Thần kinh phụ nữ

Nhanluu1294 Nhanluu1294 @Nhanluu1294

Thần kinh phụ nữ

18/04/2015 10:40 AM
149

So với nam giới

Bộ não của nam giới thường to và nặng hơn bộ não của phụ nữ vì trọng lượng trung bình cơ thể nam giới to và nặng hơn cơ thể của nữ giới. Kích cỡ và hình dạng các phân khu của bộ não cũng hơi khác nhau giữa hai giới. Ví dụ, về tỉ lệ, đại não của phụ nữ to hơn của đàn ông.

Ở đa số người , bán cầu não trái là bán cầu trội, có nhiệm vụ tổ chức ngôn ngữ và suy nghĩ logic. Bán cầu não phải nhỏ hơn và liên quan đến những xử lý tổng thể và không gian. Ở nữ, sự khác nhau giữa 2 bán cầu não xảy ra muộn hơn so với nam, và nhiều phụ nữ ít có sự khác biệt giữa chức năng tổng thể và chức năng logic như đàn ông. Các nhà khoa học cho rằng sự khác biệt này có thể do ảnh hưởng của điều kiện sống chứ không phải do giới tính quyết định cấu trúc não.

Giải  phẫu học bộ não

Bộ não kiểm soát mọi hoạt động của chúng ta, gồm cả hoạt động có ý thức, tiềm thức và tự chủ. Đây là nơi chi phối nhân cách người phụ nữ, quyết định trí thông minh và kỹ năng của họ. Bộ não tiêu thụ đến 20% oxy và năng lượng của cơ thể.

Đại não (não trước) là trung tâm điều khiển của bộ não có liên quan đến ý thức. Nó gồm 2 bán cầu đại não, được bao bọc bởi lớp vỏ não là chất xám với nhiều rãnh sâu. Vỏ não giúp con người nhận thức, hiểu, giao tiếp và thực hiện các cử động có ý thức. Hai bán cầu đại não được nối với nhau bằng thể chai có chứa hơn 200 triệu dây thần kinh. Hải mã và thể hạnh nhân là những bộ phận thuộc hệ bản tính, là nơi điều khiển cảm xúc, có liên quan đến việc lưu giữ ký ức mới. Hạnh nền giúp tổ chức các đáp ứng vận động phức tạp và sự hưng phấn. Gian não chứa đồi thị, một trung tâm phân bổ thông tin, vùng hạ đồi và tuyến yên, trung tâm điều khiển hoạt động nội tiết trong cơ thể.

Não giữa và não sau hình thành nên thân não, là nơi chuyển tiếp thông tin đến và đi từ tủy sống, chịu trách nhiệm về các chức năng như hô hấp, ngủ và tỉnh thức. Tiểu não là vùng não có nhiệm vụ tính chỉnh các cử động.

Noron ( Neuron) và Xinap ( Synapse)

Não chứa khoảng 100 tỷ nơron (tế bào thần kinh). Mỗi nơron có một sợi trục và nhiều sợi nhánh.

Sợi trục của nơron được phân nhánh để nối với nhiều sợi nhánh của các nơron khác tại các khớp thần kinh hay còn gọi là xináp. Có hơn 100.000 tỷ xináp trong não.

Xung điện chạy xuống sợi trục và phóng thích các hoá chất trong túi xináp ở đầu tận cùng của sợi trục. Hoá chất này sẽ vượt qua khe xináp đến sợi nhánh để gây tác dụng kích thích hoặc ức chế. Xináp sẽ trở nên mạnh hơn sau nhiều lần sử dụng, nhờ đó lập nên ký ức.

Bản đồ não

Mỗi phân khu vỏ não chịu trách nhiệm về một chức năng riêng biệt. Ở các phân khu về giác quan (nghe, nhìn) và điều khiển vận động, mỗi nơi đều chứa một “bản đồ” cơ thể. Các khía cạnh khác nhau của một kích thích như màu sắc, hình dạng và cử động của quả bóng sẽ được “nhìn thấy” ở những vùng khác nhau của phân khu thị giác.

