Viêm tai giữa (VTG) ở trẻ nhỏ được xếp vào nhóm bệnh viêm đường hô hấp trên. Đây là một trong những bệnh rất thường gặp ở bên trong tai trẻ em, đặc biệt là trẻ dưới 3 tuổi với nhiều hậu quả xấu.
Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, bệnh có thể dẫn đến biến chứng nguy hiểm hoặc để lại di chứng nặng nề, rất khó khắc phục, ảnh hưởng đến sức nghe của trẻ. Việc phát hiện sớm, điều trị kịp thời, đúng đắn, đóng vai trò quyết định trong tiên lượng bệnh, phòng ngừa biến chứng và các hậu quả lâu dài đối với trẻ.
Tai giữa:
Tai được chia làm 3 phần: tai ngoài, tai giữa và tai trong
1. Tai ngoài: Gồm vành tai và ống tai ngoài.
2. Tai giữa: Gồm màng tai và một hốc xương gọi là hòm tai. Màng tai (còn gọi là màng nhĩ - tympanic membrane) là một màng mỏng hình bầu dục, lõm ở giữa, nằm hơi nghiêng ra sau, ngăn cách hoàn toàn ống tai ngoài và tai giữa, bịt lên hòm tai như màng trống bịt vào tang trống. Màng tai tuy có lớp xơ ở giữa tương đối chắc, nhưng lại rất dễ bị phá hủy gây thủng khi có viêm nhiễm hoặc ứ đọng dịch trong tai giữa. Màng tai cũng dễ bị rách thủng khi có các chấn thương cơ học (chọc, ngoáy vào tai), chấn thương áp lực (lặn sâu, bị tát vào tai, sức ép do bom đạn...) hoặc chấn thương âm.
Trong hòm tai có các xương con nối khớp với nhau rất tinh tế (xương búa (malleus), xương đe (incus), xương bàn đạp (stapedius)). Màng nhĩ và các xương con hợp thành hệ thống màng nhĩ - xương con có tác dụng khuyếch đại và dẫn truyền những rung động của sóng âm từ môi trường (ống tai ngoài) vào tai trong.
3. Tai trong: Chính là đầu mối thần kinh tiếp nhận các tín hiệu âm thanh truyền qua dây thần kinh thính giác (dây số VIII) lên não, và nhờ đó mà người ta nghe được. Tai trong nằm trong một hốc xương có hình xoắn 2 vòng rưỡi nên gọi là ốc tai.
Tai giữa đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cơ chế sinh lý nghe, nhất là hệ thống màng nhĩ - xương con. Bất kỳ một trục trặc nào trong hệ thống này (thủng màng nhĩ, cứng khớp giữa các xương con, tiêu hỏng 1 trong các xương con, ứ đọng dịch trong hòm tai...) đều gây nên gián đoạn sự dẫn truyền sóng âm vào tai trong và dẫn đến nghe kém hoặc điếc.
I. NGUYÊN NHÂN GÂY VIÊM TAI GIỮA:
Viêm tai giữa là bệnh thường gặp ở bé, do cấu trúc tai các bé chưa hoàn
chỉnh.
Tai trong được kết nối với mặt sau của cổ họng bằng một ống nhỏ, gọi là ống
thính giác (ống eustachian). Trong trường hợp bình thường, ống này vẫn mở, cho
phép chất lỏng, cùng tạp chất dư thừa thoát khỏi tai và mặt sau của cổ họng.
Khi ống này bị đóng lại, chất thải không thoát được, vi khuẩn hoặc vi trùng sẽ
kẹt bên trong tai, gây nhiễm trùng. Các bé có ống thính giác ngắn hơn người lớn
nên dễ dàng bị tắc. Nói cách khác, cấu trúc trong tai chưa đủ hoàn thiện, khiến
bé có nguy cơ phát triển các bệnh nhiễm trùng tai.
Ngoài lý do khó tránh kể trên, một số yếu tố dưới đây cũng đặt bé vào tình
trạng dễ mắc bệnh:
- Viêm tai giữa thường bắt nguồn từ cảm lạnh. Những bé phải tiếp xúc với các bé
khác (như ở nhà trẻ) có nguy cơ cao mắc cảm lạnh và viêm tai giữa.
- Viêm tai giữa là một trong những hậu quả khi bé phải sống trong môi trường
khói thuốc lá.
- Nhóm bé bú bình có khả năng bị viêm tai hơn bé bú mẹ. Điều này là do khi bé
nằm và mút sữa bình thì sữa từ trong tai có thể tràn vào ống thính giác, gây
viêm. Bạn có thể ngăn cản điều này bằng cách giữ cho bé thẳng người khi bé bú
bình.
