Tác dụng chữa bệnh của quả quất

seminoon seminoon @seminoon

Tác dụng chữa bệnh của quả quất

19/04/2015 02:12 AM
9,257

Quả quất (miền Nam gọi là quả tắc) có tác dụng kiện tỳ, thông phổi, trừ đờm, trị ho cảm, giải uất, giải rượu, có thể chế biến thành nước giải khát.




  Bạn có thể hấp cánh thủy quất với mật o­ng, ngâm quất với đường,hay với muối để giải rượu, chữa cảm, chống ho và viêm họng. Quả quất (miền Nam gọi là quả tắc) có tác dụng kiện tỳ, thông phổi, trừ đờm, trị ho cảm, giải uất, giải rượu, có thể chế biến thành nước giải khát. Nó chứa nhiều vitamin A, C, B1, B11, và canxi, phốt pho, kali, kẽm… Một số nghiên cứu của Nhật Bản cho biết, quả quất có tác dụng làm giảm cholesterol, bền thành mạch, có lợi cho người cao huyết áp. Các nhà khoa học tại Viện Y tế Quốc gia Mỹ cho hay, trong quả quất có nhiều chất chống ôxy hóa chứa proanthocyanidins, giúp ngăn ngừa vi khuẩn, giảm nhiễm trùng đường tiết niệu, có lợi cho bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt. Theo kinh nghiệm dân gian, có thể dùng loại quả này để điều trị các chứng bệnh thông thường như viêm họng, ho, tắc tiếng, cảm. Có thể dùng nó chế biến nước giải khát như nước quất đường, nước quất ép, hoặc chỉ ngậm quất với muối, hay dùng vỏ quất sao với gừng sắc uống…

Một số cách sử dụng quả quất:


- Quả quất 10 gr, cho vào chén với đường phèn hoặc mật o­ng, chưng cách thủy, hoặc cho vào nồi cơm chưng khoảng 20 phút, để nguội, cho trẻ uống ngày 3 lần để chữa ho, cảm. - Quả quất rửa sạch, xăm lỗ, ngâm với đường theo tỷ lệ 1 kg quất 2 kg đường, sau một tuần dùng được. Mỗi lần lấy một thìa canh pha với một ly nước ấm. Trong những ngày lễ tết, trẻ nhỏ thường ham chơi, nô đùa la hét nhiều, thức khuya, hay ra đường chơi hít phải khói bụi… nên dễ bị cảm lạnh gây khàn tiếng, tắt tiếng, đau họng. Lúc này, nên cho trẻ dùng một ly nước quất để phòng ngừa viêm họng, ho. Theo Đất Việt Bài 2. Quất – cây cảnh ngày Tết, thuốc quý cho cả năm Cây quất còn gọi kim quất hoặc quất vàng. Theo Đông y, quả quất vị ngọt chua, tính ấm, vào các kinh phế, vị, can. Có công năng hóa đàm, trị ho, lý khí, giải uất, tiêu thực, giải rượu. Vỏ tác dụng mạnh hơn. Quất để càng lâu càng tốt. Tết đến, nhiều nhà dùng cây quất để trang trí. Cây quất Tết ngày càng có nhiều kiểu dáng cầu kỳ nhưng vẫn phải bảo đảm sự xum xuê, lá xanh tốt, quả vàng chi chít thể hiện sự trù phú, hứa hẹn năm mới được mùa, ăn nên làm ra, dồi dào sức sống. Chơi Tết xong, cây quất cần có cách giải quyết hợp tình hợp lý thể hiện sâu sắc văn hóa quất của người phương Đông. Nếu có vườn thì để nguyên cây quất trong chậu hoặc cho xuống đất (sẽ phát triển tốt hơn), để cây tiếp tục ra hoa thơm, kết trái đẹp vào các năm sau. Hoàn cảnh chật hẹp ta mới đành lòng bỏ nó đi. Nhưng trước đó phải hái hết quả để làm thức uống giàu dinh dưỡng, có tác dụng phòng chữa bệnh cho gia đình và cộng đồng. Riêng đối với một số bệnh thông thường của trẻ em và người già thì cây quất rất được trọng dụng vì nó vừa là thức ăn, vừa làm thuốc chữa ho tiêu đờm. Vậy mỗi nhà nên trồng cây quất và có bình ngâm quất để dùng dần trong năm (cả cái và nước) mỗi khi cần thiết. Cây quất còn gọi kim quất hoặc quất vàng. Theo Đông y, quả quất vị ngọt chua, tính ấm, vào các kinh phế, vị, can. Có công năng hóa đàm, trị ho, lý khí, giải uất, tiêu thực, giải rượu. Vỏ tác dụng mạnh hơn. Quất để càng lâu càng tốt. Về thành phần hóa học của các quả quất, quýt, cam nói chung gần giống nhau về vitamin C, tinh dầu, chất đường, chất xơ pectin, một số muối khoáng có tác dụng dinh dưỡng và phòng chữa bệnh. Quả quất chín được dùng thay chanh, lá quất được dùng khi không có lá chanh. Chúng đều có tác dụng chữa bệnh hô hấp và tiêu hóa. - Giải khát mùa hè: Nước quất ngâm đường hoặc muối pha loãng, có đá hoặc không. - Chữa ho: Quả quất chín 10g, hoa hồng bạch 10g, hạt chanh 10g, rửa sạch cho vào bát cùng với một ít mật ong hay đường phèn đem hấp cơm 20 phút, lấy ra nghiền nát chắt lấy nước để uống. - Chữa ho gà: Quất 10 quả, gừng tươi 6g, thiên trúc hoàng 6g. Sắc lấy nước uống ngày một lần. - Ho do phế nhiệt: Dùng quả quất với củ cải ép lấy nước uống. - An thần giảm ho: Quất hai quả (bỏ vỏ, hạt, vách múi), bột ngó sen một ít, đường 100g, một ít hoa quế, nấu chè ăn. - Đau chướng bụng: Quất tươi chín ăn liền khoảng 5-10 quả lúc đói. - Nghẹn hoặc thỉnh thoảng bị nghẹn: Vỏ quất 20g sấy khô tán bột, sắc lấy nước uống. - Nôn mửa: Vỏ quất sao 9g, gừng tươi nướng, sắc uống. - Cảm mạo: Lá quất 30g, sắc với 3 bát nước còn một bát, hòa với ít đường cho dễ uống, uống nóng. Ngoài ra, trong vỏ của quất, quýt, cam có chất tinh dầu có khả năng ngăn ngừa phát sinh ung thư gan, thực quản, đại tràng, da… Các nhà khoa học Nhật cho biết, ăn quất cả vỏ sẽ cho vitamin C, chất xơ rất có lợi cho tiêu hóa và hạ được cholesterol, làm vững chắc thành mạch, chữa bệnh tăng huyết áp. Theo Sức khỏe & đời sống Bài 3. Làm quất ngâm đường ăn Tết Với cách làm quất ngâm này bạn vừa có món mứt quất thơm ngon lại có nước uống tốt cho sức khỏe, màu vàng óng ánh của quất còn mang lại vận may cho năm mới sắp đến nữa