Các khía cạnh khác nhau đó sẽ được kết hợp lại với nhau ở các vùng liên hợp của thuỳ đỉnh, thuỳ thái dương và thuỳ trán.

Các trung khu ngôn ngữ

Bán cầu não trái có nhiệm vụ xử lý các thông tin của lời nói. Vùng Wernicke ở vỏ não sau là trung khu lĩnh hội lời nói, còn vùng Broca ở vỏ não trước có nhiệm vụ phát sinh lời nói. Đột quỵ hoặc u não ở những vùng này có thể gây ra chứng mất ngôn ngữ hoặc các vấn đề ngôn ngữ đặc trưng, như mất khả năng hiểu lời nói nếu vùng Wernicke bị tổn thương, không thể nói năng mạch lạc nếu vùng Broca bị tổn thương. Bán cầu não phải có nhiệm vụ giải quyết các vấn đề về cảm xúc trong lời nói. Tổn thương các vùng tương đương Wernicke và Broca sẽ làm mất đi khả năng cảm nhận và phát sinh cảm xúc trong lời nói.

Liệu pháp lời nói có tác dụng hỗ trợ những người gặp vấn đề về giao tiếp. Những phụ nữ bị rối loạn ngôn ngữ, rối loạn phát âm hoặc nói chuyện không trôi chảy có thể áp dụng liệu pháp lời nói.

Trị liệu gồm hai phần hoàn toàn tách biệt nhau. Một là tiến hành chương trình luyện tập để cải thiện một mặt nào đó trong khả năng ngôn ngữ hoặc phát âm (như cải thiện mức độ trôi chảy của lời nói). Hai là các chuyên viên trị liệu sẽ làm việc với những người thường xuyên tiếp xúc với bệnh nhân (như thành viên gia đình, thầy cô giáo hoặc bạn thân) để giải thích cho họ biết bản chất của vấn đề mà bệnh nhân đang gặp phải và cách hỗ trợ cho bệnh nhân. Mục đích nhằm tạo ra môi trường thuận lợi nhất để bệnh nhân có thể giao tiếp hiệu quả hơn về sau.

Hai bán cầu não

Luồng thông tin từ bên này của cơ thể sẽ đi sang bên kia ở trong não; do đó bán cầu não trái sẽ nhận cảm giác và kiểm soát phần cơ thể bên phải và ngược lại. Các bán cầu não đã được chuyên biệt hoá cho những chức năng khác nhau.

Ví dụ, bán cầu não trái kiểm soát nội dung thông tin của người nói, phân tích tuần tự và logic, học các kỹ năng âm nhạc. Bán cầu não phải kiểm soát cảm xúc của lời nói, nghe nhạc, nhận thức tổng thể và không gian.

Đa số người thuận tay phải có bán cầu não trái trội hơn. Những người thuận tay trái thì sự bất đối xứng giữa hai bán cầu não là không đáng kể. Số người thuận tay trái còn lại, bán cầu não phải trội hơn. Những người thuận tay trái có khuynh hướng mắc chứng khó đọc. Chứng khó đọc ít gặp ở phụ nữ hơn đàn ông.

Điều khiển vận động

Đa số các cử động của cơ thể đều được phát sinh bởi vỏ vận động để đáp ứng với tín hiệu cảm giác đến từ khắp cơ thể hoặc từ môi trường xung quanh. Từ vỏ não, tín hiệu sẽ chạy qua một quai nơron ngang hạch nền và trở về vỏ não. Vòng phản hồi này sẽ giúp điều hoà tín hiệu vận động từ vỏ não gửi đến cơ thể. Các trung khu thần kinh liên quan đến quai nơron này có 2 chức năng riêng biệt: Một số khuếch đại tín hiệu, còn số kia thì kìm hãm lại. Quai nơron thứ 2 giữa vỏ não và tiểu não có vai trò tinh chỉnh cử động và điều hoà sự phối hợp.