Viêm tai do bơi lội: Đôi khi, bé bơi lội thường xuyên làm phát triển tình trạng
viêm tai ngoài, không phải viêm tai giữa. Một số lưu ý để tránh viêm tai ngoài
do bơi lội cho bé:
- Sử dụng nút chặn tai (tháo ra – lắp vào) khi bé đi bơi.
- Làm khô tai cho bé sau bơi bằng cách dùng một máy sấy tóc ở nhiệt độ thấp.
- Không dùng các cách nguy hiểm làm sạch hoặc làm khô tai của bé vì chúng sẽ
đẩy vi trùng vào sâu bên tai.
- Cho bé tắm bồn thay vì tắm vòi hoa sen vì tắm vòi hoa sen khiến nước dễ chui
vào tai hơn.
- Cẩn thận khi loại bỏ ráy tai cho con.
Viêm tai giữa ở trẻ em thường là viêm cấp do nhiễm trùng hoặc ứ đọng dịch trong hòm tai mà thành. Do đặc điểm giải phẫu và sinh lý của trẻ em có nhiều điểm khác biệt với người lớn, nên trẻ em thường hay bị VTG cấp hơn:
- Trẻ em hay bị viêm mũi họng, vi khuẩn sẽ từ các ổ viêm này lan lên tai gây nên VTG.
- Ở trẻ em, vòi nhĩ (vòi Ơ-xtat (eustachian tube), nối hòm tai và họng mũi) ngắn hơn, khẩu kính lớn hơn ở người lớn nên vi trùng và các chất xuất tiết ở mũi họng rất dễ lan lên tai giữa, nhất là khi em bé nằm ngửa thì tai sẽ ở vị trí thấp hơn mũi họng, nếu em bé khóc, vòi nhĩ sẽ mở rộng thêm làm cho các chất xuất tiết ở mũi họng theo đó chảy vào hòm tai.
- Hệ thống niêm mạc đường hô hấp (niêm mạc mũi họng, niêm mạc hòm tai, niêm mạc khí phế quản...) ở trẻ em rất nhạy cảm, rất dễ phản ứng với những kích thích hóa, lý và cơ học bằng hiện tượng xuất tiết dịch, làm cho dịch ứ đọng nhiều trong hòm tai gây VTG.
II. MỨC ĐỘ NGUY HIỂM CỦA BỆNH:
VTG cấp ở trẻ nhỏ có thể gây thủng màng nhĩ, làm tiêu xương, gián đoạn chuỗi xương con... ảnh hưởng đến sức nghe của trẻ. Trẻ bị nghe kém, nhất là từ khi chưa phát triển lời nói, sẽ dẫn đến rối loạn ngôn ngữ (nói ngọng, nói không rõ âm, từ...) làm giảm sút nghiêm trọng chất lượng giao tiếp xã hội sau này của trẻ
Nặng hơn nữa là những biến chứng nhiễm trùng, nhiều khi ảnh hưởng đến tính mạng: VTG cấp có thể dẫn đến những biến chứng sọ não cực kỳ nguy hiểm như viêm màng não, áp xe não do tai, viêm tắc tĩnh mạch bên, do viêm nhiễm lan từ trần hòm tai lên não hoặc gây liệt dây thần kinh mặt (dây số VII).
III. PHÁT HIỆN VÀ ĐIỀU TRỊ BỆNH VIÊM TAI GIỮA:
Cách phát hiện
VTG ở trẻ nhỏ thường biểu hiện bằng các triệu chứng sau:
- Trẻ sốt, thường là sốt cao 39-40oC, quấy khóc nhiều, bỏ bú, kém ăn, nôn trớ, co giật...
- Nếu là trẻ lớn, sẽ kêu đau tai, còn trẻ nhỏ chỉ biết lắc đầu, lấy tay dụi vào tai.
- Rối loạn tiêu hóa: trẻ đi ngoài lỏng, nhiều lần, xuất hiện gần như đồng thời với triệu chứng sốt.
Tóm lại tất cả các em bé bị sốt không rõ nguyên nhân, những trẻ nhỏ bị tiêu chảy và nôn... đều phải được khám kỹ càng về tai mũi họng để có thể phát hiện sớm được bệnh VTG cấp.
Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, vài ngày sau (2-3 ngày) bệnh sẽ tiến triển sang giai đoạn vỡ mủ do màng tai bị thủng, mủ tự chảy ra ngoài qua lỗ tai với các biểu hiện sau:
- Trẻ đỡ sốt, bớt quấy khóc, ăn được, ngủ được.
- Hết rối loạn tiêu hóa, đi ngoài trở lại bình thường.
- Không kêu đau tai nữa.
Các bà mẹ tưởng chừng như bệnh đã lui nhưng thực ra VTG đã bắt đầu chuyển sang giai đoạn mạn tính, với 1 dấu hiệu rất quan trọng: chảy mủ tai.
Nếu vẫn không được điều trị bệnh sẽ diễn biến thành VTG mạn tính hoặc viêm tai - xương chũm mạn tính, dẫn đến rất nhiều hậu quả xấu sau này cho trẻ, cùng với nguy cơ biến chứng có thể xảy ra vào bất kỳ lúc nào.
Điều trị
Việc chẩn đoán và điều trị VTG ở trẻ nhỏ nhất thiết phải do các thầy thuốc chuyên khoa có kinh nghiệm tiến hành. Tùy theo từng giai đoạn của bệnh mà có cách điều trị khác nhau.
- Giai đoạn đầu, khi màng nhĩ chưa thủng, thường phải dùng kháng sinh, hạ sốt, giảm đau, chống viêm và giảm xung huyết màng nhĩ, sát trùng mũi họng. Ngoài ra nếu trẻ bị rối loạn tiêu hóa nặng thì cần được phối hợp điều trị bởi các thầy thuốc nhi khoa. Nếu khám thấy màng nhĩ viêm đỏ, phồng, chứng tỏ có nhiều dịch viêm ứ đọng ở hòm tai thì phải chích rạch màng nhĩ, chủ động tháo bỏ dịch mủ trong tai giữa ra ngoài, không nên để cho mủ tự vỡ, làm thủng màng nhĩ hoặc lan vào xương chũm. Nói chung, trong trường hợp nghi ngờ có mủ thì nên chích rạch màng nhĩ sớm, thà chích rạch sớm còn hơn là chích rạch quá muộn. Vết chích sẽ tự liền lại rất nhanh sau 1-2 ngày.
- Giai đoạn muộn, màng nhĩ đã thủng; ngoài các thuốc điều trị toàn thân, cần phải tiến hành làm thuốc tai hàng ngày tại các cơ sở tai mũi họng. Trẻ sau đó phải được theo dõi tình hình lỗ thủng màng nhĩ bởi các thầy thuốc chuyên khoa.
Thuốc điều trị toàn thân
Sử dụng kháng sinh đường uống hoặc tiêm. Nhóm b-lac tam (ampicillin, cepholosporin thế hệ I, II, III), nhóm macrolid, nhóm quinolon là lựa chọn hàng đầu của bác sĩ tai mũi họng. Tuy nhiên, hạn chế sử dụng nhóm kháng sinh aminoglucosid (gentamycin, ankamycin...) vì trẻ bị VTG thường dưới 3 tuổi, là độ tuổi đang tập nói trong khi đó nhóm kháng sinh này có khả năng gây độc ốc tai cho trẻ. Nếu dùng trẻ có thể sẽ bị câm điếc do thuốc. Do tỷ lệ kháng thuốc ngày càng cao nên các bác sĩ thường phải phối hợp kháng sinh ở các nhóm khác nhau trong những trường hợp độc tính vi khuẩn cao, trẻ suy dinh dưỡng, trẻ bị giảm sức đề kháng hoặc điều trị ba ngày mà triệu chứng của bệnh không thuyên giảm.
Thuốc chống viêm corticoid ngắn ngày (7-10 ngày) hoặc thuốc kháng viêm non-steroid, thuốc chống viêm dạng men như chymotrypsine, serratiopeptidase... là những enzym thuỷ phân protein nhằm ngăn chặn các triệu chứng khác nhau do viêm, để phục hồi cấu trúc của mô bị tổn thương càng nhanh càng tốt, ngăn chặn tiến triển viêm, đồng thời hỗ trợ cùng với kháng sinh tiêu diệt các loại vi khuẩn gây viêm.
Thuốc hạ sốt, giảm đau dùng tuỳ theo cân nặng của trẻ. Thuốc thông dụng và an toàn nhất là paracetamol.
Có thể sử dụng thêm kháng histamin H1 (siro phenergan 1%, siro clarytine...) để giảm hiện tượng xuất tiết của niêm mạc viêm, nhất là trên những trẻ khai thác được tiền sử dị ứng.
