.

Chứng viêm hạch nói trên - tuy được coi là một phản ứng đặc biệt của việc tiêm phòng lao - nhưng cũng đôi khi, rất hiếm, có thể xảy ra sau tiêm phòng thuốc khác, như sau khi tiêm phòng bệnh sởi hoặc bệnh rubêôn.
Nói chung, các hiện tượng viêm hạch kể trên đều không gây nguy hiểm gì cho trẻ và đều qua khỏi sau 1 thời gian. Điều đáng ghi nhớ, là các hiện tượng đó không hề làm giảm tác dụng phòng bệnh của việc tiêm phòng.
 

II. Những chống chỉ định của tiêm phòng: 

Mặc dù việc tiêm phòng đôi khi có thể gây ra những "phản ứng không mong muốn" như đã nói trên, nhưng vẫn cần được khuyến khích, vì ích lợi to lớn của nó: phòng ngừa các bệnh nhiễm khuẩn có thể gây nguy hiểm tới tính mạng của trẻ.

Tuy nhiên, cũng có một trường hợp không nên tiêm phòng: đó là những trẻ đang ở trong tình trạng mà việc tiêm phòng có thể gây ra những phản ứng nguy hiểm. Những trường hợp này được coi là "chống chỉ định" của việc tiêm phòng.

Những trường hợp "chống chỉ định" đó gồm có:

1. Chống chỉ định tạm thời:

  • Trẻ đang sốt.
  • Trẻ đang mắc 1 bệnh nhiễm khuẩn cấp tính (viêm phổi, thương hàn, sởi v.v...).
  • Trẻ mới khỏi các bệnh nói trên, còn đang trong thời kỳ hồi sức.
  • Đang bị viêm da mủ (bệnh ngoài da, có mủ), hoặc bệnh chàm ngoài da (eczéma).

2. Chống chỉ định lâu dài

  • Trẻ đang mắc một bệnh mãn tính đang tiến triển như lao phổi tiến triển, tràn dịch (có nước) màng phổi..., nhất là đang có bệnh ở thận (như viêm thận mạn tính v.v...).

3. Một số chống chỉ định đặc biệt

  • Đối với tiêm phòng lao: nên tránh cho các trẻ sinh non còn quá yếu, quá thiếu cân; các trẻ đang bị bệnh cấp tính; các trẻ đang bị bệnh ngoài da lan rộng, đang tiến triển.
  • Đối với tiêm phòng sởi: nên tránh cho các trẻ đang bị bệnh bạch cầu (1 dạng ung thư máu), các trẻ đang bị suy dinh dưỡng rất trầm trọng, các trẻ đang phải chữa bệnh bằng các loại thuốc corticoid (như "đề xa": dexamethasone, v.v...).
  • Đối với tiêm phòng thương hàn: nên tránh cho các trẻ đang bị bệnh ở thận, đang bị tiểu đường, hoặc đang trong 1 tình trạng có hiện tượng dị ứng trầm trọng (như đang trong thời kỳ có cơn suyễn phế quản, v.v...).

Tại sao lại có những trường hợp "chống chỉ định" như trên? Là vì - nói đơn giản - sau nhiều năm nghiên cứu, đã thấy việc tiêm phòng, trong các trường hợp đó có thể gây ra những tai biến đáng tiếc.

Để kết luận, có thể ghi nhớ như sau: việc tiêm phòng cho trẻ luôn luôn là cần thiết, vì những lợi ích to lớn trong việc bảo vệ sức khỏe của trẻ, những phản ứng tạm thời của 1 số trường hợp không gây nguy hại cho trẻ, và cũng không làm giảm tác dụng phòng bệnh của việc tiêm phòng. Chỉ duy có 1 số trường hợp cần tránh tiêm phòng - trong 1 thời gian - thì cần ghi nhớ. Do đó, trước khi cho trẻ tiêm phòng, bà mẹ nên báo cho nhân viên tiêm phòng biết về tình trạng sức khỏe trước đây và hiện nay của trẻ, để nhân viên y tế cân nhắc trước khi tiêm phòng và có thể hoãn lại ngày tiêm nếu cần thiết. Có thể tốt hơn nữa, nên hỏi ý kiến của thầy thuốc trước khi đưa trẻ đến nơi tiêm phòng.

