Viêm khớp

Hoaibui2395 Hoaibui2395 @Hoaibui2395

Viêm khớp

18/04/2015 10:40 AM
672

Bệnh viêm khớp – Gout

Viêm khớp và các loại viên khớp thường gặp

Viêm khớp là một rối loạn mãn tính của khớp ảnh hưởng đến gần 50% số người từ tuổi 65 trở lên. Tình trạng này còn được gọi là sự hao mòn cơ học của khớp, gây phá hủy sụn. Phần lớn bệnh nhân không bị ảnh hưởng nghiêm trọng cấp thời, nhưng viêm khớp có thể gây đau mãn tính và tàn tật nặng nề

Trước kia, Viêm khớp mãn tính được coi là bệnh của tuổi già nhưng gần đây, nó có xu hướng xuất hiện nhiều cả ở những người trẻ. Các xu hướng xuất hiện nhiều cả ở những người trẻ. Các trường hợp nặng nêu không được điều trị tốt sẽ có thể mất khả năng vận động hoặc biến dạng khớp

Trên thế giới, cứ 8 người  ở độ tuổi từ 18 đến 79 có một người bị viêm khớp mãn tính. Tại Mỹ, có tới 16 triệu người mắc bệnh này, trong đó 75% là nữ

Các dạng viêm khớp thường gặp

Phổ biến nhất có 5 dạng:

1. Viêm khớp dạng thấp ở phụ nữ trẻ, là một trong những bệnh tự miễn khó tránh, gây nên bởi một phản ứng dị ứng trong cơ thể, chủ yếu ảnh hưởng đến các khớp xương ở bàn tay, bàn chân, cổ tay và mắt cá chân.

2. Bệnh thoái hóa khớp hoàn toàn khác hẳn dạng trên vì thực ra không có viêm tấy và xuất hiện vào cuối tuổi trung niên, được xem là do tiến trình lão hóa “tự nhiên” của bệnh khớp. Tuy nhiên với người già trước tuổi thì hiện tượng này xuất hiện sớm hơn

3. Viêm khớp nhiễm trùng có thể xuất hiện khi cơ thể mắc phải một bệnh nhiễm trùng, chẳng hạn như bệnh cúm, hay có thể là hậu quả của một bệnh nhiễm khuẩn với một bệnh lây bằng đường tình dục, chẳng hạn như bệnh lậu.

4. Viêm đốt sống. Cột sống là bộ phận phải chịu rất nhiều sức ép trong suốt cuộc đời. Khi các khớp cột sống bị ảnh hưởng của bệnh viêm khớp, chúng có thể gây sức ép lên các dây thần kinh và phát inh ra chứng đau dọc theo cánh tay với cảm giác tê tê và đau nhói ở ngón tay, đau ở vùng thắt lưng, sinh ra chứng đau dây thần kinh hông lan xuống mông và phía sau cẳng chân.

5. Thống phong (Gout) hay xảy ra khi hàm lượng acid uric tăng trong máu – phần lớn do ăn uống các loại thức ăn có nhiều chất đạm từ phủ tạng động vật (có nhiều nhân tế bào), gan, tim, cật v.v… kèm với uống rượu mạnh, cà phê, trà đậm. Người bị bệnh này hay đau các khớp như khớp ngón chân cái, đầu gối,… và thường dư cân

Tuy nhiên, trong cuốn sách này, chúng tôi chỉ giới thiệu đến bạn đọc ba dạng viêm khớp thường gặp, đó là: viêm khớp dạng thấp (hay còn gọi là viêm khớp mãn tính), bệnh thoái hóa khớp ( viêm xương khớp ) và bệnh gout.


Chương I: Viêm khớp dạng thấp


Phần I : Tìm hiểu về viêm khớp dạng thấp

Viêm khớp dạng cấp là gì? Triệu chứng và tác dụng

Viêm khớp dạng thấp là một dạng thường gặp cửa bệnh viêm khớp. Trên thế giới, cứ 8 người ở độ tuổi từ 18 đến 79 lại có một người bệnh này. Theo quỹ nghiên cứu về bệnh viêm khớp hoa kỳ, có tới 16 triệu người Mỹ bị bệnh này, trong đó số bệnh nhân nữ nhiều gấp 3 lần so với nam giới

Cùng với sự lão hóa của cơ thể, các khớp sụn cũng bị bào mòn dần đi. Khi người ta tới ngưỡng 50 tuổi thì có  tới 90% khả năng các lớp bị hỏng hóc đi đôi chút. Bệnh viêm khớp dạng thấp xảy ra khi các lớp sụn bị bào mòn và mất đi. Vì lớp sụn có tác dụng hạn chế bớt lực ma sát khi khớp chuyển động nên nếu bị bào mòn sẽ sinh ra đau khớp. Hầu hết các khớp chịu lực lớn trong cơ thể như khớp háng, gối và cột sống đều bị ảnh hưởng của viêm khớp dạng thấp

Trước đây, viêm khớp dạng thấp được coi là một bệnh của tuổi già, tuy nhiên hiện nay do cuộc sống có nhiều thay đổi nên người ở mọi độ tuổi đề có thể là nạn nhân của căn bệnh này

Miếng sụn bị văng ra từ các khớp là một nguyên nhân viêm khớp dạng thấp. Do đó những người tham gia các môn thể thao vận động mạnh như tennis, trượt tuyết là những người thuộc nhóm có nguy cơ lớn bị viêm khớp dạng thấp