Thuốc điều trị tại chỗ
Tại mũi: Dùng thuốc chống xung huyết, co mạch, giảm phù nề, chống viêm theo đúng lứa tuổi (thuốc hay sử dụng là otrivin 0,05%, sunfarin, collydexa, naphtazoline, xylomethazoline, adrénaline...). Thuốc nhỏ mũi được sử dụng với mục đích là làm sạch hốc mũi và trả lại sự thông thoáng tai giữa và mũi họng, điều này giúp cho việc phục hồi niêm mạc viêm trong tai giữa dễ dàng hơn và dẫn lưu dịch mủ từ tai giữa ra ngoài qua đường vòi tai.
Tại tai: Dùng thuốc giảm đau và kháng viêm tại chỗ. Đây là loại thuốc không được sử dụng khi tai thủng màng nhĩ.
Khi dùng thuốc nhỏ tai cần lưu ý:
Thuốc nhỏ tai được chia làm hai loại tuỳ theo thành phần cơ bản của thuốc là thuốc nhỏ cho những trường hợp viêm tai không thủng màng nhĩ và những thuốc dùng cho viêm tai có kèm theo thủng màng nhĩ. Tai giữa và tai trong được ngăn cách với nhau bởi lớp màng ở cửa sổ tròn rất dễ hấp thu các loại thuốc và là một trong những cơ chế ngộ độc tai trong gây điếc nặng không hồi phục.
Nhóm thuốc dùng cho bệnh lý viêm tai không thủng màng nhĩ : Giai đoạn xung huyết: Thuốc được phối hợp giữa kháng sinh và kháng viêm, có tác dụng như một trị liệu tại chỗ và đa năng do tính kháng viêm của thuốc dùng phối hợp dexamethasone. Do có sự phối hợp của hai thuốc kháng sinh là néomycine và polymycine cho phép mở rộng phổ kháng khuẩn trên các mầm bệnh Gr+ và Gr- là các tác nhân gây bệnh của VTG. Néomycine tiêu diệt liên cầu, Echerichia coli, Klebsiella Pneumonia, Hemophilus Influenza trong khi đó polymycine tác động trên các mầm bệnh Gr-...; otipax là loại thuốc chứa phenazone và lidocain HCL có tác dụng chống viêm và giảm đau tại chỗ được dùng trong những trường hợp VTG cấp giai đoạn xung huyết. Phải kiểm tra thật kỹ màng nhĩ của bệnh nhân trước khi cho thuốc. Trường hợp màng nhĩ bị rách, thuốc tiếp xúc với các cấu trúc tai giữa và tai trong gây các tai biến nặng nề như điếc, rối loạn thăng bằng... Nếu có biểu hiện ngoài da khi quá mẫn cảm với thành phần kháng sinh có trong thuốc nhỏ tai rất cẩn thận khi dùng kháng sinh cùng nhóm đó theo con đường toàn thân phối hợp.
Nhóm thuốc dùng cho trường hợp màng nhĩ bị thủng: Là những thuốc được bào chế bằng những kháng sinh có tính an toàn cao cho ốc tai như otofa, rifamycin, ciplox, efexin...
Otofa được bào chế với thành phần chính là rifamycine sodium. Thuốc có tác dụng tiêu diệt vi khuẩn Gr+ và Gr- trong các bệnh nhiễm trùng tai giữa. Rifamycine gây tác động trên các chuỗi xoắn ký trong nhân tế bào bằng cách hình thành một phức hợp ổn định gây ức chế sự tăng trưởng của vi khuẩn. Ciplox, efexin là một loại thuốc nhỏ tai chứa kháng sinh ciprofloxacine - nhóm quinolone tác động chủ yếu lên các vi khuẩn Gr- và một số vi khuẩn Gr+.
Việc dùng thuốc điều trị VTG cần hết sức thận trọng và phải được thực hiện tại các cơ sở có chuyên khoa tai mũi họng.
Viêm tai giữa là một căn bệnh có thể xảy ra đối với mọi người, ở mọi lứa
tuổi. Nhưng đặc biệt, trẻ nhỏ từ 1-3 tuổi là đối tượng dễ bị mắc bệnh
này nhất.
Ở trẻ nhỏ, viêm tai giữa thường biểu hiện bằng các triệu chứng sốt cao
39-40oC, quấy khóc nhiều, bỏ bú, kém ăn, nôn trớ, co giật… Nếu là trẻ
lớn, sẽ kêu đau tai, còn trẻ nhỏ chỉ biết lắc đầu, lấy tay dụi vào tai.