Bộ nhớ vận động

Các cử động nhanh, khéo léo như viết, chơi nhạc hoặc đánh máy… đều được bộ não lưu giữ. Khi bạn tập luyện và lặp lại cử động thường xuyên sẽ hình thành nên “bộ nhớ vận động”. Tiểu não cũng hỗ trợ việc học các kỹ năng vận động. Một khi bộ nhớ vận động được hình thành, thì phần ý thức của não không cần thiết phải tham gia nữa và hành động có thể được thực hiện qua “điều khiển từ xa”. Các cử động phức tạp như chơi nhạc cũng được ghi nhớ theo cách này.

Cơ chế đau

Cơ chế này nhằm mục đích báo cho cơ thể biết vùng mô bị tổn thương. Mô tổn thương tiết ra hoá chất kích thích tận dây thần kinh cảm giác tại chỗ để gửi tín hiệu đau lên não qua đường tuỷ sống.

Cơ thể có khả năng làm giảm mức độ đau bằng cách sản xuất endorphin. Đây là loại hoá chất có tác dụng ngăn cản đường truyền tín hiệu đau tại Xináp. Morphine và các dược chất liên quan hoạt động bằng cách bắt chước tác động của endorphin tại cùng các xináp.

Năng lực của xúc giác

Vùng vỏ cảm giác thân thể là nơi xử lý thông tin từ các thụ thể xúc giác ở khắp cơ thể. Vùng vỏ não điều khiển càng lớn thì xúc giác càng nhạy. Mô hình cảm giác phản ánh theo tỷ lệ mức độ quan trọng giữa các bộ phận cơ thể phụ nữ.

Quan sát bộ não

Trước khi các kỹ thuật hình ảnh phát triển cho phép khảo sát hoạt động của bộ não sống, các chuyên gia thần kinh học nghiên cứu bộ não bằng cách đối chiếu sự khác nhau trong hành vi và khả năngcủa những bệnh nhân bình thường và những bệnh nhân bị hư não với những quan sát giải phẫu học. Ngoài ra, họ còn dùng các thử nghiệm thâm nhập trên khỉ. Giờ đây, não sống có thể được quan sát một cách tự nhiên bằng phường pháp cộng hưởng từ MRI để bộc lộ các chi tiết và phương pháp chụp PET (chụp cắt lớp phát tán positron) để lượng giá hoạt động của các khu vực đặc biệt trong não bằng cách đo dòng máu chảy qua chúng.

Sự linh hoạt của não

Khi còn trong bụng mẹ, não của nữ phát triển nhanh hơn của nam, và tất cả các hệ thống cơ quan của nữ đều hình thành đầy đủ vào tháng thứ tám kể từ khi thụ thai. Từ thời điểm này trở đi, sự kết nối giữa các nơron nhiều hơn và được tinh chỉnh liên tục cho đến khi người phụ nữ được khoảng 25 tuổi, rồi sau đó chúng từ từ thoái hoá dần.

Đến tuổi trung niên, các nơron bắt đầu chết, nhưng các nơron còn lại có thể bù trừ bằng cách mọc thêm nhánh và tạo thêm xináp mới. Ở não bị tổn thương do tai nạn hoặc do đột quỵ, các nơron không thể mọc thêm nhánh do các tế bào đệm tiểt ra một lạo protein ức chế sinh trưởng. Tuy nhiên, một số chức năngcó thể hồi phục do những vùng xung quanh còn nguyên vẹn có thể gánh vác thay.

Năng lực của bộ não

So với hầu hết các loài vật và thú, bộ não phụ nữ to gấp 6 lần (so với tương quan kích thước cơ thể). Ngoài kích thước, năng lực của bộ não còn tuỳ thuộc vào mật độ dây thân kinh và sự phối hợp của các mô hình hoạt động điện. Vỏ não, nơi chịu trách nhiệm về ý thức, là cấu trúc duy nhất chỉ có ở động vật có vú và có diện tích rất lớn ở người.