            Những biểu hiện của viêm khớp dạng thấp

Tổn thương khớp: thường xảy ra ở một hay nhiều khớp: khớp gối, mắt cá, ngón chân, cổ tay, ngón tay… với các biểu hiện sưng, nóng, đau khi cử động. Có tình trạng cứng khớp: thường xảy ra buổi sáng sau khi ngủ hoặc sau khi bất động. Người bệnh thường vận động khó khăn, gọi là hiện tượng phá gỉ khớp buổi sáng. Các khớp đốt ngón tay thường bây biến dạng nogns tay ở khoảng 50% số người mắc bệnh

Các biểu hiện toàn thân: Thường ở trạng thái dễ bị kích thích, biếng ăn, mệt mỏi. Có thể sốt cao tới 410C hoặc thấp hơn và kéo dài. Có thể có ban thấp với đặc trưng là chấm màu hồng nhỏ, kín đáo, ở giữa nhạt màu. Ban thấp thường mọc ở thân mình và chân tay, Thiếu máu phỏ biến gặp ở các thể nặng. Gan, lách to và nổi hạch ở nhiều nơi. Ngoài ra có thể gặp viêm mống mắt, sợ ánh sáng, giảm thị lực.

Tiến triển và tiên lượng bệnh: Nói chung có thể tiên lượng tốt, ít khi đe dọa tính mạng. Bệnh có thể kéo dài hàng năm với các biến chứng như biến dạng khớp.

            Viêm khớp dạng thấp có thể gây tàn phế

Nếu bệnh nhân không điều trị theo chỉ định của bác sũ mà tự điều trị một cách sai lầm, bệnh nhâ viêm khớp dạng thấp có thể bị cứng các khớp, ngón tay có quắp lại, không cầm nắm được, vai không thể giơ lên cao, ngón chân bị trẹo ra ngoài, rất đau đớn. Tình trạng này kéo dài sẽ dẫn đến tàn phế

Ở Việt Nam có khoảng 0,5% dân số mắc bệnh viêm khớp dạng thấp. Năm 200 và đầu năm 2001 khoa Nội khiwps (Trung tâm chấn thương chỉnh hình Thành phố Hồ Chí Minh) đã tiếp nhận điều trị nội trú cho 63 bệnh nhân bị bệnh này, trong đó có nhiều trường hợp đã bị tàn phế do tự điều trị một cách sai lầm.

Nguyên nhân gây bệnh là do cơ thể tự sản xuất một kháng thể chống lại các cơ quan, bộ phận, nhất là các khớp. Khoa học hiện chưa giải thích được vì sao cơ thể lại sản xuất ra kháng thể này.

Biểu hiện đầu tiên vủa bệnh là cứng khớp vào các bổi sáng thức dậy, rồi sưng viêm và đau các khớp vai, khuỷu, cổ tay, đót ngón tay, đầu gối, bàn chân, đốt ngón chân. Khi có những triệu chứng trên, bệnh nhân hay đến gnay các bệnh viện, trung tâm chuyên khoa về nội khớp  để khám và điều trị.

Nguyên nhân dẫn đến viêm khớp dạng thấp

            Dầu máy có thể gây viêm khớp

Những người làm nghề tiếp xúc nhiều với dầu máy và các chất tương tự đễ bị viêm khớp mãn tính.

Nguy cơ bị viêm khớp dạng mãn tính tăng dần ở người tiếp ở người tiếp xúc thường xuyên với dầu mỡ cao hơn 30% so với người không tiếp xúc với dầu mỡ. Nguyên nhân chưa được giải thích, song theo các nhà khoa học thuộc Viện Karolinska (thụy điển) thì các loại dầu khoáng có chữa những phân tử kích hoạt hệ miễn dịch và tác động tiêu cực tới khớp

Nhóm nghiên cứu Karolinska theo dõi hơn 1000 bệnh nhân viên khớp mãn tính tăng dần từ nay đến 1996 tới 2003. Tất cả có biết chi tiết mức độ tiếp xúc với các dạng dầu khoáng khá nhau, bao gồm cả nhựa đường. Kết quả cho thây dầu máy làm tăng nguy cơ phát triển hai hạng viêm khớp mãn tính tăng dần. Trong đó, nguy cơ phát triển dạng viêm khớp nguy hiểm nhất là anti-CP+ tăng 60%

Một số nghiên cứu trước đây trên động vật cũng thừa nhận dầu máy gây viêm khớp ở chuột. Ngoài dầu máy, một số yếu tố gây bệnh khác là ăn nhiều thịt đỏ và truyền máy

            Nữ cầu thủ dễ bị viêm khớp

Những cô gái trên sân cỏ có nguy cơ bị chấn thương đầu gối cao hơn so với các nam đồng nghiêp, do vậy họ dễ bị viêm khớp hơn.

Các nhà nghiên cứu tại đại học Lund, Thụy Điển ước tính nguy cơ chấn thương dây chằng đầu gối tăng gấp 3 – 4 lần nếu các cầu thủ bóng đá là nữ. Rất nhiều cô gái có dây chằng tổn thương sau này cũng phát triển chứng viêm khớp đầu gối.

