Các
chuyên gia đã xác định một số yếu tố làm gia tăng nguy cơ bệnh xơ vữa động mạch,
phân làm hai loại: loại điều chỉnh được và loại không điều chỉnh được.
Nguyên nhân gây nên xơ vữa động mạch
Tai biến phát triển bệnh xơ vữa động mạch qua nghiên cứu thấy có liên
quan với tỷ lệ cholesterol trong máu của cơ thể mà chất này thực tế phụ
thuộc vào chế độ ăn uống nuôi dưỡng và cả một số yếu tố về “gen”
(genetic factor).
Vì tỷ lệ chất cholesterol liên quan tới chế độ ăn uống nên bệnh xơ vữa
động mạch thường gặp ở người dân các nước Tây Âu vì ở đây người ta có
chế độ ăn uống, có tỷ lệ chất béo cao hơn. Một vài bệnh khác như bệnh
tiểu đường cũng liên quan chặt chẽ với tỷ lệ chất cholesterol cao trong
chế độ ăn. Một vài bệnh có tính chất di truyền cũng có tỷ lệ chất mỡ cao
trong máu (bệnh chất mỡ cao di truyền).
Ngoài yếu tố tỷ lệ chất cholesterol trong máu còn có một số yếu tố khác
gây bệnh như: hút thuốc lá, không vận động thể dục đều đặn, tăng huyết
áp và tình trạng thừa cân béo phì.
Các chất mỡ trong máu tích tụ dần ở lớp trong của thành động mạch và do
chất mỡ làm cho thành động mạch dày hơn, kết quả là các động mạch bị hẹp
dần lại và lưu thông máu bị cản trở.
Những người lớn tuổi (nam trên 45 tuổi, nữ đã mãn kinh, người hay nhậu
nhẹt nhiều cũng có nguy cơ bị xơ vữa động mạch. Bị stress có thể làm tăng
nhịp tim và tăng huyết áp.
Chuẩn đoán bệnh xơ vữa động mạch:Ở giai đoạn sớm thì bệnh chưa có triệu chứng rõ nhưng lại cần phải chẩn
đoán sớm để chữa trị có hiệu quả. Do đó người ta phải xét nghiệm máu để
phát hiện tỷ lệ cholesterol trong máu cao, cũng cần phát hiện bệnh tăng
huyết áp và bệnh tiểu đường. Vì đây đều là những yếu tố gây bệnh. Do đó ở
các nước Âu, Mỹ, để chủ động phát hiện sớm bệnh này người ta cho xét
nghiệm máu, đo tỷ lệ cholesterol máu ít nhất 5 năm một lần sau tuổi 20
(theo tài liệu của Mỹ)..
Nếu bệnh đã phát triển thì người ta thường cho làm những thử nghiệm về
máu để có thể vừa phát hiện được cả tổn thương của động mạch và cả tổn
thương của các nội tạng được cung cấp máu. Như vậy cả nguyên nhân và hậu
quả đều được kiểm tra.
Ở bệnh viện có điều kiện, người ta làm những kỹ thuật hình ảnh cao như:
- Siêu âm Doppler (Doppler ultrasound scanning).
- Làm điện tâm đồ (ECG).
- Chụp động mạch vành.
Các kỹ thuật này giúp chẩn đoán và đánh giá chức năng động mạch tim, tình trạng dòng máu tuần hoàn.
Triệu chứng bệnh xơ vữa động mạchỞ giai đoạn sớm của bệnh thường không thấy có triệu chứng rõ. Dần dần về
sau, các triệu chứng được phát sinh rõ hơn do dòng máu cung cấp cho các
tạng trong cơ thể bị giảm dần do động mạch bị hẹp dần gây tắc dần dòng
máu.
Nếu động mạch vành cung cấp máu cho cơtim bị tắc dần thì sẽ xuất hiện
những triệu chứng nhưđau tức ngực. Nếu động mạch vành bị tắc nghẽn hoàn
toàn thì sẽ xảy ra cơn đau tim đột ngột gây tử vong
Nhiều cơn đột quỵ ở người già thường do động mạch cung cấp máu cho não bị xơcứng và bị hẹp.
Trường hợp động mạch ở cẳng chân bị xơvữa thường có triệu chứng đầu tiên
là cơn đau cơkiểu “chuột rút” do máu không được cung cấp đầy đủ ở cẳng
chân.
Nếu bệnh xơ vữa động mạch kết hợp với bệnh rối loạn chất mỡ bẩm sinh di
truyền thì chất mỡ có thể tích tụ ứ đọng lên các gân cơ tạo nên những
cục dưới da nhìn thấy rất rõ.
Một trường hợp xơ vữa động mạch điển hình xảy ra vào cuối thời kỳ thơ
ấu,thường có ở hầu hết các động mạch chính, nhưng không có triệu chứng
và hầu hết các phương pháp chẩn đoán không được phát hiện được.