BS. BÙI XUÂN VĨNH
(Sức khoẻ & Đời sống)


Lưu ý khi tiêm phòng cho trẻ

Trẻ cần được tiêm phòng các bệnh nguy hiểm.

Hiệu quả phòng bệnh sau tiêm phòng tùy thuộc 3 yếu tố: hiệu lực của vacxin (thường là 80-95%); việc bảo quản, phân phối, sử dụng vacxin và cơ địa của trẻ. Hai yếu tố đầu có thể thay đổi, còn cơ địa thì không. Do đó, một số trẻ đã tiêm phòng nhưng vẫn mắc bệnh.

Việt Nam thuộc vùng nhiệt đới nên có nhiều loại bệnh truyền nhiễm. Vì vậy, trẻ luôn có nguy cơ lây bệnh. Trẻ càng nhỏ càng dễ mắc bệnh truyền nhiễm do vi trùng, virus hoặc vi sinh vật gây ra. Để phòng bệnh, ngoài vấn đề vệ sinh cá nhân, trẻ phải được tiêm phòng để tạo miễn dịch trước nhiều loại bệnh nguy hiểm.

Bác sĩ Nguyễn Đắc Thọ, Phó giám đốc Trung tâm Y tế dự phòng TP HCM, cho biết tại VN đã có nhiều loại vacxin để tiêm phòng và trên 20 loại bệnh truyền nhiễm có thể phòng ngừa được bằng vacxin. Chương trình tiêm chủng quốc gia đã tiêm miễn phí vacxin phòng các bệnh bạch hầu, ho gà, uốn ván, bại liệt, sởi, lao và viêm gan B cho tất cả trẻ em dưới 1 tuổi. Chương trình còn tiêm phòng miễn phí các bệnh viêm não Nhật Bản B, thương hàn, tả... ở một số địa phương. Một số vacxin phòng các bệnh khác cũng rất cần thiết đối với trẻ em như viêm não, viêm màng não mủ do vi trùng, viêm màng não nước trong do virus, viêm màng não mô cầu type A+C, viêm gan A, B, thủy đậu, trái rạ, cúm A, quai bị, rubella, dại...

Đa số bệnh truyền nhiễm xảy ra ở trẻ dưới 5 tuổi nên cần tiêm phòng sớm. Mỗi bệnh có thời gian tiêm khác nhau. Các bậc cha mẹ nên đến cơ sở y tế để hỏi hoặc xem kỹ các chi tiết về việc tiêm vacxin. Hiện còn một số bệnh truyền nhiễm nguy hiểm chưa có vacxin phòng bệnh như viêm gan C, sốt xuất huyết, viêm não do enterovirus, lỵ trực trùng, lỵ amip, HIV. Do đó, các bậc cha mẹ phải đặc biệt chú ý phòng bệnh cho trẻ bằng cách không để trẻ tiếp xúc với các đường lây truyền bệnh.

Bác sĩ Thọ cũng cho biết, đối với các vacxin dạng tiêm, việc tiêm chậm một thời gian không ảnh hưởng đến hiệu quả phòng bệnh. Nhưng nếu tiêm sớm và đầy đủ, đúng liều theo lịch thì sẽ phòng bệnh được sớm hơn. Nếu lỡ để muộn ngày cũng phải tiêm đủ liều để phòng bệnh cho trẻ. Ngoài các vacxin nằm trong chương trình tiêm chủng mở rộng, cha mẹ nếu muốn tiêm dịch vụ cho con thì nên đến trạm y tế để được tư vấn.

Sau khi tiêm phòng, một số trẻ có thể gặp phản ứng, biểu hiện qua những triệu chứng nhẹ như sưng, đỏ, nóng, đau tại nơi tiêm; sau tiêm sốt 1-2 ngày. Có trường hợp sốc phản vệ (rất hiếm gặp, có nhiều mức độ và có thể tử vong nếu không được cấp cứu kịp thời). Để hạn chế nguy cơ này, việc tổ chức tiêm chủng phải đạt các yêu cầu về an toàn: khám phân loại sức khỏe, khai thác tiền sử bệnh của trẻ, có thuốc cấp cứu tại chỗ...