Nguyên liệu: Quả quất 400g Đường kính 80g Đường phèn 80g Muối 1 nhúm Nước

Cách làm:
Quất rửa sạch, ngâm vào chậu nước có pha muối. Ngâm trong 15 phút Sau đó vớt quất ra rổ để thật khô nước. Dùng mũi dao sắc nhọn khía nhiều đường trên từng quả quất, khía dọc từ cuống quả thành 6 – 8 múi tùy kích cỡ quả quất. Sau khi khía thì dùng ngón tay hơi ấn cho quả quất dẹt xuống. Khi đã cắt tất cả các quả quất thì dùng tăm nhọn khêu hạt bên trong ra. Bạn có thể bỏ qua bước này nhưng vì thông thường quất rất nhiều hạt nên tốt nhất là loại bỏ chúng đi để thành phẩm được ngon hơn. Loại bỏ hết hạt xong, bạn xếp các quả quất vào một cái lọ sạch, cứ một lớp quất lại rắc một lớp đường trắng. Lần lượt như vậy đến khi hết quất và đầy lọ. Sau đó đậy nắp kín, để trong 3 ngày. Trong thời gian này đường sẽ tan ra, ngấm vào quất và tiết ra nước. Đặt một cái nồi lên bếp, cho 1 chén nước vào, lấy một phần quất và nước cốt trong lọ ngâm ra đổ vào nồi đun. Thêm đường phèn. Đun sôi rồi nhỏ lửa xuống âm ỉ. Đun sôi như vậy trong 15 phút đến khi nước trong nồi hơi sánh lại, các quả quất trở nên trong suốt hơn là được. Quả quất sau khi đun, vớt ra sẽ dẻo, ngọt và trở thành món mứt quất, có thể làm món ăn tráng miệng, nhâm nhi trong lúc uống trà cũng khá hợp. Phần nước đun quất giàu vitamin C pha thành nước uống rất thơm ngon. Mùa lạnh có thể pha với nước sôi, uống nóng vừa làm ấm cơ thể, ngăn ngừa cảm lạnh, thơm miệng lại trị ho, viêm họng rất tốt. Vào ngày nắng nóng thì một ly nước quất thêm đá man mát sẽ giúp bạn nhanh chóng xua tan mệt mỏi. Quất làm xong có thể để ăn trong 1 tuần, nên để tủ lạnh bảo quản tốt hơn


