Dân tộc Chăm phân bổ theo những nhóm địa phương khác nhau. Chủ yếu họ sống tập trung ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận. Một số nơi khác như An Giang, Tây Ninh, Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh cũng có một phần dân cư là người Chăm.Trang phục dân tộc Chămcó lối tạo dáng và trang trí riêng khó lẫn lộn với các tộc người trong nhóm ngôn ngữ hoặc khu vực.
Trang phục nam của dân tộc Chămvùng Thuận Hải, đàn ông lớn tuổi thường để tóc dài, quấn khăn. Đó là loại khăn màu trắng có dệt thêu hoa văn ở các mép và hai đầu khăn cũng như các tua vải. Khăn đội theo lối chữ nhân, hai đầu thả ra hai mang tai. Nhóm Chăm Hroi đội khăn trắng quấn gọn trên đầu. Nam mặc áo cánh xẻ ngực màu sáng hoặc tối. Đó là loại áo cổ tròn cài cúc. Có người mặc áo ngắn, xẻ ngực, cộc tay. Các đường viền ở cổ sườn, hai thân trước và gấu được trang trí và đính các miếng kim loại hình tròn, có nhóm mặc lễ phục là loại áo dài xẻ nách trắng hoặc đỏ. Trang phục cổ truyền là chiếc váy và quần.
Về cơ bản, phụ nữ các nhóm Chăm thường đội khăn. Cách hoặc là phủ trên mái tóc hoặc quấn gọn trên đầu, hoặc quấn theo lối chữ nhân, hoặc với loại khăn to quàng từ đầu rồi phủ kín vai. Khăn đội đầu chủ yếu là màu trắng, có loại được trang trí hoa văn theo lối viền các mép khăn (khăn to), nhóm Chăm Hroi thì đội khăn màu chàm. Lễ phục thường có chiếc khăn vắt vai ngoài chiếc áo dài màu trắng. Đó là chiếc khăn dài tới 23m vắt qua vai chéo xuống hông, được dệt thêu hoa văn cẩn thận với các màu đỏ, trắng, vàng của các mô tip trong bố cục của dải băng. Nhóm Khánh Hòa và một số nơi, chị em mặc quần bên trong áo dài. Nhóm Chăm Hroi mặc váy quấn (hở) có miếng đáp sau váy. Nhóm Quảng Ngãi mặc áo cánh xẻ ngực, cổ đeo vòng và các chuỗi hạt cườm. Trang phục Chăm, vì có nhóm cơ bản là theo đạo Hồi nên cả nam và nữ lễ phục thiên về màu trắng. Có thể thấy đặc điểm trang phục là lối tạo hình áo (khá điển hình) là lối khoét cổ và can thân và nách từ một miếng vải khổ hẹp (hoặc can với áo dài) thẳng ở giữa làm trung tâm áo cho cả áo ngắn và áo dài. Mặt khác có thể thấy ở đây duy nhất là tộc còn thấy nam giới mặc váy ở nước ta với lối mang trang phục và phong cách thẩm mỹ riêng.Ngày nay, cộng đồng Chăm lớn nhất thế giới là vào khoảng giữa nửa triệu đến một triệu tại Campuchia, sau đó là cộng đồng tại Việt Nam với gần 80.000 người.
Dân tộc Chăm có khoảng trên 100.000 dân, sống tập trung đông nhất ở 3 tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận và An Giang. Ngoài ra họ còn cư trú một phần ở các tỉnh từ Nam Trung Bộ đến Ðông và Tây Nam Bộ. Hiện nay người Chăm còn sống rải rác ở nhiều nước khác như Campuchia, Thái Lan, Malaysia…
Những nét đặc sắc của văn hoá Chăm thể hiện từ tiếng nói, chữ viết, từ nghệ thuật và kỹ thuật tạo dáng của các ngôi tháp bằng đất, các pho tượng bằng đá, đến các sản phẩm vải thêu, dệt hoa văn, dệt thổ cẩm hoặc đồ gốm và các vật dụng phục vụ cho cuộc sống hàng ngày.
Người Chăm có tiếng nói và chữ viết riêng của mình. Chăm Tây cùng với sự duy trì phát triển Hồi giáo trong việc học tập giới luật và tìm hiểu kinh thánh Koran nên đã dùng chữ Ả Rập và chữ Mã Lai. Cho đến bây giờ Chăm Tây sử dụng loại chữ Mã Lai khá thành thạo trong việc ghi chép và thư từ… Chăm Ðông thì sử dụng chữ Thrah và xem đó là loại chữ truyền thống.
