Để chữa viêm loét dạ dày và hành tá tràng, có thể lấy táo tàu 10 quả, hồng hoa 10 g, sắc lấy 200 ml nước, trộn đều với 60 g mật ong lúc thuốc còn nóng, uống vào sáng sớm khi đói bụng. Mỗi liệu trình kéo dài 7 ngày.
- Xương cá mực 30 g, thịt gà 150 g, gừng 2 nhánh, táo tàu 2 quả, tất cả cho nước vào ninh nhừ, ăn cả nước lẫn cái; có tác dụng chữa đau dạ dày, hành tá tràng do thừa axit.
- Nước ép cải bắp 250 g nấu sôi, uống trước bữa ăn ngày 2 lần, liên tục trong 10 ngày sẽ hết đau và lành dần vết loét ở dạ dày, hành tá tràng.
- Củ cải và ngó sen tươi lượng bằng nhau, rửa sạch, giã nát, lọc lấy nước uống ngày 2 lần, mỗi lần 50 g; có tác dụng chữa xuất huyết dạ dày.
- Mỗi ngày uống 100 mg vitamin E chia 3 lần, liên tục trong 2-3 tuần. Có thể kết hợp với việc uống mật ong 60 g và bột nghệ 30 g mỗi ngày.
- Khoai tây gọt bỏ vỏ, nghiền nát, lọc lấy nước, đun sôi để uống ngày 3 lần, mỗi lần 1 thìa to, liên tục trong 2-3 tuần.
- Lấy 15 hạt đinh hương nhét vào 1 quả lê đã khoét rỗng ở giữa, hầm chín để ăn. Thuốc có tác dụng chữa chứng hay nôn mửa và nấc do viêm loét dạ dày, hành tá tràng.
Bệnh viêm dạ dày tá tràng cấp và mạn tính thường do các nguyên nhân và yếu tố thuận lợi sau:
- Do dùng thuốc, nhất là các thuốc giảm đau như Aspirin, AINS…
- Do uống quá nhiều rượu.
- Do nhiễm xoắn khuẩn H.P.
- Do hoá chất.
- Do trào ngược dịch mật.
- Do căng thẳng kéo dài, stress..
- Do các bệnh tự miễn khác…
Bệnh có thể được chẩn đoán qua nội soi hoặc khi cần có thể sinh thiết, xét nghiệm tìm vi khuẩn H.P.
Tiến triển và tiên lượng: Bệnh thường lành tính, song việc điều trị đôi khi lại gặp rất nhiều khó khăn do tính chất bệnh dai dẳng làm tâm lý người bệnh lo âu, căng thẳng dẫn đến bệnh càng trở nên khó khỏi, thậm chí có những lúc còn cảm thấy nặng hơn. Do vậy ngoài việc tuân thủ đúng phác đồ điều trị, thời gian điều trị, chế độ ăn uống, người bệnh cần có được một tinh thần thoải mái, chế độ dinh dưỡng phù hợp. Mặc dù bệnh diễn biến thường lành tính nhưng cũng có một tỷ lệ nhỏ nguy cơ dị sản biểu mô, có thể dẫn đến K hóa. Trong trường hợp của bạn, cần được nội soi sinh thiết và điều trị can thiệp sớm. Nếu trường hợp bệnh diễn biến không được khả quan mặc dù thời gian điều trị kéo dài, cần rà soát lại để tìm nguyên nhân thất bại như:
- Theo dõi điều trị không tốt.
- Vi khuẩn H.P kháng thuốc.
- Sử dụng các thuốc kháng viêm giảm đau bừa bãi, không đúng qui cách.
- Trong thời gian chữa bệnh thường dùng chất kích thích (thuốc lá, bia rượu, cà phê…).
- Kiểm tra lại chức năng tuyến giáp xem có bị cường chức năng tuyến giáp hay không, và các bệnh lý khác phối hợp như bệnh tự miễn, cơ địa dị ứng,..
- Kiểm tra xem có bị hội chứng trào ngược hay không?
- Quá trình điều trị có thường xuyên hay không, có điều trị duy trì theo đúng sự hướng dẫn của bác sĩ không?
Người bệnh cần chế độ ăn uống kiêng cữ các chất chua cay, kích thích; nên ăn mềm và không nên ăn quá no…; tránh các đồ ăn khó tiêu như chiên, rán, đồ ăn đóng hộp…Ngoài ra phải giữ cho tinh thần thoải mái, an tâm điều trị, công việc phù hợp, tránh căng thẳng stress…
Trong dân gian, nghệ và mật ong cũng được dùng để chữa các cơn đau dạ dày, bạn có thể dùng phối hợp được, song nên chọn nghệ và mật ong tốt, bảo đảm vệ sinh. Đặc biệt cần có niềm tin, tránh bi quan, chán nản thì việc chữa bệnh mới có tiến triển tốt được.
4 quan niệm sai dẫn đến bệnh dạ dày
Những hiểu biết lệch lạc, sai lầm sẽ dẫn đến những biến chứng như xuất huyết dạ dày, ung thư dạ dày...
Thói quen ăn uống có tác động rất nhiều đến bệnh dạ dày. Vì vậy cần tạo thói quen ăn uống khoa học ngay từ khi còn nhỏ.
Nghệ vàng, Curcuma longa, họ gừng, từ lâu được người dân dùng làm thuốc lợi mật, chữa viêm gan, vàng da, sỏi mật, viêm túi mật, đau dạ dày, huyết ứ sau khi sinh và làm hạ cholesterol máu. Nghệ vàng còn được dùng để chữa chảy máu cam, nôn ra máu…
Nghệ đen, còn gọi là nghệ xanh, nghệ tím, đông y gọi là nga truật, tên khoa học là Curcuma zedoaria. Về hình dạng cây rất giống nghệ vàng, nhưng chỉ khác là lá nghệ đen có màu tím đậm ở gân chính, còn lá nghệ vàng thì xanh. Để làm thuốc, người ta đào lấy củ rồi cắt bỏ rễ con, rửa sạch, thái lát, phơi khô, khi dùng thì tẩm giấm sao vàng. Củ có chứa nhiều tinh dầu.
Theo y học cổ truyền, nghệ đen có vị đắng, cay, mùi thơm hăng, tính ấm, tác dụng hành khí, thông huyết, tiêu thực, mạnh tì vị, kích thích tiêu hóa, tiêu viêm, tiêu xơ.
Nghệ đen thường được dùng để chữa:
- Ung thư cổ tử cung và âm hộ, ung thư da, dùng dạng tinh dầu nguyên chất bôi tại chỗ mỗi ngày một lần.
- Đau bụng kinh, bế kinh, kinh không đều.
- Ăn không tiêu, đầy bụng, nôn mửa nước chua.
- Chữa các vết thâm tím trên da.
Theo công năng dược tính như trên thì nghệ đen không thể thay thế nghệ vàng được, tùy từng trường hợp có thể dùng riêng hay phối hợp hai loại với nhau để tăng tác dụng.
Tuy nhiên do tác dụng hoạt huyết phá ứ rất mạnh nên nghệ đen không được dùng cho phụ nữ có thai và những người hay bị rong kinh.
(ST).