Trẻ có biểu hiện rối loạn tiêu hoá: Đi ngoài lỏng, nhiều lần, xuất hiện
gần như đồng thời với triệu chứng sốt. Tất cả các trẻ bị sốt không rõ
nguyên nhân hay tiêu chảy và nôn… đều phải được khám kỹ về tai mũi họng
để có thể phát hiện sớm được bệnh viêm tai giữa cấp.
Nếu không phát hiện bệnh cho trẻ ở giai đoạn đầu, 2-3 ngày sau bệnh sẽ
chuyển sang vỡ mủ do màng tai bị thủng, mủ tự chảy ra ngoài qua lỗ tai.
Lúc đó ta có thể thấy trẻ đỡ sốt, bớt quấy khóc, ăn được, ngủ được, hết
rối loạn tiêu hoá, đi ngoài trở lại binh thường, không kêu đau tai nữa.
Tưởng chừng như bệnh đã lui, nhưng thực ra viêm tai giữa đã bắt đầu
chuyển sang giai đoạn mạn tính, với một dấu hiệu rất quan trọng: Chảy mủ
tai.
Viêm tai giữa cấp ở trẻ nhỏ có thể gây thủng màng nhĩ, làm tiêu xương, gián đoạn chuỗi xương con… ảnh hưởng đến sức khoẻ nghe của trẻ. Nặng hơn nữa là những biến chứng nhiễm trùng, nhiều khi ảnh hưởng đến tính mạng. Viêm tai giữa cấp có thể dẫn đến những biến chứng sọ não cực kỳ nguy hiểm như: Viêm màng não, áp xe não do tai, viêm tắc tĩnh mạch bên do viêm nhiễm lan từ trần hòm tai lên não hoặc gây tê liệt dây thần kinh mặt (dây số 7).
Việc chẩn đoán và điều trị viêm tai giữa ở trẻ nhỏ nhất thiết phải do các thầy thuốc chuyên khoa tiến hành. Vì đây là một bệnh có thể gây biến chứng nặng nên các bậc phụ huynh tuyệt đối không tự ý cho trẻ dùng kháng sinh khi chưa có ý kiến của bác sĩ. Để phòng ngừa cần rửa tay, giữ vệ sinh sạch sẽ mũi, họng của trẻ nhỏ, không để trẻ tiếp xúc với môi trường khói thuốc hay người mắc bệnh. Đối với trẻ sơ sinh, phải vệ sinh bình bú sạch sẽ nếu phải nuôi bộ (tốt nhất là dùng thìa) và bể trẻ ở tư thế ngồi nghiêng trong suốt quá trình bú để tránh chất lỏng tràn vào vòi nhĩ.
Tuyệt đối không cho trẻ bú nằm. Khi trẻ nôn trớ, không nên đặt trẻ nằm đầu thấp vì chất nôn dễ tràn vào tai giữa. Khi gội đầu cho trẻ, không nên hạ thấp đầu trẻ quá, trẻ khóc nước bọt sẽ chảy vào tai giữa. Với những trẻ hay bị viêm mũi, thò lò mũi, viêm amidan,… cần cho trẻ đi khám để điều trị dứt điểm vì đó là nguồn gốc gây bệnh. Viêm tai giữa là một bệnh dễ tái phát, vì thế trẻ mắc bệnh này cần được theo dõi thường xuyên ở các cơ sở tai mũi họng để phòng tái phát.
Zenodem (Cefpodoxime proxetil) là kháng sinh cephalosporin thế hệ 3 phổ kháng khuẩn rộng dùng đường uống. Đây là tiền dược của cefpodoxime.
Thuốc được dùng trong điều trị nhiễm khuẩn đường hô hấp trên, bao gồm viêm tai giữa cấp, viêm xoang, viêm amiđan và viêm họng....
Augmentin thường được dùng điều trị ngắn hạn các nhiễm khuẩn đường hô hấp trên và dưới (bao gồm cả Tai-Mũi-Họng), đường niệu dục, da và mô mềm, xương và khớp và các nhiễm khuẩn khác như sảy thai nhiễm khuẩn, nhiễm khuẩn sản khoa, nhiễm khuẩn ổ bụng.
Augmentin có tính diệt khuẩn đối với nhiều loại vi khuẩn kể cả các dòng tiết b-lactamase đề kháng với ampicillin và amoxycillin (tham khảo thông tin kê toa đầy đủ về các vi khuẩn nhạy cảm).