Họ đã kiểm tra 103 nữ cầu thủ đã từng bị chấn thương 1 dây chằng ở trước đầu gối. Dây này có tác dụng ổn định khớp xương. Nó có thể bị tổn thương trong các hoạt động như đá bóng, vốn luôn phải vặn vẹo khớp

Các cô gái bị chấn thương dây chằng này 12 năm trước, khi họ chơi bóng đá ở độ tuổi 14 – 28. Khi các nhà nghiên cứu chụp X-quang đầu gối của những cô gái này, họ nhận thấy hơn 1 nửa có dấu hiệu của viêm khớp. Những cô gái này cũng cho biết họ thường xuyên bị đau đầu gối hoặc di chuyển khớp khó khăn

Khoảng 60% trong số các cô gái đó đã được giải phẫu để khôi phục dây chằng đã bị rách. Nhưng dù có giải  phẫu hay không thì nguy cơ đau đầu gỗi sau này cũng không giảm

Hệ cơ ở chân phụ nữ ít hơn so với đàn ông. Vì vậy, nó ra tăng nguy cơ bị tác động của việc vặn và xoay khớp, xảy ra rất nhiều trong bóng đá

Điều quan trọng là các vận động viên cần thực hiện các biện pháp bảo vệ trước mỗi trận đấu như khởi động và mặc trang phục bảo vệ

            Ăn uống thiếu vitamin C dễ mắc bệnh viêm khớp

Đây là kết luận của các nhà khoa học Anh sau 8 năm nghiên cứu về các mối quan hệ giữa chế độ ăn uống và bệnh khớp. Họ đã  tiến hành trên 25000 đối tượng, phát hiện 73 trường hợp mắc bệnh viêm khớp đều là những người đặc biệt ăn ít hoa quả và rau xanh

25.000 người này cũng là đối tượng của một nghiên cứu khác về mối liên quan giữa chế độ ăn uống và các bệnh mãn tính đang được tiến hành. Các nhà khoa học thuộc Chiến dịch nghiên cứu bệnh khớp – ARC (đại học Manchester ) và Viện y tế cộng đồng (Đại học Cambridge) đã sử dụng các thông tin về sức khỏe và chế độ ăn uống của các đối tượng từ nghiên cứu trên khi họ triển khai nghiên cứu về bệnh khớp

Giáo sư David Scott, chủ tịch hội nghiên cứu viêm khớp Anh cho rằng, dường như có một mối liên hệ mật thiết giữa việc ăn uống thiếu Viatmin C với việc mắc các chứng bệnh viêm khớp. “Có thể kết quả của những nghiên cứu này là một bằng chứng quan trọng về vai trò của khẩu phần ăn giàu vitamin C trong việc làm giảm nguy cơ mắc bệnh khớp”, ông nhận định.

Theo Tiến sĩ Madeleine Devey của nhóm ARC, việc ăn uống thiếu vitamin C là một nhân tố không thể bỏ qua khi xẽ xét các nguyên nhân gây viêm khớp. Trong các nghiên cứu trước, người ta đã tìm thấy hút thuốc và truyền máu là 2 nhân tố quan trọng gây ra chứng bệnh này.

Nhuộm tóc nhiều dễ gây viêm khớp mãn tính

Theo một nghiên cứu mới của các nhà khoa học Thụy Điển, những người phụ nữ thường xuyên nhuộm tóc trong 20 năm hoặc lâu hơn sẽ có nguy cơ mắc viêm khớp mãn tính cao gấp đôi so với người không nhuộm tóc. Họ cho rằng các hóa chất trong thuốc nhuộm tóc có thể phá hủy hệ thống miễn dịch và gây ra căn bệnh trên.

Gần đây, nhóm nghiên cứu tại đại học Nam Caliifornia (Mỹ) cũng khám phá ra rằng những phụ nữ thường xuyên sử dụng thuốc nhuộm tóc sẽ có nguy cơ mắc bệnh ung thư bàng quang cao gấp 2 – 3 lần người không nhuộm tóc

            Đi giầy đế rống dễ bị viêm khớp

Một nghiên cứu của đại học Harvard ( Mỹ) cho thấy những phụ nữ đi giày đế cao rộng và có nhiều khoảng trống bên trong có nguy cơ bị viêm khớp mãn tính cao hơn. Thí nghiệm cho thấy, áp lực tác dụng lên đầu gối khi đi loại giày này tăng 26% so với khi đi chân đất, còn nếu đi giày gót nhọn thì áp lực chỉ tăng 22%.

Trong thí nghiệm này, 20 phụ nữ đã được yêu cầu đi trên một đoạn đường, đầu tiên là đi bằng chân đất, sau đó đi bằng những đôi giày đế cao và rộng, cuối cùng là bằng những đôi giày gót nhọn. Bằng cách phân tích chuyển động các nhà phân tích đã đo được áp lực tác dụng lên đầu gối trong từng trường hợp. Tuy chỉ số áp lực khác, trong cả 2 trường hợp đi giày đề có hiện tượng tăng áp lực xoáy hướng vào trong

Để tránh bệnh viêm khớp gối, cá nhà khoa học khuyên chị em phụ nữ chỉ nên đi những đôi giày gót thấp.

            Ăn nhiều thịt bò dễ bị viêm khớp

Nếu bạn là người thích ăn bánh hamburger, bít tết và thịt đỏ, bạn có nguy cơ bị viêm khớp mãn tính cao hơn những người khác ít nhất là 2 lần. Đây là một phát hiện của các nhà khoa học Anh.