Hạt quất vị chua cay, tính bình, dùng chữa các bệnh về mắt, viêm họng, tinh hoàn sưng to sa xuống dưới, có hạch ở cổ. Còn rễ quất vị chua cay, tính ấm, có tác dụng tỉnh tỳ, hành khí và tán kết, dùng chữa chứng nôn do bệnh lý dạ dày, nấc, nghẹn, mụn nhọt. Theo Đông y, trái quất vị chua ngọt, tính ấm, có tác dụng chữa ho do phong hàn, các bệnh đường tiêu hoá (đầy tức vùng thượng vị, đau dạ dày, nôn mửa, chán ăn), đau bụng hoặc sa dạ con sau sinh... Các bộ phận khác của cây quất như lá, rễ, hạt cũng được dùng làm thuốc. Lá quất vị cay đắng, tính lạnh, có tác dụng thư can (điều hoà, cải thiện chức năng gan), khai vị khí (kích thích tiêu hoá), thông phế khí, chống nôn, nấc, tiêu hạch... Sau đây là một số ứng dụng cụ thể: - Đau họng, miệng khô, răng đau, lưỡi tê: Trái quất 500 g thái thành lát, phơi khô, cho vào lọ cùng 250 g chè xanh, đậy kín, để trong 1 tháng. Mỗi ngày dùng 25 g nước cốt hoà với nước ấm, chia 2-3 lần uống trong ngày. Bài thuốc này còn có tác dụng giải rượu. - Đại tiện khó khăn, bụng trên đầy trướng: Trái quất 50 g, sắc uống trong ngày. - Dạ dày đau, thượng vị đầy tức, nấc, ợ hơi, chán ăn: Trái quất 500 g thái lát, trộn đều với 500 g đường kính trắng, cho vào lọ kín trong 2 tuần. Mỗi ngày 25 g nước cốt hoà với nước ấm, chia nhiều lần uống, dùng liên tục trong nhiều ngày. - Chữa chán ăn và đầy bụng, khó tiêu: Trái quất 100 g ngâm trong 500 ml rượu trắng thấp độ, sau 2 tuần mang ra dùng. Trước mỗi bữa ăn, uống 15-20 ml, dùng liên tục trong nhiều ngày. - Chữa nôn do bệnh lý dạ dày: Rễ quất, hoắc hương, thích lê tử, rễ đông quỳ mỗi thứ 15 g, sắc uống trong ngày. - Chữa viêm loét dạ dày, tá tràng: Rễ quất 30 g rửa sạch, thái thành từng đoạn ngắn; dạ dày lợn 150 g thái miếng. Cho 2 thứ cho vào nồi, thêm nước (hoặc nửa nước nửa rượu) hầm chín, nêm gia vị, ăn cả cái lẫn nước. Bài thuốc này có tác dụng chữa viêm loét dạ dày - tá tràng thể can khí phạm vị. Biểu hiện là thượng vị đau trướng, cơn đau lan ra 2 bên mạn sườn (đau tăng khi ấn vào), buồn nôn, ợ hơi, ăn khó tiêu, trung tiện được thì dễ chịu, đại tiện khó khăn, tinh thần uất ức, rêu lưỡi trắng dày. - Tiểu tiện nhỏ giọt, nước tiểu lẫn máu: Rễ quất 30 g, đường phèn 15 g, sắc với nước uống trong ngày. - Thuỷ thũng: Rễ quất 60 g, nghể (cành và lá) 30 g, vỏ bưởi (để qua mùa đông) 120 g, sắc uống trong ngày. - Chữa âm nang sưng đau: Rễ quất 60 g, chỉ xác 15 g, tiểu hồi hương 30 g, sắc với nước (cho thêm chút rượu), uống ngày 3 lần. - Sa tử cung: Rễ quất 90 g, hoàng tinh sống 30 g, rễ tiểu hồi hương 60 g, dạ dày lợn 1 cái. Tất cả hầm với một phần nước một phần rượu, chia 2 phần ăn trong ngày. - Đau bụng dưới sau đẻ: Rễ quất 120 g, nấu với rượu uống.

Từ xa xưa, trong dịp Tết Nguyên đán, có một loại cây cảnh dùng trang trí không phải bằng hoa mà bằng quả. Đó chính là cây quất. Những quả quất tròn trĩnh với màu đỏ cam hấp dẫn không những làm đẹp cảnh quan ngày Tết mà còn là vị thuốc hay trong y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian. Giá trị chữa bệnh của quả quất bắt nguồn từ một truyền thuyết như sau:  
 

 Cách đây hơn 800 năm, vào giữa tiết trời đông giá lạnh, cả kinh thành Thăng Long vô cùng lo lắng bởi nhà vua và văn võ bá quan trong triều cùng hàng ngàn người dân đột nhiên mắc một chứng bệnh thời khí như sổ mũi, hắt hơi, đau nhức chân tay mình mẩy. Vua Lý Thần Tông đã hạ chiếu cho pháp sư Giới Không Thiền Sư lập đàn tế lễ, nhưng bệnh vẫn không thuyên giảm mà ngày một lan rộng. Các quan ngự y được lệnh sưu tầm dược liệu để chế ra những phương thuốc trị bệnh. Sau một thời gian chạy chữa, các chứng bệnh lui dần duy chỉ còn chứng ho, mất tiếng là dai dẳng kéo dài đến tận giáp tết Nguyên đán. Nhà vua phải xuống chiếu cho nhân dân cả nước xem ai biết môn thuốc gì chữa khỏi chứng ho kéo dài này sẽ được trọng thưởng. Chiếu chỉ ban hành được vài ngày thì có một nông dân tên Hoàng Quyết xin dâng lên nhà vua một vị thuốc dân gian, đó là quả quất luyện với đường phèn để chữa bệnh. Nhà vua bèn dùng thử thấy thuốc vừa chua, vừa ngọt, lại cay tê, đăng đắng, thơm mùi quất, chỉ trong hai ngày là khỏi bệnh. Bài thuốc được phổ biến rộng rãi trong nhân dân và từ đó, cây quất cũng được trồng và dùng làm thuốc chữa bệnh tại kinh thành Thăng Long.

Quả quất được dùng dưới dạng quả còn non hoặc đã chín. Về thành phần hóa học, dịch quả quất chứa pectin 10%, vitamin C 0,13-0,24mg%, Fe 5,1mg%. Cu 0,8mg%, đường, acid hữu cơ và chất fortunelin. Vỏ quả quất chứa tinh dầu gồm 25 thành phần, trong đó cóa-pinen 0,4%, b -pinen 2,7%, sabinen 2,8%, limonen 8,4%, b-ocimen 0,3%, linalol 1,55.

Dược liệu có vị chua, hơi ngọt, the, mùi thơm, tính ấm, không độc, có tác dụng điều khí, kiện tỳ, chỉ khát, giảm ho, tiêu phù, được dùng trong những trường hợp sau:

Chữa ho (nhất là ho ở trẻ em): Quả quất chín (loạibỏ những quả đã ủng nhũn) 10g, rửa sạch, cho vàochén cùng với ít đường phèn hoặc mật ong, đem hấp chín trong 15-20 phút. Nghiền nát, để nguội, cho trẻ uống làm 3 lần trong ngày. Dùng 3-4 ngày. Có thể phối hợp với hoa hồng bạch 10g và hạt chanh 10g. Cách làm và dùng như trên.