Triệu chứng
Tai giữa là phần tai nằm bên trong, sau màng nhĩ. Do đó, chúng ta rất khó hình dung và tin được con mình đang bị nhiễm trùng phần này. Trẻ nhỏ dưới 1 tuổi không thể nói cho chúng ta biết em đang bị đau tai. Cha mẹ cần để ý để có thể nhận ra những triệu chứng nơi em bé như:
- Tự kéo tai như đang có gì khó chịu ở đó.
- Khóc nhiều hơn bình thường.
- Khó ngủ hơn.
- Không phản ứng khi nghe tiếng động.
- Gây gổ, khó chịu hơn bình thường.
- Sốt, nhức đầu.
- Chảy mủ lỗ tai.
Nguyên nhân
Bệnh viêm tai giữa thường bắt đầu từ một cơn cảm khiến cho phần tai giữa bị sưng lên, nước nhầy tụ lại sau màng nhĩ.
Viêm tai giữa cũng có thể do phần ống thông giữa và mũi (eustachian tubes) bị sưng và nghẹt. Ống thông này có nhiệm vụ làm áp suất phía trong và phía ngoài tai cân bằng nhau. Ở trẻ em, ống thường ngắn và hẹp, khiến nước nhầy tiết ra dễ bị giữ lại nơi tai giữa khi ống này bị sưng và nghẹt do bệnh cảm.
Ngoài ra, cục “thịt dư” ngay phía trên họng, sau mũi, cũng có thể ảnh hưởng đến chuyện viêm tai. Cục “thịt dư” này bình thường có nhiệm vụ sản xuất bạch huyết cầu để chống nhiễm trùng, nhưng đôi khi chính chúng cũng bị nhiễm trùng và sưng to lên làm nghẽn ống thông tai.
Nhiễm trùng cục “thịt dư” này cũng có thể lan ra ống thông. Sau cùng,
hệ thống miễn nhiễm của trẻ em còn yếu, do đó các em dễ bị mắc bệnh hơn
người lớn, nhất là bệnh cảm và viêm tai giữa.
Đặt ống dẫn lưu tai giữa. |
Những yếu tố khiến trẻ mắc bệnh
Tuổi: trẻ em từ 6 - 18 tháng dễ bị bệnh nhất. Trẻ từ 4 tháng tuổi cũng dễ mắc bệnh.
Nhà giữ trẻ: trẻ em nơi các nhà giữ trẻ dễ bị nhiễm trùng hơn các em ở nhà.
Không khí thở không trong sạch: trẻ em ở nơi có khói thuốc lá hay nơi không khí ô nhiễm dễ bị bệnh.
Tiền sử gia đình: nếu trong gia đình có người dễ bị nhiễm trùng tai, các em cũng dễ bị hơn.
Dòng giống: người da đỏ và người Eskimo từ Alaska hay Canada dễ bị viêm tai hơn người da trắng.
Cách nằm bú: các em bé nằm bú dễ bị viêm tai hơn các em được đỡ cho đầu cao lên trong khi bú.
Theo mùa: các em dễ bị viêm tai vào mùa thu và mùa đông hơn.
Khi nào nên gọi bác sĩ
Viêm tai không phải là một trường hợp khẩn cấp nhưng nó làm cho trẻ rất khó chịu. Ở những trẻ lớn hơn, trẻ có thể bị đau nhức tai rất nhiều, không thể ngủ được. Trong trường hợp này, bạn nên gọi bác sĩ.
Ở những trẻ dưới 2 tuổi, khi mới hết cảm mà trở nên quá khó chịu, gây gổ, bạn nên nghĩ tới viêm tai và mang trẻ đi khám bệnh.
Bạn cũng nên mang trẻ đi khám ngay nếu thấy mủ hay máu chảy ra từ tai các trẻ, vì có thể trẻ đang bị thủng màng nhĩ.
Nếu trẻ đã được định bệnh là viêm tai giữa và không bớt bệnh sau vài ngày, bạn nên gọi bác sĩ.
Biến chứng
Đa số các trường hợp viêm tai đều tự khỏi sau khoảng 1 tuần. Tuy nhiên nếu căn bệnh kéo dài, có thể đưa đến những biến chứng sau:
Không nghe rõ: chất nhầy tụ lại sau màng nhĩ khiến các em nghe không rõ được, do tín hiệu nghe khó được màng nhĩ và chuỗi xương trong tai truyền đi trong môi trường nước. Các em có thể bị mất thính lực tới 25 decibels, giống như tai bị nhét giẻ vậy.