Tiến sĩ Dorothy Pattison và cộng sụ tại đại học Manchester (anh) theo dõi 88 nguwofi mới được chẩn đoán là viêm khớp mãn tính ở ít nhất 2 khớp xương và 176 ngườii bình thường. Tất cả những người tham gia đều được yêu cầu liệt kê chi tiêt đến từng gam các thực phẩm mà họ ăn trong 7 ngày gần nhất

Kết quả cho thấy những  người ăn chủ yếu là thịt đỏ có nguy cơ mắc viêm khớp cao gấp 2 lần người khác. 42% bệnh nhân viêm khớp cho biết họ đã ăn ít nhất 58gam thịt đỏ mỗi ngày. Những người vừa ăn thịt đỏ vừa ăn các thịt khác hoặc các sản phẩm từ thịt thậm chí còn có nguy cơ mắc bệnh cao hơn.

Nhưng thịt đỏ không phải là yếu tố nguy cơ duy nhất. Các chuyên gia nhận thấy protein cũng là một yếu tố làm tăng nguy cơ. Họ nhận thấy những người ăn các loại thực phẩm giàu protein (hơn gam 1 ngày ) có nguy cơ bị viêm khớp cao gấp 3 lần so với những người tiêu thụ thực phẩm ít protein (ít hown gam một ngày)

Nhóm nghiên cứu nhận định những  yếu tố nguy cơ khác có thể là collagen  chất phụ gia (dùng hi nấu nướng thịt) và tác nhân gây viêm nhiễm có trong thịt. Lượng collagen cao có thể dẫn tới tình trạng nhạy cảm với collagen và do đó kích thích  quá trình sản xuất kháng thể chống collagen gây nên tình trạng viêm. Quá trình này đặc biệt dễ xảy ra ở những người có thiên hướng bị viêm khớp.

Tuy nhiên mỡ, bao gồm cả mỡ đã bão hòa, lại không có ảnh hưởng gì tới nguy cơ mắc bệnh.

            Hút thuốc lá làm tăng nguy cơ mắc bệnh viêm khớp

Việc xác định nguy cơ viêm khớp đã thách thức các nhà khoa học từ nhiều năm nay. Người ta tin rằng lối sống là nguyên nhân gây nên 40% nguy cơ mắc bệnh viêm khớp mãn tính. Chẳng han, hút thuốc lá là một trong những ngân tố nguy cơ. Trong nghiên cứu của mình, nhóm của Pattison nhận thấy những  người bệnh viem khớp đa số  là những người hút thuốc

            Nguy cơ viêm khớp ở trẻ sơ sinh nặng cân

Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học thuộc trường đại học Malmo (Thụy Điển) cho thấy, trẻ sơ sinh nào nặng hơn 4kg có nguy cơ bị bệnh viêm khớp gấp ba lần so với những trẻ nhẹ cân hơn

Nghiên cứu còn cho thấy những tre được nuôi bằng sữa mẹ ngay sau khi được sinh ra và có cha là ngườii lao động chân tay cũng có nguy cơ phát triển bệnh. Ngoài ra, bệnh viêm khớp còn xảy ra ở người lớn bị béo phì

            Sảy thai làm bệnh viêm khớp nặng thêm

Đối với những phụ nữ bị viêm khớp dạng thấp, trạng thái sảy thai có thể làm cho bệnh trầm trọng hơn. Nguyên nhân có thể liên quan đến di truyền

“Tình trạng sinh đẻ  có thể coi là một yếu tố đánh giá đáng tin cậy về mức độ tổn thương của khớp. Nó sẽ giúp phát hiện nhanh những trường hợp có nguy cơ tiến triển bệnh ngay từ lần đầu khám khớp đầu tiên”. Tiến sĩ  Frederique M. Van Dunne, đến từ đại học Leiden, Hà Lan, cho biết

Ông và cộng sự đã tìm hiểu lịch sử sinh con và mức độ phá hủy khớp của 113 phụ nữ mới phát hiện bị viêm khớp dạng thấp. Họ nhận thấy những người có ít nhất 1 lần sảy thai trước đó có nguy cơ bị phá hủy khớp nặng hơn hẳn so với những người không bị sảy. Nguyên nhân của hiện tượng này  vẫn còn là ẩn số, song Van Dunne cho rằng có liên quan đến yếu tố gen.

Giải đáp về viêm khớp dạng thấp

            Viêm khớp dạng thấp ở thanh thiếu niên

Con trai tôi 15 tuổi thường xuyên kêu đau nhức ở các khớp tay và chân (nhất là vào buổi sáng, lúc mới ngủ dậy). Tôi đưa cháu đến khám bác sĩ và được chuẩn đoán viêm khớp dạng thấp vị thành niên. Xin bác sĩ cho biết đôi chút về bệnh này?

Viêm khớp dạng thấp vị thành niên là một bệnh mãn tính, hay xảy ra ở trẻ 16 tuổi trở xuống. Các triệu chứng bệnh  thường giảm dần rồi sau đó nhiều tháng hoặc nhiều năm, nhưng có thể gây ra nhiều triệu chứng như viêm mắt (dẫn đến đục thủy tinh thể, glaucoma), giảm tăng trưởng. Các thể bệnh chính:

- Viêm ít khớp: chỉ tối đa 4 khớp bị tổn thương, chủ yếu là các khớp lớn như khớp gối. Trẻ em bị thể bệnh này có khi bị viêm mắt

- Viêm đa khớp: nhiều khớp bị tổn thương (cả những khớp nhỏ). Khớp ở bàn tay và bàn chân dễ bị viêm nhất

- Viêm khớp hệ thống: gây tổn thương ở nhiều vùng cơ thể, kể cả khớp và cơ quan nội tạng. Ngoài chứng sưng đau khớp, bệnh nhâ bị sốt và nổi ban đỏ.