Chữa hậu sản, phù nề, vàng da: Quả quất non 50g, nghệ vàng 100g, nghệ đen 100g, hương phụ 100g, cặn nước tiểu 5g. Tất cả thái mỏng, phơi khô, tán bột mịn, trộn với mật ong làm viên bằng hạt ngô. Ngày uống 10 viên.

Nước giải khát có tác dụng bổ, dễ tiêu: Quả quất chín 1kg rửa sạch, để ráo nước. Dùng kim sạch châm sâu vào quả 5-6 lỗ, rồi cho vào lọ rộng miệng cùng với đườngkính 2kg; cứ một lớp quất lại một lớp đường. Đậy kín, để trong 7 ngày, được dịch quất đường (sirô quất) màu vàng, mùi thơm. Khi dùng, lấy 1-2 thìa to sirô này pha với 150ml nước đun sôi để nguội, khuấy đều mà uống.

 Theo tài liệu nước ngoài, vỏ quả quất tươi 9g, phối hợp với gừng tươi nướng vàng 9g, sắc với 200ml nước còn 50ml, uống làm một lần trong ngày, chữa nôn mửa. Để chữa nghẹn nấc ở người cao tuổi, lấy vỏ quả quất 20g, phơi hoặc sấy khô, tán bột rồi uống với nước ấm.
 

 Hạt quất là thuốc cầm máu, giảm ho, chống nôn:

Chữa ho lâu ngày không khỏi: Hạt quất 10g, lá thạch xương bồ 10g, hạt chanh 10g, mật gà đen 1 cái. Tất cả để tươi, giã nát, thêm đường, hấp cơm, uống làm 2-3 lần trong ngày.

 Chữa nôn ra máu: Hạt quất 1 chén nhỏ, bóc bỏ vỏ, lấy nhân, sao vàng, giã nhỏ, sắc uống làm 2 lần trong ngày. Chú ý: Tránh nhầm hạt quất với hạt quýt (y học cổ truyền gọi là quất hạch).

Tác dụng chữa bệnh từ cây quất

Trung Giang   -Thứ Hai, 14/01/2008, 12:11 (GMT+7)

Hoa quất cũng thơm nhẹ, sai hoa và cánh trắng đẹp. Nếu trồng vào chậu chỉ cho hoa, chăm sóc tốt lắm mới cho quả nhưng ít. Cây quất đòi hỏi đất phù sa tốt do đó nên thay bằng đất phù sa sông vài ba năm một lần.

Ngày xuân có rất nhiều gia đình lùng mua cho bằng được những chậu quất đẹp, sai quả về nhà chơi Tết. Có nhiều gia đình chơi xong giữ lại dùng để làm thuốc. Tác dụng chữa bệnh của cây quất đã được đông y biết đến từ xưa. Quả quất, lá quất, rễ quất đều là thuốc quí.

Trước hết, ta có thể tự chế một loại rượu khai vị rất ngon từ quả quất. 100g quả quất cần ngâm với 500ml rượu trắng, lượng quả nhiều hơn thì thêm rượu theo tỉ lệ như vậy. Ngâm khoảng hai tuần là có thể dùng được. Hằng ngày, trước mỗi bữa ăn uống từ 15-20 ml rất tốt bởi nó có tác dụng giúp ăn ngon miệng và chữa bụng trướng đầy, ấm ách khó tiêu. Ngoài ra có thể dùng 500g trái quất, thái thành lát, phơi khô, cùng với 250g chè xanh cho vào một cái lọ nắp kín, để trong một tháng. Hằng ngày dùng 25g (khoảng 1 thìa canh) nước cốt hoà với nước âm ấm, uống 2-3 lần trong ngày để chữa đau họng, miệng khô, răng đau lưỡi tê hoặc dùng để giải rượu. Còn với 500g trái quất thái lát, trộn đều cùng 500g đường kính trắng, cho vào lọ nắp kín ngâm trong hai tuần mỗi ngày dùng 25g nước cốt hoà với nước âm ấm, uống nhiều lần trong ngày và uống liên tục vài ngày để chữa dạ dày đau, vùng thượng vị đầy tức, nấc, ợ hơi, chán ăn. Còn ai đại tiện khó khăn, ngực bụng chướng đầy thì dùng 50g trái quất sắc nước uống.

Với rễ quất. Người ta thường dùng rễ quất để chữa nhiều loại bệnh cho phụ nữ. Phụ nữ sau khi đẻ bị bụng dưới đau nhói, lấy 120g rễ quất nấu với rượu uống; còn phụ nữ bị sa tử cung lấy 90g rễ quất, 30g hoàng tinh sống, 60g rễ cây thìa là, 1 cái dạ dày lợn hầm với nửa nước nửa rượu, chia thành hai phần ăn trong ngày. Ngoài ra với 30g rễ quất, 15g đường phèn, sắc uống thay nước trong ngày để chữa bệnh tiểu tiện nhỏ giọt, nước tiểu có lẫn máu. Hoặc dùng 60g rễ quất; 15g chỉ xác (có thể thay bằng vỏ quả chanh, vỏ quýt); 30g hạt thìa là sắc với nước, thêm chút rượu, uống ngày ba lần để chữa âm nang sưng đau.


Tác dụng chữa bệnh của cây quất


Hạt quất vị chua cay, tính bình, dùng chữa các bệnh về mắt, viêm họng, tinh hoàn sưng to sa xuống dưới, có hạch ở cổ. Còn rễ quất vị chua cay, tính ấm, có tác dụng tỉnh tỳ, hành khí và tán kết, dùng chữa chứng nôn do bệnh lý dạ dày, nấc, nghẹn, mụn nhọt.

fd

Quất không chỉ là cây cảnh đẹp mà còn là vị thuốc quý.