Người Chăm luôn tự hào về những ngôi tháp Chăm-pa cổ kính xây dựng bằng đất nung độc đáo. Hình ảnh vũ nữ Chăm-pa cổ xưa đã được chạm khắc vào các đền tháp, trong đó bức phù điêu Vũ nữ Trà Kiệu là một trong những tuyệt tác. Là một bộ phận của nền văn hoá dân tộc, kiến trúc dân gian của người Chăm cũng có một lịch sử và truyền thống lâu đời. Bàn tay và khối óc sáng tạo của dân tộc Chăm làm sáng tỏ tính phong phú, đa dạng, giúp chúng ta thấy được sự giao lưu văn hoá, quá trình phát triển của tộc người.
Người ta còn thấy nhiều nét trạm trổ và các bức tượng bằng đá thể hiện nếp sinh hoạt ca múa và chơi nhạc dân gian rất sinh động. Người Chăm luôn mang trong máu của mình một tâm hồn văn nghệ dân tộc đặc biệt. Nghệ thuật truyền thống luôn được người Chăm nuôi dưỡng, trân trọng và liên tục truyền cho nhau từ bao đời nay.
Múa Chăm phong phú và độc đáo. Hầu như mỗi làng Chăm có một đội múa riêng. Những điệu múa cổ xưa nhất thường được trình diễn trong các lễ hội. Các nghệ nhân Chăm đã sáng tác thêm những điệu múa đặc sắc như múa chàm rông, múa đoa pụ (đội bình nước trên đầu). Múa quạt là điệu múa phổ thông của người Chăm. Khi múa, các vũ nữ dùng quạt làm đạo cụ để biểu diễn những loại múa khác nhau. Múa bóng mang tính tôn giáo và cũng rất phổ biến của người Chăm. Trong những nét đặc trưng của múa Chăm là múa ổn định theo nhạc. Dàn nhạc đệm cho múa thương gồm hai trống ba-ra-nưng và một kèn sa-ra-nai. Nhìn chung, vũ điệu Chăm-pa nhằm phô diễn vẻ đẹp của con người.
Ảnh: Múa Chăm tại lễ hội Katê
Người Chăm có nhiều lễ hội trong năm, như hội Rija, Roya, Ramadan, lễ Pơk Băng Yang, lễ Katê… Trong đó, lễ hội Katê là một trong những lễ hội lớn nhất của người Chăm được tổ chức thường xuyên vào đầu tháng 7 (lịch âm) tức là vào trung tuần tháng 9 (âm lịch) và tháng 10 (dương lịch) để tưởng nhớ các vị anh hùng dân tộc và ông bà tổ tiên.
Thổ cẩm là nghề truyền thống của người Chăm. Thiếu nữ đến tuổi lấy chồng, ai cũng biết dệt vải. Những tấm khăn, cái áo làm ra được coi là thước đo của sự đảm đang tháo vát của các cô gái Chăm. Nghề dệt thổ cẩm đòi hỏi sự tỉ mỉ và khéo léo. Ðể có một tấm chăn, các cô gái phải cần mẫn ngồi bên khung cửi từ sáng đến chiều tối với sự nhịp nhàng, chuẩn xác trong từng thao tác. Chỉ cần một mối chỉ bị rối, mặt vải sẽ không còn mịn nữa. Các sản phẩm dệt của người Chăm khá phong phú, đáp ứng rộng rãi cho nhu cầu trang phục, trang sức của người Chăm.
Vào dịp hội hè, lễ lạc, trai gái Chăm còn trang sức bằng các thắt lưng do người Chăm tự dệt. Hầu như phần lớn các sản phẩm vải của người Chăm không thể thiếu các loại hoa văn trang trí, nhất là trên các y phục cổ truyền của các thiếu nữ.
Nghề truyền thống khác của người Chăm là nghề làm đồ gốm. Làng Chăm Bầu Trúc duy nhất có nghề làm đồ gốm từ lâu đời. Hầu như gia đình nào cũng làm, phần lớn do phụ nữ đảm đang. Từ chiếc lu đựng nước, chiếc nồi đất, bộ khuôn đổ bánh xèo đến siêu sắc thuốc, chiếc cà om đều rất dụng công với những hoa văn độc đáo của dân tộc. Sản phẩm gốm Chăm còn được trao đổi rộng rãi với nhiều vùng và nhiều tộc người khác nữa. Trong quá trình nghiên cứu, chúng ta thấy rằng người Chăm đã có một nền văn hoá thật phong phú về nội dung, đa dạng về diện mạo. Nền văn hoá ấy đã được thể hiện trong nhiều lĩnh vực, nhất là lĩnh vực kiến trúc; đó là kết quả của quá trình hoạt động có định hướng trong một thời gian lịch sử lâu dài.