            Các triệu chứng viêm khớp dạng thấp ở trẻ em:

- Khớp sưng kèm đau và cứng, nhất là vào buổi sáng hoặc sau giấc ngủ trưa. Bệnh ảnh hưởng nhiểu nhất đến khớp gối, các khớp bàn tay và bàn chân.

- Sốt và phát ban: có thể xuất hiện và mất đi rất nhanh

- Sưng hạch bạch huyết: chủ yếu xảy ra ở trẻ em viêm đã khớp và viêm khớp hệ thống

   Cần đưa trẻ đến bác sĩ khi có dấu hiệu sưng khớp, khó vận động khớp hoặc đi cà nhắc mà không rõ nguyên nhân, hoặc sốt cao hơn 2 – 3 ngày. Nếu được chuẩn đoán viêm khớp dạng thấp, trẻ cần được bác sĩ theo dõi và điều trị. Trẻ bị viêm đa khớp và viêm khớp hệ thống cần được kiểm tra xem có bị viêm mắt không (6 tháng/lần). Trẻ bị viêm ít khớp cần khám mắt 3tháng/lần

   Việc điều trị có mục đích  duy trì sự bình thường về hoạt động thể chất và xã hội, giảm đau, giảm sưng và phòng ngừa biến chứng. Một số trẻ chỉ cần dùng thuốc giảm đau là đủ, nhưng nhiều trẻ khác lại cần dùng các thuốc hạn chế sự tiến triển của bệnh. Đó là các thuốc chông viem không steroid (aspirin, ibuprofen,…), thuốc chống bệnh thấp ( như methotrexate, corticosteroid).

   Ngoài ra, nên áp dụng vận động liệu pháp để duy trì sức mạnh của cơ và hoạt động của khớp (bơi là cách tốt nhất) vật lý trị liệu pháp (chường nóng, tắm nóng,…). Đồng thời, trẻ cần được hỗ trợ về tâm lý (động viên, khích lệ trẻ vận động) và có chế độ dinh dưỡng thích hợp.

            Viêm đa khớp dạng thấp ở trẻ em

Viêm đa khớp dạng thấp ở trẻ em là gì?

Viêm đa khớp ở trẻ em là một bệnh tự miễn ( không do vi khuẩn), biểu hiện bởi tình trạng viêm bao khớp mãn tính và viêm một số cơ quan ngoài khớp. Bệnh thường gặp ở trẻ em từ 3 – 16 tuổi, có yếu tố di truyền và gia đình. Bệnh biểu hiện rất đa dang, thay đổi theo từng thể.

Thể nhiều khớp và yếu tố dạng thấp âm tính là thể thường gặp, chiếm khoảng 20 – 25%. Khởi bệnh và diễn biến ở thể này thường nhẹ, tiên lượng tốt hơn các thể khác. Tổn thương lan tỏa nhiều khớp, các khớp nhỏ ở bàn tay, bàn chân, kể cả các ngón tay. Có hiện tượng sưng, nóng, đau nhưng rất ít khi có hiện tượng đỏ (khác với thấp khớp). Khớp sưng to do phù nề, tiết dịch, tràn dịch trong ổ khớp và dày bao khớp. Cử động thấy đau nhiều và bị giới hạn vì co thắt, bị tràn dịch. Khớp bị hủy hoại, xơ hóa do gãy khớp, khó cử động, nhất là buổi sáng. Các dấu hiệu toàn thân kèm theo: sốt, mệt mỏi, biếng ăn, thiếu máu, gan, lách, hạch đều to…

Thể nhiều khớp có yếu tố dạng thấp dương tính khởi bệnh từ từ, hay gặp ở trẻ lớn, các biểu hiện như viêm khớp rất nặng kèm theo viêm mạch máu và nhiều khớp và yếu tố dạng thấp âm tính

Thể ít khớp kiểu thứ nhất thường gặp nhất. Bệnh xuất hiện sớm tước 4 tuổi, số khớp bị tổn thương ít, bắt đầu từ đầu gối, cổ chân, khuỷu tay, cổ, khớp háng. Tổn thương không nặng, khớp ít bị hủy hoại. Trẻ rất hiếm khi bị tàn tật, nhưng thường có nguy cơ biến chứng mắt (30%), bị viêm mống mắt mãn tính trong vòng 10 năm đầu sau khi có tổn thường ở khớp. Khi viêm mắt bị đỏ, đau, sợ ánh sáng và giảm thị lực. Tình trạng viêm ở mắt kéo dài có thể dẫn đến tăng nhãn áp, đục thủy tinh thể, teo nhãn cầu…

Thể ít khớp kiểu thứ hai khởi phát chậm sau 8 tuổi, bé trai gặp nhiều hơn bé gái, thường có yếu tố di truyền. Tổn thương khớp lớn ở hai chân, các khớp nhỏ ở ngón chân, hai tay và khớp thái dương hàm kèm theo các đau gân gót và bàn chân. Bệnh tiến triển lâu dài kéo dài dẫn đến viêm cứng cột sống (viêm cột sống dính khớp) kèm theo hội chứng Reye ( gồm viêm mống mắt, viêm niệu quản, đái ra máu) hoặc viêm ruột mãn tính