Theo Đông y, trái quất vị chua ngọt, tính ấm, có tác dụng chữa ho do phong hàn, các bệnh đường tiêu hoá (đầy tức vùng thượng vị, đau dạ dày, nôn mửa, chán ăn), đau bụng hoặc sa dạ con sau sinh... Các bộ phận khác của cây quất như lá, rễ, hạt cũng được dùng làm thuốc. Lá quất vị cay đắng, tính lạnh, có tác dụng thư can (điều hoà, cải thiện chức năng gan), khai vị khí (kích thích tiêu hoá), thông phế khí, chống nôn, nấc, tiêu hạch...

Sau đây là một số ứng dụng cụ thể:

- Đau họng, miệng khô, răng đau, lưỡi tê: Trái quất 500 g thái thành lát, phơi khô, cho vào lọ cùng 250 g chè xanh, đậy kín, để trong 1 tháng. Mỗi ngày dùng 25 g nước cốt hoà với nước ấm, chia 2-3 lần uống trong ngày. Bài thuốc này còn có tác dụng giải rượu.

- Đại tiện khó khăn, bụng trên đầy trướng: Trái quất 50 g, sắc uống trong ngày.

- Dạ dày đau, thượng vị đầy tức, nấc, ợ hơi, chán ăn: Trái quất 500 g thái lát, trộn đều với 500 g đường kính trắng, cho vào lọ kín trong 2 tuần. Mỗi ngày 25 g nước cốt hoà với nước ấm, chia nhiều lần uống, dùng liên tục trong nhiều ngày.

- Chữa chán ăn và đầy bụng, khó tiêu: Trái quất 100 g ngâm trong 500 ml rượu trắng thấp độ, sau 2 tuần mang ra dùng. Trước mỗi bữa ăn, uống 15-20 ml, dùng liên tục trong nhiều ngày.

- Chữa nôn do bệnh lý dạ dày: Rễ quất, hoắc hương, thích lê tử, rễ đông quỳ mỗi thứ 15 g, sắc uống trong ngày.

- Chữa viêm loét dạ dày, tá tràng: Rễ quất 30 g rửa sạch, thái thành từng đoạn ngắn; dạ dày lợn 150 g thái miếng. Cho 2 thứ cho vào nồi, thêm nước (hoặc nửa nước nửa rượu) hầm chín, nêm gia vị, ăn cả cái lẫn nước. Bài thuốc này có tác dụng chữa viêm loét dạ dày - tá tràng thể can khí phạm vị. Biểu hiện là thượng vị đau trướng, cơn đau lan ra 2 bên mạn sườn (đau tăng khi ấn vào), buồn nôn, ợ hơi, ăn khó tiêu, trung tiện được thì dễ chịu, đại tiện khó khăn, tinh thần uất ức, rêu lưỡi trắng dày.

- Tiểu tiện nhỏ giọt, nước tiểu lẫn máu: Rễ quất 30 g, đường phèn 15 g, sắc với nước uống trong ngày.

- Thuỷ thũng: Rễ quất 60 g, nghể (cành và lá) 30 g, vỏ bưởi (để qua mùa đông) 120 g, sắc uống trong ngày.

- Chữa âm nang sưng đau: Rễ quất 60 g, chỉ xác 15 g, tiểu hồi hương 30 g, sắc với nước (cho thêm chút rượu), uống ngày 3 lần.

- Sa tử cung: Rễ quất 90 g, hoàng tinh sống 30 g, rễ tiểu hồi hương 60 g, dạ dày lợn 1 cái. Tất cả hầm với một phần nước một phần rượu, chia 2 phần ăn trong ngày.

- Đau bụng dưới sau đẻ: Rễ quất 120 g, nấu với rượu uống.


Quả quất (miền Nam gọi là quả tắc) có tác dụng kiện tỳ, thông phổi, trừ đờm, trị ho cảm, giải uất, giải rượu, có thể chế biến thành nước giải khát. Nó chứa nhiều vitamin A, C, B1, B11, và canxi, phốt pho, kali, kẽm…

Một số nghiên cứu của Nhật Bản cho biết, quả quất có tác dụng làm giảm cholesterol, bền thành mạch, có lợi cho người cao huyết áp. Các nhà khoa học tại Viện Y tế Quốc gia Mỹ cho hay, trong quả quất có nhiều chất chống ôxy hóa chứa proanthocyanidins, giúp ngăn ngừa vi khuẩn, giảm nhiễm trùng đường tiết niệu, có lợi cho bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt.

Theo kinh nghiệm dân gian, có thể dùng loại quả này để điều trị các chứng bệnh thông thường như viêm họng, ho, tắc tiếng, cảm. Có thể dùng nó chế biến nước giải khát như nước quất đường, nước quất ép, hoặc chỉ ngậm quất với muối, hay dùng vỏ quất sao với gừng sắc uống…

Một số cách sử dụng quả quất:

- Quả quất 10 gr, cho vào chén với đường phèn hoặc mật ong, chưng cách thủy, hoặc cho vào nồi cơm chưng khoảng 20 phút, để nguội, cho trẻ uống ngày 3 lần để chữa ho, cảm.