Ký ức

Ký ức được lưu giữ tại vỏ não bằng tín hiệu não hoá từ các hoạt động điện giữa các nơron. Một mẫu tín hiệu nhỏ có thể gợi lại toàn bộ ký ức. Ký ức hoạt động cho phép giữ lại thông tin trong khi thực hiện các công việc phức tạp. Ký ức khai báo có nhiệm vụ lưu trữ kiến thức tổng quát và các ngôn ngữ. Ký ức liên kết sẽ liên kết hành động và kết quả. Mỗi loại ký ức sử dụng các đường truyền khác nhau tại những trung khu thần kinh khác nhau ở não trước.

Bảo vệ bộ não

Hộp sọ đóng vai trò như chiếc áo giáp bảo vệ não, còn màng cứng bám vào não để ngăn ngừa xê dịch. Dịch não tủy đóng vai trò như lớp đệm nước cho não, duy trì nội môi cho nơron, và đào thải các độc tố do não sinh ra. Hàng rào máu não trong các mạch máu não ngăn cản độc tố xâm nhập não, trong khi vẫn cho phép oxy và dinh dưỡng đi vào nuôi não.

Phụ nữ và giấc ngủ

Người phụ nữ trưởng thành cần ngủ 9 tiếng rưỡi mỗi ngày (ở đàn ông trung bình cần 8 tiếng). Trẻ sơ sinh cần ngủ 16 tiếng, thiếu niên cần ngủ 10 đến 11 tiếng, còn phụ nữ lớn tuổi chỉ cần ngủ 4 đến 6 tiếng.

Những thay đổi sinh lý trong giấc ngủ

Khi đang ngủ huyết áp tụt xuống, mạch và thân nhiệt cũng giảm theo, hô hấp chậm, tuần hoàn máu ngoại vi tăng, ống tiêu hoá hoạt động, cơ thả lỏng và tốc độ chuyển hoá giảm khoảng 20%.

Yếu tố S

Yếu tố S còn có tên là muramyl peptide, được tạo thành từ xác vi khuẩn sau khi chúng bị phân huỷ trong ống tiêu hoá. Nó sẽ tham gia bảo vệ hệ sinh hoá của cơ thể và có vai trò trong việc khởi tạo giấc ngủ. Yếu tố S tương tác được với chất dấn truyền thần kinh serotonin, một chất rất quan trọng trong điều hoà giấc ngủ.

Cử động trong giấc ngủ

Tư thế ngủ thay đổi suốt đêm. Trong giai đoạn ngủ, NREM (không cử động mắt nhanh), chúng ta có những cử động lớn ít nhất mỗi 20 phút và nhiều cử động nhỏ hơn trong khoảng 5 phút. Ngược lại, trong giai đoạn ngủ REM (cử động mắt nhanh), tất cả các cử động đều chấm dứt, ngoại trừ cử động mắt rất đặc trưng, đảo mắt chậm với nhiều đợt cử động nhanh lấn át. Toàn cơ thể bất động, các cơ thả lỏng, thỉnh thoảng co giật.

Chứng mất ngủ

Mất ngủ do nhiều nguyên nhân như bị xáo trộn cảm xúc, trầm cảm, hoặc thay đổi nhịp sống thường nhật. Người bị mất ngủ vẫn ngủ được, nhưng giấc ngủ của họ bất thường nên không có tác dụng hồi phục sức khoẻ. Thuốc benzodiazepine có thể giải quyết được chứng mất ngủ, nhưng có thể gây nghiện nếu dùng thường xuyên.