Thể khởi phát toàn thân gặp ở ngoài khớp. Trẻ sốt cao từ 39 – 40oC, run toàn thân và có các hồng ban ở da. Hồng ban nổi rõ khi sốt cao, chấn thương ở da hay tiếp xúc với nóng. Giai đoạn toàn phát, có thể thấy gan, lạch, hạch to dễ nhầm chuẩn đoán với bệnh của hạnh (u lympho) hay bệnh của cơ quan tạo máu, viêm màng phổi. Tổn thương ngoài khớp thoáng qua do bị các triệu chứng ngoài che lấp. Nếu tình trang viêm kéo dài và tái phát nhiều lần, cũng có thể gây biến dạng ở khớp, nhưng đến tuổi trưởng thành thì bệnh ổn định

Trẻ bị viêm đa khớp dạng thấp cần được khám tại các cơ sở y tế chuyên sâu, bởi tình trạng viêm khớp trong bệnh này còn cần được phân biệt với các nguyên nhân viêm khớp khác như nhiễm khuẩn, thấp khớp, lao khớp, viêm khớp do virut, từ đó có định hướng điều trị hợp lý. Nguyên tắc điều tị cơ bản là chống viêm, giảm đau, điều trị triệu chứng toàn thân và phục hồi chứa năng vận động của khớp. Bệnh nhan phục hồi chức năng nhanh hay chậm phụ thuộc vào từng thể bệnh, mức độ nặng hay nhẹ và sức đề kháng của mỗi người.

            Cứng khớp vào buổi sáng

Tôi hay bị đau lưng và cứng các khớp ngón tay vào buổi sáng, lúc mới ngủ dậy. Có người nói tôi bị thoái hóa khớp, người bảo viêm khớp dạng thấp, bảo nên uống viên “đề-xa”, nhưng tôi chưa dám uống. Xin cho biết tôi bị bệnh gì

Cả hai bệnh thoái hóa khớp và viêm khớp dạng thấp đều có biểu hiện đao tại khớp và biến dạng khớp, cứng khớp vào buổi sáng. Có thể phân biệt hai bệnh dựa vào các đặc điểm sau:

- Thoái hóa khớp: hiện tượng cứng khớp chỉ kéo dài 5 – 10 phút, dài nhất là 30 phút, khu trú ở vài khớp bị thoái hóa như khớp gối, khớp háng, cột sống cổ, thắt lưng, khớp gót chân… Đau có thể xuất hiện một hoặc hai bênh khớp, không sưng, nóng, đỏ tại khớp

Trong trường hợp thoái hóa khớp cột sống thắt lưng, giai đoạn đầu người bệnh sẽ đau lưng nhiều vào buổi sáng, khi mới ngủ dậy. Nhưng kéo dài không quá 30 phút, sau đó giảm dần và hết hẳn, người bệnh vẫn làm việc bình thường. Nếu bệnh tiến triển nặng lên, bệnh nhân sẽ đau lưng cả ngày, đau tăng khi làm việc nhiều và giảm khi nghỉ ngơi

- Viêm khớp dạng thấp: tình trạng cứng khớp kéo dài lâu hơn, có khi tới vài giờ; xảy ra ở nhiều khớp và đối xứng cả hai bên; thường có biến dạng khớp. Đau thường kéo theo sưng to hay nóng, đỏ tại khớp

            Thời tiết và bệnh viêm khớp

Tôi 65 tuổi, bị bệnh thấp khớp từ hơn năm. Mỗi khi thời tiết thay đổi bất thường, cơn đau lại tăng lên. Xin bác sĩ cho biết sự thay đổi thời tiết và các bệnh về khớp có mối liên quan với nhau không?

Nhiều người có bệnh viêm khớp có thể cảm thấy và dự báo được thời tiết vì mỗi khi khí hậu thay đổi là cơn đau tăng lên. Nhiều khảo sát đã cho thấy, khoảng 70% người bị viêm khớp rất nhạy cảm với thời tiết. Tuy chưa có cách giải thích thỏa đáng về hiện tượng này nhưng các nhà nghiên cứu về bệnh khớp vẫn không phủ nhận hòan toàn. Vì bệnh viêm khớp xảy ra ở mọi miền khí hậu và mọi nơi trên trái đất, do đó các nhà khoa học không cho rằng khó hậy là nguyên nhân gây ra viêm khớp. Những thay đổi về thời tiết chỉ ảnh hưởng đến mức độ đau của người bệnh chứ không phải là nguyên nhân gây bệnh. Hơn nữa, sự thay đổi thời tiết cũng không ảnh hưởng đến mức độ tổn thương viêm ở khớp

Các nghiên cứu cho thấy, ở bất cứ thể viêm khớp nào (thấp khớp, viêm xương khớp… ), bệnh nhân cũng thấy cơn đau nặng hởn khi nhiệt độ giảm và độ ẩm tăng. Viêm xương khớp và đau xơ cơ là những thể bệnh nhạy cảm nhất với thời tiết. Phụ nữ cũng nhạy cảm hơn nam giới về mặt này.

Khó co duỗi ngón tay

Ba tháng nay, tôi thường bị đau khi co duỗi ngón giữa bàn tay (nhất là vào buổi sáng mới ngủ dậy), vận động một lúc mới đỡ, ngón giữa cứng, khó co duỗi, nếu cố co vào thì phair lấy tay kia kéo ra chứ không tự kéo ra được. Tôi không biết mình bị bệnh gì, có phải viêm khớp dạng thấp không?