- Quả quất rửa sạch, xăm lỗ, ngâm với đường theo tỷ lệ 1 kg quất 2 kg đường, sau một tuần dùng được. Mỗi lần lấy một thìa canh pha với một ly nước ấm. Trong những ngày lễ tết, trẻ nhỏ thường ham chơi, nô đùa la hét nhiều, thức khuya, hay ra đường chơi hít phải khói bụi... nên dễ bị cảm lạnh gây khàn tiếng, tắt tiếng, đau họng. Lúc này, nên cho trẻ dùng một ly nước quất để phòng ngừa viêm họng, ho.


Tác dụng chữa bệnh của Quất





 

Trái Tắc còn gọi là trái Quất. Vào dịp Tết, cây nở xum xuê trái màu vàng, vì vậy còn gọi là Kim quất. Khi trái chín có màu vàng sáng, vỏ hơi ngọt và rất thơm, những múi trong quả có vị chua.
Đông y cho rằng quất có vị cay ngọt, hơi chua, tính ấm, làm tan đờm, giảm ho, điều hòa khí, kiện tỳ, giải các chất ứ đọng, tiêu hóa thức ăn và tỉnh rượu.

Các tiệm bán trái cây thường dùng Cam thảo, muối, để làm thành Kim quất khô, có tác dụng hạ khí, tiêu thực.

Trong quất chứa nhiều vitamin A, C, B1, B12, và calci, phosphor, kali, kẽm...
Một số nghiên cứu của Nhật Bản cho biết, quả quất có tác dụng làm giảm Cholesterol, bền thành mạch, có lợi cho người cao huyết áp. Các nhà khoa học tại Viện y tế quốc gia Mỹ cho hay, trong quả quất có nhiều chất chống oxy hóa chứa proanthocyanidins, giúp ngăn ngừa vi khuẩn, giảm nhiễm trùng đường tiết niệu, có lợi cho bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt.
 
ĂN TẮC CÓ TÁC DỤNG CHỮA BỆNH NHƯ THẾ NÀO?
Theo kinh nghiệm dân gian, có thể dùng loại quả này để điều trị các chứng bệnh thông thường như viêm họng, ho, tắc tiếng, cảm. Có thể dùng nó chế biến nước giải khát nước tắc đường, nước tắc ép, hoặc chỉ ngậm quất với muối, hay dùng vỏ tắc sao với gừng sắc uống...
Vỏ quả tắc và ruột tắc đều có thể dùng. Tắc có vị chua ngọt, ngon miệng và có giá trị dinh dưỡng.

Những người mắc cao huyết áp, xơ cứng mạch máu, bệnh tim, ăn tắc có thể giúp cho bệnh giảm, thân thể khỏe mạnh.

Những người ứ khí không thông, ăn không tiêu, chướng bụng, bí hơi có thể dùng 3 quả tắc nhai kỹ rồi nuốt, cũng có thể thêm nước sôi làm trà uống.
Người bị sa đì có thể lấy 10 quả tắc khô, giã nhỏ, thêm một nửa nước, một nửa rượu vào sắc uống. Uống vào buổi tối và buổi sáng.
Người bị cảm, ăn không ngon miệng, có thể dùng 30g tắc, dầm đường, nhai chậm rồi nuốt.
Kim quất để lâu năm, có nhiều giá trị về dược liệu. Kim quất để lâu, là loại Kim quất được muối và phơi khô, cất giữ trong hũ sành. Thời gian cất giữ càng lâu, sẽ có công hiệu càng lớn. Nếu sau khi ăn uống xong mà có cảm giác nặng ngực, cổ khô, thỉnh thoảng đàm vãi vướng cổ, khạc không ra, do đó mà bị ho. Hoặc bình thường có bệnh khí thống, mỗi khi phát bệnh, nên lấy 9 - 10 quả Kim quất để lâu năm, nấu nước uống, hoặc nghiền nát ra, chế nước sôi vào uống, có thể làm hạ khí, tiêu trệ, chỉ thống.
Lá và hạt của Kim quất để có thể làm thuốc. Điều trị chứng sán khí (Bệnh sa đì, thoát vị bẹn...), chỉ đơn độc dùng hạt Kim quất 12g, giã cho thật nát, nấu sôi nửa chén rượu gạo, đổ vào với hạt Kim quất để uống. Hoặc dùng 30 lá Kim quất tươi, 5 chỉ, hạt Kim Quất 15g, Hồ lô ba 6g, Đào nhân 6g, Hồi hương 4,5g, sắc thành thuốc nước để uống, có kết quả khá tốt.
Mùa Tết, trái Tắc nở rộ rất nhiều, sau Tết thường người ta vứt đi, chúng ta có thể tận dụng những trái tắc đó để chế biến thành vị thuốc hữu ích khi cần.
Dùng khoảng 1kg trái Kim quất chín, để ngoài gió cho tới lúc da nó nhăn, rồi mới dùng tới 8g bạch phàn (phèn chua), 6g Phác tiêu, 60g muối ăn, tất cả được nghiền thật mịn, trộn đều vào trái quất, đựng vào chậu sành, đem ra nắng phơi, thỉnh thoảng trộn đều cho tới khi thật khô, đem cất vào hũ sành để dành.
Trái tắc ướp thuốc, có tác dụng đối với người đàm nhiều, nặng ngực, làm hô hấp khó khăn, lên cơn suyễn, hoặc cổ họng bị viêm chỉ cần lấy một vài quả ngậm vào miệng, từ từ nuốt nước, sẽ tiêu đàm, thuận khí, tiêu viêm.
Nếu gặp trường hợp nặng, dùng 9 - 10 quả tắc ướp thuốc, giã thật nát, chế nước sôi để uống, sẽ có hiệu quả càng nhanh.
 