Tiêm phòng và theo dõi cho trẻ sau tiêm chủng


Vì lợi ích và sự an toàn của trẻ, các bậc phụ huynh cần đem trẻ đi tiêm phòng theo đúng lịch hẹn. Việc tiêm phòng phải được thực hiện đúng chỉ định và tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc qui định.
Lợi ích của việc tiêm chủng:
  • Tăng cường miễn dịch cho trẻ chống lại các vi trùng, vi rút gây bệnh.
  • Ngoài việc nuôi dưỡng trẻ, Các bậc phụ huynh còn có một vấn đề thiết yếu cần phải  quan tâm là phải tiêm phòng cho trẻ đầy đủ nhằm bảo vệ cho trẻ được phát triển toàn diện trong những năm đầu đời.
Lịch tiêm chủng trẻ theo chương trình tiêm chủng quốc gia.

Tuổi    Các bệnh cần được tiêm
2-3 ngày sau sinh    BCG (Lao), VGSVB1 (Viêm gan B)
2 tháng    DTC1 (bạch hầu, uốn ván, ho gà), SABIN1 (bại liệt), VGSVB2  
3 tháng    DTC2 + SABIN 2
4 tháng    DTC3 + SABIN 3 + VGSVB 3
9 tháng     Sởi
12 tháng    VGSVB 4
16-18 tháng    DTC4 + SABIN 4

Lịch tiêm chủng theo chương trình tiêm chủng mở rộng:

Hiện nay, ngoài chương trình Tiêm chủng mở rộng, còn có thể chủng ngừa thêm nhiều loại bệnh khác hoặc có thể kết hợp cùng một mũi tiêm mà có thể chủng ngừa đồng thời nhiều bệnh rất tiện lợi ở địa bàn Thành Phố, một số quận huyện nội thành, các tỉnh có tiêm chủng thêm một số loại sau:
1.    Viêm màng não mủ do Heamophilus Influenza B (Hib) có thể chủng từ 2 tháng tuổi trở lên.Tùy theo tháng tuổi mà lịch tiêm nhắc lại khác nhau. Có thể  kết hợp chủng Infanix hexa (6 loại: DTC, Polio, VGSVB, Hib), Pentaxim (5 loại: DTC, Polio, Hib), Tetract Hib (4 loại: DTC, Hib)….vv
2.    Sởi – quai bị – Rubeol (Rubella) tiêm từ 15 tháng tuổi.
3.    Thuỷ đậu (trái rạ) tiêm một mũi duy nhất từ 12 tháng tuổi.
4.    Viêm não Nhật Bản B được chủng khi trẻ > 12 tháng tuổi tiêm 3 mũi (mũi 1 và mũi 2 cách nhau 1 – 2 tuần, mũi 3 cách mũi 1 sau 1 năm) nhắc lại mỗi 3 năm.
5.    Cúm: Có thể tiêm từ 6 tháng tuổi trở lên.
6.    Viêm màng não do Meningoccoci A + C (não mô Cầu A + C).
7.    Ngừa tiêu chảy do rota vi-rút: đối với trẻ từ 2 đến 6 tháng tuổi (uống).
8.    Ngừa viêm gan siêu vi A: tiêm từ 1 tuổi trở lên.
9.    Ngừa thương hàn: đối với trẻ từ 5 tuổi trở lên…vv
Nói chung, tuỳ theo kinh tế mỗi gia đình, tuỳ theo sự quan tâm của các bà mẹ, trẻ có thể được tiêm chủng theo yêu cầu, nó sẽ mang đến mọi lợi ích cho treû.
Các phản ứng sau tiêm chủng cần biết
-    Đau tại chỗ tiêm .
-    Quấy khóc >3 giờ thường do đau.
-    sốt nhẹ hoặc cao trong vòng 24-48 giờ .
-    nổi nốt cứng hay nốt dưới da co thể sảy ra và có thể tồn tại trong một hay vài tuần.
-    Một số ít có biểu hiện nổi mẩn, ngứa, mề đay hoặc hồng ban .
-    có thể rối loạn tiêu hoá, chán ăn, mất ngủ dễ kích động , trẻ bứt rứt khó chịu thoáng qua
Các dấu hiệu nặng sau tiêm chủng cần đưa trẻ đến cơ sở y tế gần nhất:
-Sốt cao ≥39 'C.
-Co giật.
-Tay chân lạnh,tím tái.
-Thở khó,co lõm ngực .
-Bứt rứt,quấy khóc nhiều không đáp ứng thuốc giảm đau hạ sốt thông thường.
-Lừ đừ,bỏ bú.
-Sưng to,đỏ quanh chổ tiêm.
Khi nào không chủng ngừa cho trẻ:
-Trẻ đang có bệnh cấp tính, viêm phổi, tiêu chảy…(thường thỡ biểu hiện sốt cao, mệt mỏi , ho , khũ khố , hoặc  tiờu chảy nhiều lần )
-Trẻ đang được điều trị các loại thuốc ức chế miễn dịch hoặc Corticoide liều cao và kộo dài quỏ một tuần.
-Trẻ có phản ứng trầm trọng với thuốc chủng ngừa ở những lần chủng trước (tạm ngưng vài tháng , và khi tiêm chủng nên tiêm từng loại vaccin một, không nên kết hợp nhiều vaccin cùng một lúc)
-Trẻ bị HIV(+) c triệu chứng suy giảm miễn dịch.
-Trẻ đang có bệnh ung thư, suy giảm miễn dịch bẩm sinh hay mắc phải.