Các dấu hiệu đau khi co duỗi ngón giữa bàn tay (nhất là lúc sáng mới thức dậy), vận động một lúc mới đỡ, ngón giữa cứng, khó co duỗi, nếu cố co vào thì phải lấy tay kia kéo ra chứ không tự kéo ra được… có thể là một triệu chứng viêm bao gân, viêm gân trong bệnh viêm khớp dạng thấp. Đó cũng có thể là riệu chứng ngón tay lò xo (hay ngón tay cò súng) do viêm gân gấp ngón tay giữa bàn tay, xơ hóa các tổ chức phần mềm ở bàn tay và ngón tay trong bệnh thoái hóa khớp hay các bệnh lý do chèn ép thần kinh giữa

Các bệnh này có cách điều trị và tiên lượng khác nhau. Khi có bệnh nên đến khoa xương khớp của các bệnh viện để được khám, đo điện cơ và làm các xét nghiệm cần thiết nhằm chuẩn đoán bệnh. Tùy thuộc vào chuẩn đoán, bác sĩ hướng dẫn cách điều trị và luyện tập thích hợp. Nếu không chữa, bệnh có thể nặng thêm, hạn chế vận động, ảnh hưởng tới chức năng của bàn tay, thậm chí có thể gây ảnh hưởng tới chức năng của bàn tay, thậm chí có thể gây ảnh hưởng toàn thân ( nếu là bệnh viêm khớp dạng thấp)

            Có phải tôi bị viêm khớp dạng thấp?

Tôi 47 tuổi, bị đau, nhức mỏi ở 2 khớp gối và khuỷu tay trái khi đi hoặc trèo cầu thang. Có phải tôi bị viêm khớp dạng thấp không?

Viêm khớp dạng thấp là một bệnh tự miễn dịch, thường gặp ở phụ nữ tuổi trung niên với biểu hiện toàn thân như mệt mỏi, gầy sút, thiếu máu, teo cơ, viêm gân. Tổn thương là khuỷu tay hoắc gần khớp gối. Sưng đau khớp trong bệnh này thường có tính đối xứng ở các khớp nhỏ bàn tay, bàn chân, khớp gối, khuỷu. Vùng da và các tổ chức quanh khớp mềm, nóng do hiện tượng viêm

Bệnh thoái hóa khớp không có những biểu hiện toàn thân kể trên. Các khớp hay bị đau là cột sống thắt lưng, đốt sống cổ, khớp gối, khớp háng. Vùng quanh khớp bị tổn thương thường cứng và lạnh do mọc các gai xương. Lớp mỡ quanh khớp phì đại mà không phải da viêm. Đau tăng khi vận động, giảm khi nghỉ ngơi.

Muốn có chẩn đoán chính xác và cách điều  trị cụ thể, cần đi khám ở chuyên khoa xương khớp và chụp X-quang các vị trí đau.

            Đau nhức xương là do có thai hay bệnh khớp

Tôi 43 tuổi, 4 năm trước phải mổ thai ngoài tử cung và triệt sản luôn. Gần đây tôi phát hiện đã có thai 6 tháng và từ đó luôn bị đau các khớp, 10 ngón tay sưng to, khó co duỗi. Tôi đã uống nhiều sữa dành cho thai phụ để thêm canxi nhưng không có kết quả. Vậy là tôi bị loãng xương, viêm khớp hay chỉ đau do có thai?

Khi có thai, nhất là thai 6 tháng trở lên, người phụ nữ rất dễ bị loãng xương do chất canxi trong xương bị huy động vào máu để chuyển đi nuôi thi. Nguy cơ này càng lớn nếu người mẹ dã ngoài 40 tuổi. Vì vậy nên dùng nhiều sữa để bổ xung canxi cho cơ thể. Tuy nhiên, lượng canxi được tiếp nhận còn tùy thuộc vào khả năng hấp thu canxi của cơ thể. Vì vậy, tuy uống nhiều canxi, bạn vẫn có nguy cơ bị loãng xương.

Tuy nhiên, các triệu chứng của loáng xương chỉ có thể là đau, nhức mỏi trong xương, khớp hoặc xảy ra tai biến gãy xương, chứ không bao gồm cả hiện tượng sưng và biến dạng khớp. Đây có thể là biểu hiện của viêm khớp

            Có phải tôi bị viêm khớp dạng thấp?

Tôi 32 tuổi, mới sinh con 1 tháng. Trong thời gian mang thai, cổ tay rái, rồi cả cánh tay và tay phải tôi bị đau. Sau khi sinh, tôi vẫn đau đến mức không bế nổi con. Có phải tôi bị viêm khớp dạng thấp không? Việc điều trị có ảnh hưởng đến con không ( con tôi hoàn toàn bú mẹ)?

Viêm khớp dạng thấp là căn bệnh nguy hiểm nhất trong các bệnh thấp khớp. Bệnh thường găp ở phụ nữ, tuổi từ 30 đến 50, thường khởi phát sau khi chấn thương, phẫu thuật, sinh con, gắng sức và sau các sang chấn tinh thần, thể chất…

Đây không chỉ đơn thuần là một bệnh lý mãn tính tại khớp mà còn là một bệnh lý tự miễn điển hình với các biểu hiện tại khớp và toàn thân, ở nhiều mức độ khác nhau. Dấu hiệu đầu tiên là sưng đau ở một hoặc vài khớp. Triệu chứng này có thể tạm đỡ rồi lại tái phát, nhưng có xu hướng tăng dần, nặng dần, ảnh hưởng đến nhiều khớp và toàn cơ thể.