Nó thường trở nên có triệu chứng nguy hiểm khi can thiệp vào tuần hoàn
vành, cung cấp máu đến tim, và tuần hoàn não, đưa máu đến não.
Xơ vữa động mạch là nguyên nhân nền tảng quan trọng của đột quỵ, cơn đau
tim, các loại bệnh tim gồm suy tim ứ huyết và hầu hết các bệnh tim mạch
nói chung. Mảng xơ vữa ở các động mạch cánh tay hoặc, thường gặp hơn,
các động mạch chân có thể gây bệnh thuyên tắc động mạch ngoại biên.
Theo số liệu tại Hoa Kỳ năm 2004, khoảng 65% nam và 47% nữ có biểu hiện
đầu tiên của bệnh tim mạch do xơ vữa động mạch là cơn đau tim hoặc ngưng
tim đột ngột (tử vong trong vòng 1 giờ sau khi triệu chứng khởi phát).
Tổng hợp các nguyên nhân gây xơ vữa động mạch vành
|
|
Phái nam:
Nam thường có nhiều yếu tố nguy cơ hơn nữ trong các bệnh lý tim mạch.
Tuy nhiên, nguy cơ bị bệnh tim của phái nữ cũng tăng lên nhiều sau mãn
kinh. Di truyền:
Nếu anh chị em ruột, cha mẹ ruột hay ông bà nội ngoại của bạn bị bệnh
tim, bạn cũng có nguy cơ cao bị bệnh này. Nồng độ cholesterol máu, tăng
huyết áp cũng là những bệnh lý có liên quan đến yếu tố gia đình. Hơn
nữa, gia đình cũng là nơi tạo ra môi trường và thói quen sinh hoạt có
ảnh hưởng bất lợi như ăn quá nhiều mỡ, hút thuốc lá... Tuổi tác:
Khoảng 4 trong 5 người tử vong vì BMV ở lứa tuổi từ 65 trở lên. Bệnh
tim mạch thường diễn tiến qua hàng chục năm, đồng thời thành các động
mạch ngày càng dày và cứng hơn theo tuổi tác. Tăng huyết áp:
Tăng huyết áp làm “xói mòn và khoét rộng” những chỗ tổn thương trên lớp
lót mặt trong thành động mạch, gây lắng đọng nhiều mảng xơ vữa. Hơn
nữa, tăng huyết áp làm tim phải tăng cường hoạt động để thắng lại áp lực
máu cao, sẽ rất nguy hiểm cho tim nếu ĐMV bị hẹp do xơ vữa hoặc tim
không đảm đương nổi chức năng bơm do bị NMCT trước đây. Cholesterol máu cao:
Nguy cơ BMV của bạn sẽ tăng lên nếu nồng độ loại cholesterol “xấu”
trong máu bạn cao. Kiểm soát được loại cholesterol này, bạn sẽ giảm được
nguy cơ NMCT. Thuốc lá: Khói thuốc lá gây tổn thương mạch máu, khi kết hợp với các yếu tố nguy cơ khác làm gia tăng đáng kể khả năng bị BMV. Ít hoạt động thể lực:
Tập thể dục thường xuyên giúp ngăn ngừa hiệu quả các bệnh lý tim mạch.
Tập thể dục còn giúp kiểm soát các yếu tố nguy cơ khác như cholesterol
máu cao, béo phì và stress. Béo phì:
Tăng cân quá mức làm tim phải tăng cường hoạt động, tăng huyết áp, tăng
nồng độ cholesterol máu và tăng nguy cơ bị bệnh đái tháo đường. Đái tháo đường:
Nồng độ đường (glucose) trong máu tăng không kiểm soát được - tiêu
chuẩn xác định bệnh đái tháo đường - làm tăng nguy cơ bệnh tim, thận và
đột qụy lên rất cao do làm tổn thương mạch máu. Stress: Một số chuyên gia đã cảnh báo về mối liên quan giữa BMV và các stress không kiểm soát trong cuộc sống của bạn. Các mảng xơ vữa động mạch hình thành như thế nào? |
Vữa xơ động mạch (VXĐM) là nguyên nhân chính gây ra đau thắt ngực và
nhồi máu cơ tim. VXĐM do tổn thương các tế bào nội mạc, làm cho các tế
bào đó mất chức năng bảo vệ thành mạch... |
Vữa xơ động mạch (VXĐM) là nguyên nhân chính gây ra đau thắt ngực và
nhồi máu cơ tim. VXĐM do tổn thương các tế bào nội mạc, làm cho các tế
bào đó mất chức năng bảo vệ thành mạch. Tổn thương có thể do ảnh hưởng
của dòng máu có áp lực cao liên tục tác động đến như trong bệnh tăng
huyết áp, do ảnh hưởng của thuốc lá, một số thuốc và hóa chất, thức ăn,
rối loạn lipid máu, nhiễm khuẩn và virut, các yếu tố miễn dịch...