Một cách chế biến khác:
Cứ một lớp trái tắc thì cho vào một lớp đường phèn và vài miếng Cam thảo bắc, mấy miếng Cát cánh, cứ như thế cho tới khi bỏ hết trái tắc vào hũ (Khoảng 100g Cam thảo và 100g Cát cánh là đủ). Đậy nắp hũ lại kín, rồi phơi chỗ hướng đông (buổi sáng nắng, buổi chiều mát). Phơi khoảng 1 tháng, khi đường đã tan ra và thấm vào trái tắc, cùng các hoạt chất trong Cam thảo, Cát cánh và tinh dầu trong trái tắc hòa lẫn vào nhau, tạo nên một hỗn hợp vừa ngọt, vừa chua, vừa đắng...Là lúc có thể dùng được. Mỗi khi bị ho hay viêm họng có thể lấy 1 trái tắc và khoảng 1 muỗng (5ml) dung dịch trong hũ, ngậm trong miệng, sau đó từ từ nuốt  cho hết nước, rồi nhai cho hết trái tắc, có thể nhai luôn cả hột càng tốt, sau đó uống với một chút nước ấm. Mỗi ngày có thể dùng 2 - 3 lần như vậy, rất công hiệu.
Một cách chế biến khác nữa: 1kg  tắc, rửa sạch, để ráo, 1kg muối bọt, 5g Cam thảo khô bào mỏng. Dùng hũ có miệng rộng vừa đủ, trộn đều cam thảo với muối, sắp vào đáy lọ một lớp muối, trải lên một lớp tắc, phủ muối lên lớp tắc rồi làm tiếp một lớp tắc khác, đến một lớp muối. Không sắp đầy hủ, phải chừa cách cái miệng hũ chừng 5 cm. Dùng vài thanh tre mỏng hoặc một đĩa sành nặng, bỏ lọt miệng hũ, dằn lên trên mặt tắc sao cho khi trong hũ dậy nước, tắc sẽ không nổi lên mặt nước muối. Đậy kín nắp hũ, phơi ra nắng mỗi ngày cho đến khi  muối và tắc tươm ra nước.
Cách làm này đơn giản, thời gian muối tương đối lâu, trái tắc muối phồng tròn đẹp mắt, nước và tắc ửng sắc vàng nâu nhờ Cam thảo nhưng cho vị tắc muối rất đậm đà.
Khi dùng lấy ra, dầm nát nguyên trái hoặc tùy ý bỏ phần xác hột. Để càng lâu, trái tắc càng có màu nâu đen, tóp hẳn lại và có vị thơm rất đậm đà nhưng dịu chứ không gắt. Khi bị ho khan tiếng nên ngậm một chút vỏ tắc muối sẽ đỡ nhiều.
 
MỘT SỐ BÀI THUỐC CHỮA BỆNH BẰNG TẮC:
Cảm mạo: Lá tắc 30g, đổ 3 bát nước sắc còn 1 bát, hòa đường vừa đủ, uống lúc nóng.
Nôn mửa: Vỏ tắc, gừng tươi, đốt nung mỗi thứ 9g, sắc uống.
Nghẹn: Vỏ tắc 20g, sấy khô, tán thành bột, sắc uống nóng.
Sa nang sưng đau: Rễ tắc 15 - 16g, sắc uống.
 
Ho nhiều đờm: 
+ Tắc 5 quả, đường phèn vừa đ���, hấp cách thủy, ngày ăn 2 lần, liền trong 3 ngày.
+ Quả tắc 10g, cho vào chén với đường phèn hoặc mật ong, chưng cách thủy, hoặc cho vào nồi cơm chưng khoảng 20 phút, để nguội, cho trẻ uống ngày 3 lần.

 

+ Quả tắc rửa sạch, xăm lỗ, ngâm với đường theo tỷ lệ 1 kg quất, 2 kg đường, sau một tuần dùng được. Mỗi lần lấy một thìa canh pha với một ly nước ấm.
 
Đau chướng bụng: Tắc tươi ăn liền 10 quả lúc đói.

Ho gà trẻ em: Tắc 10g, gừng tươi 6g, sắc uống, mỗi ngày 1 lần.

 Tham khảo thêm


 

Truyền thuyết về tác dụng chữa bệnh của cấy quất


Mùa đông cách đây hơn 800 năm, vua Lý Thần Tông cùng bá quan và hàng nghìn dân chúng mắc chứng cảm rồi ho dai dẳng. Bệnh ngày một lan rộng, thuốc thang và tế lễ không làm thuyên giảm.

Truyền thuyết về tác dụng chữa bệnh của cấy quất

Ảnh: Wikimedia.

Mùa đông cách đây hơn 800 năm, vua Lý Thần Tông cùng bá quan và hàng nghìn dân chúng mắc chứng cảm rồi ho dai dẳng. Bệnh ngày một lan rộng, thuốc thang và tế lễ không làm thuyên giảm.

Cả kinh thành Thăng Long vô cùng lo lắng bởi chứng bệnh thời khí với biểu hiện sổ mũi, hắt hơi, đau nhức chân tay mình mẩy. Vua Lý Thần Tông đã hạ chiếu cho pháp sư Giới Không Thiền Sư lập đàn tế lễ, nhưng bệnh vẫn lan rộng. Các quan ngự y được lệnh sưu tầm dược liệu để chế ra những phương thuốc trị bệnh.

Sau một thời gian chạy chữa, các triệu chứng lui dần duy chỉ còn chứng ho, mất tiếng là dai dẳng kéo dài đến tận giáp Tết Nguyên đán. Nhà vua phải xuống chiếu cho nhân dân cả nước xem ai biết môn thuốc gì chữa khỏi chứng ho kéo dài này sẽ được trọng thưởng.