Làm gì khi con bạn bị sốt sau tiêm chủng?
Nhiệt độ bình thường của trẻ từ 36,5' C đến 37,4' C.
Sốt khi nhiệt độ đohậu môn trẻ từ 38oC trở lên.
Sốt thường là triệu chứng của bệnh nhiễm siêu vi,vi khuẩn,đôi khi không phải do nhiễm trùng như bệnh hệ thống ,bệnh lý ác tính, sốt do thuốc, sau chích ngừa, sốt do môi trường…
*nên làm:
-cho trẻ uống nhiều nước.
-trẻ tiếp tục được ăn ,uống bình thường.
-Nằm phòng thóang.
-Uống thuốc hạ sốt khi nhiệt độ 38 'C  trở lên.
-Lau mát tích cực với nước ấm.
Phương pháp lau mát: dùng 5 khăn:
-1 đắp trán.
-2 đắp nách.
-2 đắp bẹn .
Lau với nước ấm,nhiệt độ nước ấm thấp hơn nhiệt độ trẻ 2 độ.
Theo dõi nhiệt độ mỗi 15-30 phút, chấm dứt lau mát khi nhiệt độ <38,5 'C.

 (ST)

Hỏi đáp, bình luận, trả bài:
con toi sinh nam 2oo6 da tiem ngua vgsvb 3 mui lien tuc nhung mui thu tu lai khong chic vay bay gio muon chic ngua cho chau thi tiep tuc chic mui thu 5 hay la chic lai tu dau
hơn 1 tháng trước - Thích - Trả lời
khi được 1 tuổi con tôi bị viêm màng não mủ do Hip.Bây giờ chau dược 5 tuổi tôi muốn tiêm phòng cho cháu vì đang có đợt tiêm phòng có được không?
hơn 1 tháng trước - Thích (3) - Trả lời
lịch tiêm phòng cho trẻ em
hơn 1 tháng trước - Thích (20) - Trả lời
be nha em hien tai dc 1 thang 4ngay nhung chua chich ngua mua nao het . theo nhu em biet thi sau khi sinh chich mvimui 1. 1 thang tuoi mui 2. neu vay con em mat 2 mui gio em phai lam sao. mog chuong trinh giai dap giup em em chan thanh cam on. f
hơn 1 tháng trước - Thích (20) - Trả lời
Con toi duoc 3thang.toi am con len nhi dong 2 trich ngua mui 6 trong 1 an toan khong
hơn 1 tháng trước - Thích (5) - Trả lời
*địa chỉ email của bạn được bảo mật

Hot nhất
Top xink
Bộ sưu tập
Chợ xink
Thanh lý