Mất thính lực lâu dài: nước nhầy tụ sau màng nhĩ sẽ dần dần hết đi. Tuy nhiên, trong vài trường hợp, nước này có thể vẫn tồn tại nơi tai giữa một thời gian dài và có thể đưa đến phá hư màng nhĩ và chuỗi xương dẫn âm thanh.
Thủng màng nhĩ: trong thời gian tai bị viêm, nước nhầy và mủ có thể tích tụ rất nhiều trong tai giữa và đè lên màng nhĩ khiến bệnh nhân bị đau tai rất nhiều. Đôi khi sức ép của khối nước này làm màng nhĩ rách và nước mủ sẽ chảy ra tai ngoài. Tuy nhiên, nếu màng nhĩ bị rách nhiều lần và không lành, bệnh nhân sẽ bị chứng thủng màng nhĩ cần phải mổ vá lại.
Viêm xương chẩm (mastoiditis): bệnh viêm tai không được chữa lâu ngày sẽ đưa đến viêm xương chẩm, tức phần xương sọ nằm ngay sau tai. Viêm màng não hay các phần khác của đầu. Chứng này hiếm khi xảy ra.
Điều trị
Có nhiều cách chữa viêm tai tùy theo tuổi của trẻ nhỏ, bệnh sử và loại nhiễm trùng.
Nếu trẻ nhỏ khó chịu, bạn có thể cho trẻ uống thuốc giảm đau như paracetamol.
Nếu em không bị chảy mủ lỗ tai hay đã từng đặt ống trong tai, bác sĩ có thể cho một loại thuốc nhỏ tai để giảm đau.
Bác sĩ có thể cho trẻ uống thuốc kháng sinh, nên uống cho hết thuốc để chắc chắn là đã hết nhiễm trùng.
Nếu viêm tai do siêu vi, kháng sinh sẽ không làm trẻ hết bệnh nhanh hơn.
Ngược lại dùng quá nhiều kháng sinh có thể tạo ra những vi trùng kháng thuốc rất nguy hiểm.
Đặt ống trong tai: nếu trẻ nhỏ bị chất nhầy tích tụ sau màng nhĩ quá lâu khiến trẻ nghe không rõ, hoặc
trẻ bị viêm tai rất nhiều lần, có thể bác sĩ sẽ đề nghị cho trẻ đặt ống trong tai. Bác sĩ Tai mũi họng sẽ rạch một đường nhỏ nơi màng nhĩ và đặt một ống nhỏ vào đó. Ống này làm chất nhầy sau màng nhĩ chảy ra ngoài và giúp thăng bằng áp suất giữa tai ngoài và tai giữa., trẻ sẽ nghe lại được ngay. Trong vòng khoảng 1 năm, ống này sẽ tự động rơi ra và màng nhĩ tự lành. Trong thời gian chờ đợi, nếu trẻ đi bơi, sẽ phải bịt tai lại bằng “ear plug” và tránh đừng cho nước vào tai khi tắm hay gội đầu.
Vài trẻ vẫn tiếp tục bị viêm tai sau khi ống rơi ra, trường hợp này, trẻ sẽ phải đặt ống lại.
Phòng ngừa
Không cho trẻ đến gần các trẻ bệnh. Không cho đi nhà trẻ quá sớm.
Giữ không cho trẻ hít khói thuốc.
Tất cả mọi người trong nhà phải ngưng hút thuốc.
Cho trẻ bú mẹ ít nhất là 6 tháng đầu. Trong sữa mẹ có nhiều kháng thể giúp trẻ chống bệnh.
Cho trẻ ngồi cao lên khi bú bình. Đem trẻ đi chích ngừa đầy đủ.
Viêm tai giữa là bệnh khá phổ biến ở trẻ nhỏ. Nguyên nhân gây bệnh thường do trẻ có tiền sử bị viêm đường hô hấp. Dưới đây là kinh nghiệm của mẹ Thanh Tú trong việc chăm sóc và điều trị bệnh viêm tai giữa cho con. Nếu mẹ nào đang có con ở trường hợp này, hãy thử một lần xem sao nhé! Chúc các bé luôn khoẻ mạnh, vui tươi!
Lần đầu bé nhà mình bị viêm tai giữa là lúc bé chưa biết nói. Sốt cao dài ngày, quấy khóc về đêm, có biểu hiện bứt rứt nhưng khi hỏi: “ Con đau ở đâu?” thì bé không diễn tả hết được tình trạng bệnh. Đến khi mủ vỡ tràn ra tai thì mới hay bé bị viêm tai giữa.