Thổ cẩm Chăm - một chất liệu mang đậm nét văn hóa truyền thống của dân tộc Chăm, trải qua bao biến cố của lịch sử vẫn mang trong mình những nét đặc trưng riêng, khu biệt với những sản phẩm của các dân tộc khác, họa tiết trang trí độc đáo, hoa văn mộc mạc, đơn giản, không cầu kỳ, màu sắc rực rỡ, tươi sáng đầy ấn tượng, đặc biệt vẫn là lối dệt thủ công truyền thống đã, đang ngày càng được yêu thích trên thế giới
Tạo hóa sinh ra muôn loài vốn đã hoàn thiện để tồn tại trong giới hạn của nó. Duy chỉ có con người mới biết làm ra trang phục, bổ sung cho những nhu cầu nảy sinh trong xã hội: bảo vệ sức khỏe, tôn vinh con người, phân biệt giới tính, địa vị xã hội… Ngay từ khi xuất hiện, trang phục đã mang tính tộc người rõ rệt và là tín hiệu để phân biệt giữa các sắc tộc. Vì lẽ đó, trang phục luôn ẩn tàng sức sống bền vững trong tâm thức cộng đồng.
Việt Nam ta có tất thảy 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc đều có sắc phục riêng, tạo nên bản hòa sắc đa dạng, phong phú trong dàn hợp xướng văn hóa Việt. Với người Chăm, một dân tộc giàu truyền thống, tập tục độc đáo, không chỉ là chủ nhân của những ngọn tháp Chăm huyền bí, ám ảnh, họ còn sáng tạo nên những trang phục rực rỡ, với một rừng họa tiết mang đậm dấu ấn đặc trưng.
Dân tộc Chăm sống theo chế độ mẫu hệ, do đó theo phong tục, con gái Chăm ngoài việc học hành và làm những công việc xã hội, còn bắt buộc phải ở bên cạnh người mẹ, để học dệt theo cung cách cổ truyền. Nhờ vào đấy mà nghề dệt thổ cẩm không bị mai một.
Ngày nay, thổ cẩm Chăm vẫn được dệt bằng phương pháp thủ công, bên cạnh đó là việc tìm tòi, nghiên cứu, cách điệu các hoa văn truyền thống: Thay vì như trước đây, chỉ có khoảng 36 loại hoa văn thì nay đã có trên 50 loại hoa văn khác nhau. Sản phẩm Chăm, trước kia, chỉ có váy và khăn choàng, giờ đây có thêm túi xách, ba lô, khăn bàn, khăn trải giường, ví các loại… đã góp phần đưa sắc màu rực rỡ của thổ cẩm Chăm đến với người tiêu dùng một cách dễ dàng hơn, nhờ tính hiện dụng cao pha trộn với vẻ đẹp truyền thống.