Sóng điện trong não

Trong giấc ngủ đêm có 5 kiểu sóng não xuất hiện. Đó là 4 giai đoạn của NREM và một giai đoạn của REM. Các giai đoạn này lặp lại theo chu kỳ khoảng 40 đến 60 phút. Mức độ ngủ sâu nhất là vào đầu đêm và càng về sau càng nông hơn. Các chu kỳ sau cũng thường không có các giai đoạng 3 và 4.

Giai đoạn ngủ rem ( cử động mắt nhanh )

Giai đoạn này xảy ra ở mỗi chu kỳ, đợt đầu tiên khoảng 60 đến 70 phút sau khi bắt đầu ngủ. Các giai đoạn REM chiếm khoảng 25% thời gian ngủ đêm.

Giai đoạn ngủ nrem ( Non rem )

Giai đoạn 1 là thời kỳ chuyển tiếp giữa thức và ngủ, chiếm khoảng 5% giấc ngủ.

Giai đoạn 2 là ngủ sâu hơn và thường được gọi là “ngủ thật”. Nó chiếm đến 50% thời gian ngủ đêm.

Giai đoạn 3 là pha chuyển tiếp giữa giai đoạn 2 và giai đoạn 4, chiếm 7% giấc ngủ.

Giai đoạn 4 là giai đoạn ngủ sâu nhất, chiếm đến 13% giấc ngủ của thanh niên. Giai đoạn này ngắn dần khi tuổi cao cho đến khi gần như mất hẳn ở người già

Giấc mơ

Mọi người đều gặp giấc mơ trong giai đoạn ngủ REM nhưng khi ngủ dậy thường không nhớ hết. Giấc mơ không chỉ là quá trình dọn dẹp của bộ não hoặc chọn lựa thông tin ngẫu nhiên; chúng còn kết hợp với các kích thích xảy ra khi đang ngủ. Giấc mơ có thể giúp chuyển đổi ký ức từ lưu trữ ngắn hạn thành lưu trữ dài hạn. Các vấn đề phát sinh trước khi ngủ có thể được giải quyết trong giấc mơ, và nhiều người tin rằng giấc mơ bộc lộ những xung đột trong cảm xúc.

Một số bệnh lý của não

Bệnh Alzheimer

Có đến 1/5 số người ở độ tuổi 80 bị bệnh Alzheimer. Kỹ thuật chụp PET cho thấy những người này bị giảm hoạt động ở vỏ não vùng đỉnh và thái dương. Họ mất khả năng lưu trữ ký ức mới và có triệu chứng lú lẫn, mất định hướng; một số bị trứng hoang tưởng bộ phận và hung hăng. Bệnh Alzheimer đặc trưng bởi sự tăng lắng đọng các protein dạng tinh bột và tích tụ các protein bất thường trong nơron, làm chết nơron.

Bệnh của hệ vận động

Bệnh Parkinson và Huntington là các bệnh mất vận động phối hợp do thoái hóa từ các tế bào đặc biệt ở hạch nền. Tình trạng này gây rối loạn cân bằng ở quai vận động hạch nền vỏ não. Các cử động chậm củ bệnh Parkinson là do có quá ít kích thích; các cử động giật của bệnh Huntington là do có qua nhiều kích thích. Bệnh Huntington di truyền qua gen trội. Nguyên nhân của bệnh Parkinson vẫn chưa được xác định rõ rệt, dù nó có vẻ mang tính di truyền.

Đột quỵ

Đột quỵ thường gặp ít nhấớngau tuổi 45, nguyên nhân do cục máu đông hoặc xuất huyết làm giảm lượng máu nuôi ở một phần não. Khi đó, nơron bị đói, oxy sẽ hoạt động và phóng thích quá nhiều glutamate(một loại hoá chất trung gian dẫn truyền thần kinh). Hậu quả là các nơron khác bị kích thích quá mức, làm mở các kênh thụ thể để cho canxi tràn vào. Dòng canxi này sẽ hoạt hoá các enzyme (men) làm vỡ cấu trúc tế bào và dẫn đến phóng thích các gốc tự do hoạt tính cao, từ đó gây nhiều tác hại hơn nữa. Các nơron bị tổn thương sẽ mất khả năng truyền thông tin và làm mất chức năng của cả vùng não.