Điều trị ở viện 9 ngày là quãng thời gian mẹ không thể quên. Nào là tiêm, lấy máu xét nghiệm, rửa tai, cho con uống thuốc… Ngày nào cũng hai mũi kháng sinh, nhưng lấy ven cho con rất khó, nếu là điều dưỡng ít kinh nghiệm thì không thể tiêm cho con được. Mẹ biết tiêm kháng sinh rất hại sức khoẻ, đặc biệt là trẻ nhỏ nhưng đành phó mặc cho bác sĩ vậy…
Ngày xuất viện, mẹ là người mừng nhất vì sẽ không còn cảnh lẽo đẽo theo con mỗi ngày đến nơi mà hai mẹ con chẳng hề muốn. Theo chỉ dẫn của bác sĩ mẹ vệ sinh tai, mũi, họng cho con cẩn thận hơn. Tuy nhiên, chắc chỉ hết thuốc chống viêm là con lại tái phát.
Một tháng 4 lần bị lại, mẹ bỏ bê cả công việc cơ quan để ở nhà chăm sóc con. Tình cờ một thầy thuốc đông y chỉ cho mẹ một phương thuốc chữa trị viêm tai giữa rất hiệu quả mà lại ngăn chặn được tái phát. Nửa tin nửa ngờ nhưng có bệnh thì vái tứ phương nên mẹ quyết định cho con chữa thử. Lần này, mẹ không đưa con đi viện nữa mà điều trị cho con ở nhà.
Nghe nói, đó là bột nhau thai (đông y gọi là tử hà sa). Không chỉ khống chế được viêm tai giữa tái phát mà tử hà sa còn làm tăng sức đề kháng, giúp trẻ tránh được các bệnh viêm đường hô hấp thông thường. Bạn có thể mua bột Tử hà sa ở các nhà thuốc đông y.
Cách chữa trị:
Khi mủ trong tai chảy ra thì vệ sinh sạch sẽ, sau khi lau khô thì thổi khoảng 0.5g bột Tử hà sa vào tai, nhớ là càng sâu càng tốt. Nếu thổi đúng cách thì bệnh nhẹ chỉ một lần là khỏi, còn bệnh nặng thì thổi bột tử hà sa ngày 2 lần, khoảng 3 – 4 ngày điều trị sẽ khỏi.
Khi trẻ bị viêm tai giữa, việc vệ sinh tai rất khó khăn nên các mẹ cần phải kiên trì. Với bé nhà mình sau khi sử dụng thuốc này hiện đã khỏi, chưa biết thế nào nhưng mấy tháng nay chưa bị lại. Mặc dù thời tiết mùa đông nhưng sau đợt điều trị vừa rồi bé không ho hắng, không bị viêm họng. Không biết có phải do tác dụng của thuốc này không nhỉ?
Lưu ý:
Dù trẻ có bị tái phát hay không các mẹ luôn ý thức phòng bệnh là tốt nhất, bởi vì bất kỳ dịch lỏng nào chảy vào tai giữa là trẻ bị viêm ngay:
- Đầu tiên phải giữ vệ sinh tai, mũi, họng cho trẻ.
- Nếu trẻ đang ở tuổi ăn dặm, các mẹ tuyệt đối không cho trẻ ăn nằm, vì rất có thể khi trẻ ho, sặc, thức ăn dạng lỏng dễ tràn lên tai giữa.
- Nếu trẻ bị nôn, đặt trẻ nằm gối cao để dịch nôn không trào ngược vào tai giữa.
- Nếu trẻ hay bị chảy nước mũi, ho có đờm cần phải điều trị khỏi dứt điểm. Với trẻ nhỏ thì dùng dụng cụ hút sạch nước mũi. Trẻ lớn hơn thì hướng dẫn cách xì mũi, khạc đờm là tốt nhất. Tuy nhiên, cũng phải tầm hai tuổi bé mới làm được việc này.
- Trong điều kiện thời tiết mùa đông khô hanh như ở miền bắc thì các mẹ nên nhỏ nước muối sinh lý vào hốc mũi cho trẻ mỗi ngày để đường mũi được thông thoáng, đỡ viêm nhiễm. Mỗi sáng nhỏ vài giọt vào sâu trong miệng để sát trùng họng cho trẻ. Tuy nhiên, vào mùa đông bạn nên làm ấm dung dịch trước khi nhỏ sẽ tốt hơn.
- Không để trẻ tiếp xúc với môi trường ô nhiễm, khói thuốc lá hay người mắc bệnh về đường hô hấp vì trẻ nhỏ sức đề kháng yếu dễ lây bệnh.
(ST).