Ngoài ra, chất liệu vải đầy ấn tượng này còn được các nhà thời trang chú ý đưa vào bộ sưu tập của mình. Từ đó, sắc màu thổ cẩm Chăm được khuếch trương trên các sân khấu thời trang tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, và sau nữa là Singapore, Tokyo, Berlin…
Thoạt nhìn, thổ cẩm Chăm rất giống sản phẩm của nhiều dân tộc khác, đặc biệt là một số loại thổ cẩm của đồng bào miền núi Tây Bắc, Tây Nguyên như về màu sắc, họa tiết trang trí, chất liệu vải… Song nếu quan sát kỹ, ta sẽ nhận ra sự khác biệt cũng như vẻ độc đáo của loại hình sản phẩm mang tính nghệ thuật cao này: cách bài trí cảnh, sự phối màu…
Thổ cẩm Chăm sợi thường thô, to, dày, hoa văn rực rỡ thiên về các màu sắc tương phản nhưng sự phối màu lại rất hài hòa, tinh tế. Họa tiết hoa văn mang những nét đặc trưng riêng về bố cục, màu sắc, lối trang trí phong phú, đa dạng nhưng vẫn thể hiện được sự thống nhất cao về tính hình học và cách điệu hóa. Các hoa văn này phản ánh thế giới quan của người Chăm về vũ trụ và thiên nhiên. Đó là những hoa văn về hiện tượng tự nhiên, mặt trời, cỏ cây, hoa lá, núi non, sông nước, các loại động vật và những biểu tượng khác…
Không giống như phụ nữ Chăm, rất ưa chuộng việc sáng tạo và khoác lên mình những tấm thổ cẩm đẹp sặc sỡ, đàn ông Chăm thuần túy trung thành với sắc trắng trong trang phục quần áo dài của mình. Hàng trăm năm đã trôi qua, nhưng những người đàn ông Chăm vẫn tôn trọng sắc trắng, và luôn sử dụng chúng trong các cuộc hội hè, các buổi lễ linh thiêng dưới chân tháp cổ…
Thổ cẩm Chăm - một chất liệu mang đậm nét văn hóa truyền thống của dân tộc Chăm, trải qua bao biến cố của lịch sử vẫn mang trong mình những nét đặc trưng riêng, khu biệt với những sản phẩm của các dân tộc khác, họa tiết trang trí độc đáo, hoa văn mộc mạc, đơn giản, không cầu kỳ, màu sắc rực rỡ, tươi sáng đầy ấn tượng, đặc biệt vẫn là lối dệt thủ công truyền thống đã, đang ngày càng được yêu thích trên thế giới.
Cùng với những nét hiện đại, lễ cưới của người Chăm vẫn được tổ chức theo những thủ tục riêng cùng các nghi thức vốn có.
Những hình ảnh về một đám cưới của người Chăm tại không gian Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam:
Khi thanh niên nam nữ người Chăm đến tuổi lập gia đình, cha mẹ nhà trai sẽ tìm hiểu và nhờ ông Giáo cả (đại diện nhà trai) ngỏ lời với nhà gái. Khi được chấp thuận, nhà trai sẽ làm lễ “dứt lời”, tức là khẳng định mọi việc đã được thống nhất.
Trong ngày cưới, cùng với đoàn rước dâu, nhà trai phải mang theo lễ vật được đựng trong những lọ gốm
Trong ngày cưới, cô dâu được trang điểm lộng lẫy cùng trang phục áo dài nhung đỏ, không xẻ hông, tóc và hai tai đều cài hoa, trâm cài đầu và đeo trang sức
Đám cưới diễn ra trong ba ngày. Đầu tiên là ngày họp họ - làm bánh. Bánh dùng trong lễ cưới gồm có 3 loại: Bánh ha bum (bông lan), tapaikagah, gti kling (bánh ba lỗ) và món cơm cà ri bò.
Ngày thứ hai - ngày “lên ghế” (giường). Ở mỗi gia đình nhà trai, nhà gái, người đại diện sẽ đọc những lời cầu nguyện cho cô dâu, chú rể sống bình an, hạnh phúc, sau đó mời cơm dân làng.
Ngày thứ ba - “đưa rể”, chú rể cùng đoàn nhà trai đến nhà gái. Một tay chú rể được buộc với một đầu chiếc khăn mùi soa, đầu khăn kia do một người cầm.
Khi đến nhà cô dâu, chú rể cùng đoàn nhà trai – nhà gái làm lễ và cùng ngồi quây tròn lại truyền tay nhau xem các sính lễ. Sau đó mọi người cùng nhau đọc kinh, cầu phúc cho đôi vợ chồng trẻ.
Sau khi các thủ tục hoàn tất, chú rể được dắt vào buồng cô dâu để làm lễ. Khi gặp cô dâu, chú rể phải lật khăn che và chỉ vào trán cô dâu ý khẳng định nguyện ước vợ chồng...
... và tiếp tục đọc kinh, làm lễ chúc phúc.
Sau khi thực hiện đủ các nghi lễ, cô dâu sẽ trao cho chú rể những vật dụng sử dụng hằng ngày
Sau hôn lễ, chú rể phải ở nhà cô dâu ba tối đầu tiên. Sau đó, việc ở rể hay làm dâu là do sự thỏa thuận của hai bên gia đình.
Bữa cơm thân mật trong đám cưới của người Chăm do nhà gái mời. Bữa cơm không cầu kỳ, chỉ có cơm trắng, thịt bò nấu cari. Mọi người uống nước chè cùng món bánh tráng miệng là 3 loại bánh cưới.
Những kỉ lục Việt Nam độc đáo
Người Tày
(ST).