Khi bị tổn thương, các tế bào nội mạc tại chỗ mất khả năng tiết ra
prostacyclin. Tiểu cầu lập tức tách ra khỏi dòng máu để tập trung vào
chỗ đó và kết dính lại, phóng thích ra nhiều chất trong đó có yếu tố
tăng trưởng, yếu tố này kích thích sự di chuyển các tế bào cơ trơn ở lớp
trung mạc ra lớp nội mạc và phát triển mạnh tại đó. Các bạch cầu đơn
nhân từ dòng máu cũng đến ngay chỗ tổn thương và được chuyển dạng thành
đại thực bào. Các đại thực bào này “ăn” các LDL-C và trở thành các “tế
bào bọt” tích đầy mỡ. Đến khi quá tải, các tế bào này bị vỡ và đổ
cholesterol ra ngoài làm cho lớp dưới nội mạc dày lên tạo nên các vạch
lipid hay các mảng xơ vữa đặc trưng của bệnh.
Bên cạnh việc góp phần tạo ra các mảng xơ vữa gây hẹp động mạch vành,
tăng cholesterol máu có thể làm tổn thương lớp nội mạc. Chính vì thế, lý
giải vì sao tăng cholesterol máu lại đóng vai trò quan trọng đến như
vậy trong quá trình hình thành mảng xơ vữa gây tắc hẹp động mạch vành.
Ai có nguy cơ bị xơ vữa động mạch? Nguyên nhân chính xác của bệnh thì không rõ, nhưng có một số tình
trạng bệnh hoặc thói quen xấu có thể làm tăng nguy cơ bị xơ vữa động
mạch. Những yếu tố này được gọi là yếu tố nguy cơ. Nếu bạn càng có nhiều
yếu tố nguy cơ, bạn càng có khả năng bị xơ vữa động mạch. Phần lớn các
yếu tố nguy cơ này có thể điều trị được, giúp ngăn nghừa hoặc làm chậm
tiến triển của bệnh. Một số yếu tố nguy cơ không thể điều chỉnh được như
tuổi, giới, tiền căn gia đình bị bệnh tim.
Các yếu tố nguy cơ chính là:
- Tăng các loại mỡ máu: bao gồm tăng LDL – cholesterol (còn gọi là mỡ xấu), và thấp HDL – cholesterol (còn gọi là mỡ tốt).
- Tăng huyết áp: huyết áp được xem là cao khi lớn hơn hay bằng 140/90
mmHg. Nếu bạn có đái tháo đường hoặc bệnh thận mãn thì huyết áp lớn hơn
hay bằng 130/80 mmHg là cao.
- Hút thuốc lá: Hút thuốc lá có thể làm tổn thương mạch máu, tăng
cholesterol và tăng huyết áp. Hút thuốc cũng làm giảm lượng máu đến các
cơ quan trong cơ thể do gây co mạch.
- Đái tháo đường: do cơ thể thiếu insulin hoặc sử dụng insulin không đúng dẫn đến đường máu tăng cao.
- Quá cân hoặc béo phì: khi cân nặng cơ thể vượt quá cân nặng lý tưởng. Béo phì, quá cân có nguy cơ cao xơ vữa động mạch - Ít hoạt động thể lực: có thể làm nặng hơn các yếu tố nguy cơ của bệnh xơ vữa.
- Chế độ ăn không tốt: ăn nhiều những thực phẩm có hàm lượng cao chất
béo bão hòa và trans-fat (là những thực phẩm có sử dụng chất dầu mỡ
chiên đi chiên lài nhiều lần), nhiều cholesterol, muối, và đường có thể
làm nặng hơn các yếu tố nguy cơ.
- Lớn tuổi: bạn càng lớn tuổi càng có nguy cơ cao bị xơ vữa động mạch.
Yếu tố gen và lối sống có thể gây mảng xơ vữa trong động mạch từ lúc
trẻ. Theo thời gian, đến tuổi trung niên hoặc lớn tuổi, mảng xơ vữa có
thể đủ lớn để có dấu hiệu và triệu chứng. Các yếu tố nguy cơ này sẽ tăng
khi nam trên 45 tuổi và nữ trên 55 tuổi.
- Tiền căn gia đình bị bệnh tim sớm: bạn sẽ tăng nguy cơ bị xơ vữa nếu
cha hoặc anh của bạn được chẩn đoán mắc bệnh tim trước tuổi 55 hoặc mẹ,
chị em gái có bệnh tim trước tuổi 65. (St)
|
|
|
|