Trầm cảm

Sự mất cân đối giữa các hoá chất trung gian dẫn truyền trong não có thể dẫn đến trầm cảm và bệnh loạn tâm thần hưng trầm cảm, dù áp lực cuộc sống cũng góp phần gây ra. Một số bệnh nhân trầm cảm còn có tình trạng thay đổi nồng độ của một số hormone. Một số bệnh trầm cảm có cơ sỏ di truyền rõ rệt.

Thiếu ánh sáng mặt trời cũng có thể gây trầm cảm; trường hợp này gọi là bệnh theo mùa. Các thuốc có tác dụng làm thay đổi quá trình sản xuất, phóng thích và loại bỏ các chất dẫn truyền có thể dùng để trị trầm cảm.

Bệnh tâm thần phân liệt

Bệnh tâm thần phân liệt thường khởi phát trong khoảng từ 15 đến 25 tuổi. Nữ có khuynh hướng phát hiện bệnh trễ hơn nam 5 năm. Bẹnh phát triển một cách âm thầm, người bệnh ngày càng sống khép mình hướng nội, và dễ bị stress. Khi bệnh phát triển, người bệnh sẽ mất liên lạc với hiện thực bên ngoài, có thể bị chứng hoang tưởng bộ phận, và có ảo giác, thường gặp nhất là khi nghe tiếng nói không có thực.

Bệnh tâm thần phân liệt có tỷ lệ mắc dưới 1% trên toàn thế giới, và có ảnh hưởng di truyền. Bệnh này có thể chữa bằng các thuốc tâm thần.

Phẫu thuật não

Ngành phẫu thuật não đã có những tiến bộ về kiến thức, trang thiết bị kỹ thuật trong những thập niên cuối thế kỷ 20.

Thông thường, phẫu thuật não chỉ thực hiện trong những trường hợp chấn thương sọ não hoặc ung thư não. Phẫu thuật viên chuyên mổ não ngày nay đã nắm rõ cơ chế hoạt động của não và được trang bị ngày càng tinh vi, như chụp cộng hưởng từ MRI và chụp PET, siêu âm để quan sát được não sống. Laser cũng có thể được sử dụng. Các kỹ thuật hỗ trợ này giúp Bác sỹ tăng thêm khả năng định vị tổn thương não và chẩn đoán bệnh, và làm tăng thêm cơ may điều trị hiệu quả.

Tuy nhiên, não giống như đại dương sâu thẩm, cũng có những điều chưa khám phá hết, và nhiều kỹ thuật vẫn còn tương đối non trẻ. Ví dụ, kỹ thuật điều trị ung thư thân não bằng laser mới được áp dụng phổ biến hơn trong những năm gần đây.

Cấy ghép não

Khác với các cơ quan khác trong cơ thể, bộ não hầu như không có khả năng tự sửa chữa. Trong não có cơ chế ngăn cản các tế bào thần kinh phát triển; chính cơ chế này đã làm mất khả năng tự sửa chữa khi sợi trục bị hư hại do tai nạn. Kỹ thuật cấy ghép mô não của người khoẻ mạnh vào động vật bị hư não, và một số bệnh nhân Parkinson đã đạt được một vài thành công. Tuy nhiên, dùng mô thai nhi lại làm nảy sinh những vấn đề về đạo đức và tính thiết thực. Do vậy, hiện nay các nhà sinh học đang phát triển kỹ thuật cấy tế bào da di truyền để cung cấp cho não các hoá chất bị thiếu hụt do nơron chết.

(St)

Hỏi đáp, bình luận, trả bài:
*địa chỉ email của bạn được bảo mật

Hot nhất
Top xink
Bộ sưu tập
Chợ xink
Thanh lý