Chiếu chỉ ban hành được vài ngày thì có một nông dân tên Hoàng Quyết xin dâng lên nhà vua một vị thuốc dân gian, đó là quả quất luyện với đường phèn để chữa bệnh. Nhà vua bèn dùng thử, thấy thuốc vừa chua, vừa ngọt, lại cay tê, đăng đắng, chỉ trong hai ngày là khỏi bệnh. Bài thuốc được phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Từ đó, cây quất cũng được trồng làm thuốc chữa bệnh tại kinh thành Thăng Long.

Quả quất được dùng dưới dạng quả còn non hoặc đã chín. Dược liệu có vị chua, hơi ngọt, the, mùi thơm, tính ấm, không độc, có tác dụng điều khí, kiện tỳ, làm ngừng cơn khát, giảm ho, tiêu phù, được dùng trong những trường hợp sau:

Chữa ho (nhất là ho ở trẻ em): Quả quất chín 10 g rửa sạch, cho vào chén cùng với ít đường phèn hoặc mật ong, đem hấp chín trong 15-20 phút. Nghiền nát, để nguội, cho trẻ uống làm 3 lần trong ngày. Dùng 3-4 ngày. Có thể phối hợp với hoa hồng bạch 10 g và hạt chanh 10 g. Cách làm và dùng như trên.

Nước giải khát bổ dưỡng, giúp dễ tiêu hóa: Quả quất chín 1 kg rửa sạch, để ráo nước. Dùng kim sạch châm sâu vào quả 5-6 lỗ, rồi cho vào lọ rộng miệng cùng với đường kính 2 kg; cứ một lớp quất lại một lớp đường. Đậy kín, để trong 7 ngày, được dịch quất đường màu vàng, mùi thơm. Khi dùng, lấy 1-2 thìa to pha với 150 ml nước đun sôi để nguội, khuấy đều mà uống.

Theo tài liệu nước ngoài, có thể lấy vỏ quả quất tươi 9 g, phối hợp với gừng tươi nướng vàng 9 g, sắc với 200 ml nước còn 50 ml, uống làm một lần trong ngày để chữa nôn mửa. Để chữa nghẹn nấc ở người cao tuổi, lấy vỏ quả quất 20 g, phơi hoặc sấy khô, tán bột rồi uống với nước ấm.


Mứt quất chữa bệnh


Mỗi dịp năm mới, cây quất vàng thường được dùng để trang trí. Sau đó, nhiều gia đình thường bỏ cả cây quả chín mà không biết rằng, quả quất có thể làm mứt, làm nước uống rất thơm ngon. Đồng thời, đây cũng là một vị thuốc chữa bênh hô hấp và tiêu hóa hiệu quả.

Nguyên liệu:

* Kim quất (quất, quất vàng) 400gr

* Đường 80 gr

* Đường viên 80gr

* Muối

* Lượng nước vừa phải

Cách làm:

Ngâm quất trong bát nước sạch có pha muối khoảng 10 phút. Rửa quất sạch trong nước muối, lấy ra, để khô.

Đặt quất theo chiều dọc của quả, dùng dao nhọn kía 6,7 đường chia đều quả quất. Lưu ý, không cắt rời.Số lượng khía chia tùy thuộc vào kích thước của quả. Dùng ngón tay ấn nhẹ quả quất cho dẹp như hình ảnh.


Dùng tăm nhỏ lấy hết những hạt quất ra. Cho quất vào một lọ thủy tinh sạch, từng lớp từng lớp một. Mỗi lớp lại rắc 1 lớp đường trắng.

Làm lần lượt cho đến hết, sau đó đậy kín, để nguyên trong 3 ngày. Đường sẽ tan ra tạo thành nước.

Sau 3 ngày, đổ lọ quất vào trong nồi, thêm một chút nước , thêm đường viên, đun sôi. Sau khi sôi, đun nhỏ lửa đến khi đường viên tan hết, nước đường sánh lại và vỏ quất có mầu bóng.

Mứt quất có thể được ăn tráng miệng, hoặc dùng để pha nước uống.

Cây quất còn gọi kim quất hoặc quất vàng. Theo Đông y, quả quất vị ngọt chua, tính ấm, vào các kinh phế, vị, can.
Có công năng hóa đàm, trị ho, lý khí, giải uất, tiêu thực, giải rượu. Vỏ tác dụng mạnh hơn. Quất để càng lâu càng tốt.Chúng đều có tác dụng chữa bệnh hô hấp và tiêu hóa.

Ngoài ra, trong vỏ của quất, quýt, cam có chất tinh dầu có khả năng ngăn ngừa phát sinh ung thư gan, thực quản, đại tràng, da...
Các nhà khoa học Nhật cho biết, ăn quất cả vỏ sẽ cho vitamin C, chất xơ rất có lợi cho tiêu hóa và hạ được cholesterol, làm vững chắc thành mạch, chữa bệnh tăng huyết áp.



Tác dụng chữa bệnh của hoa hòe
Tác dụng chữa bệnh của cây bồ công anh
Tác dụng chữa bệnh của cây sim
Tác dụng chữa bệnh của cây thìa canh
Tác dụng chữa bệnh của cây nắp ấm
Tác dụng chữa bệnh của củ gừng


(st)

Hỏi đáp, bình luận, trả bài:
co the dung quat thay chanh d­uoc khong
hơn 1 tháng trước - Thích - Trả lời
*địa chỉ email của bạn được bảo mật

Hot nhất
Top xink
Bộ sưu tập
Chợ xink
Thanh lý