Bệnh có diễn biến phức tạp, gây hậu quả nặng nề, ảnh hưởng lớn tới chất lượng cuộc sống của người bệnh. Cần điều trị tích cực ngay khi phát hiện vì bệnh thường kéo dài và có thể gây tàn phế.

Nguyên tắc điều trị viêm khớp dạng thấp

- Sử dụng ngay từ đầu các thuốc có thể ngăn chặn được sự hủy hoại xương, sụn. Các thuốc chống viêm bao gồm nhóm khống chứa steroid và corticoid được sử dụng kết hợp, trong có corticoid được sử dụng sớm và ngắn ngày. Người ta bắt đầu sử dụng các thuốc chống viêm không steroid ức chế chọn lọc COX-2 ( một  men cảm ứng, xúc tác quá trình viêm khớp). Thuốc đặc biệt được chỉ định với các đối tượng có nguy cơ cao, đặc biệt các bệnh nhân có tổn thương dạ dày – tá tràng. Hiện có các loại thuốc chông viêm ức chế chọn lọc COX-2 trên thị trường: mobic, nise, vioxx, celebrex.

- Điều trị triệu chứng đồng thời với điều trị cơ bản.Về điều trị cơ bản xu hướng hiện nay sử dụng kéo dài các thuốc chống thấp khớp tác dụng chậm có thể thay đổi cơ địa bệnh. Nhóm thuốc này có vai trò quan trọng, được chỉ định ngay từ đầu, dù bệnh ở giai đoạn nào.

- Ngoài ra cũng cần điều trị tại chỗ bằng tiêm cortison tại khớp bằng depomedrol hoặc diprospan. Bơm rửa ổ khớp kết hợp với tiêm depo – medrol và cyclophos – phamid trong ổ khớp ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp có tràn dịch khớp gối, có tác dụng giảm đau, giảm sưng, tăng phạm vi cử động khớp, giảm tiết dịch khớp một cách rõ ràng. Người ta cũng áp dụng phương pháp cắt bỏ màng hoạt dịch bằng ngoại khoa (mổ hoặc cắ dưới nội so) hay bằng tia xạ hoặc hóa chất như acid osmic

Ở nước ta, còn có nhiều phương pháp điều trị khác như xoa bóp bấm huyệt, dùng thuốc đông y, châm cứu, trong đó có điện châm. Điện châm có tác dụng trong điều trị bệnh viêm khớp dạng thấp ở thời kỳ lui bệnh và viêm nhẹ ở giai đoạn 1 và 2 tỷ tệ tốt và khá đạt 80%. Đối với giai đoạn tiến triển có viêm nhiều khớp và sốt, phụ thuộc vorti – coid thì điện châm ít có tác dụng và phải phối hợp với phương pháp dùn thuốc. Như vậy có thể áp dụng phương pháp dùng thuốc. Như vậy có thể áp dụng phương pháp điện châm trong điều trị bệnh viêm khớp dạng thấp giai đoạn sớn, thời kỳ viêm khớp nhẹ, nhất là đối với bệnh nhân có tiền sử hoặc hiện tại có viêm loét hành tá tràng… để tránh phải dùng thuốc chống viêm.

Phần II: Điều trị viêm khớp dạng thấp bằng thuốc nam

Một số bài thuốc đơn giản

- Bồ kết 1 phần, muối ăn 2 phần, giã nát, sao nóng, dùng vải xanh gói lại chường chỗ đau, khi lạnh lại thay, sẽ hết đau ngay.

- Dây đau xương sao vàng, hạ thổ, sắc uống mỗi ngày 15 – 20g. Cây thuốc này có thể thu hái hoặc mua tại các cửa hàng thuốc Nam

- Đẳng sâm, sắc uống mỗi ngày 15 – 20g. Vị này có thể mua tại các cửa hàng thuốc bắc

Danh y Tuệ Tĩnh trong tác phẩm “nam dược thần hiệu” cũng giới thiệu một số bài thuốc sau:

-Ý dĩ nhân, nấu cháo ăn lâu dài

-Dấm tốt lâu nam một bát, hành củ 3 lạng giã nát, nấu lẫn cho sôi rồi gói vào vải, chường nóng chỗ đau

-Hạt cải tán bột, hòa với lòng trắng trứng gà bôi, ngoài lấy lụa bọc lại, ngày thay 1 lần

-Lá ngải cứu, hành (cả rế), gừng (bỏ vỏ). Cả 3 thứ lượng đều nhau, giã nát, tẩm rượu xào nóng đắp chỗ đau, lấy lá thầu dầu ngoài buộc lại, ngày thay 5 – 6 làn đến khi khỏi đau thì thôi

-Quả ké đầu ngựa 2 lạng, giã nát, mỗi lần dùng 2-3 đồng cân (8-12g) sắc uống khi hơi đói. Kỵ ăn thịt lợn

-Kim ngân ha (cả lá), trộn với rượu, xào nóng và đắp vào chỗ đau

Điều trị đau khớp gối bằng bấm huyệt

Chứng viêm khớp gây rất nhiều khó chịu cho bệnh nhân. Tuy nhiên, khi chưa trở thành mãn tính thì bệnh có thể chữa được. Sau đây là một bài tập đơn giản giúp khắc phục bệnh lý này.

Gập đầu gối, để đầu ngón tay giữa ấn vào chỗ lõm ở phía dưới bánh chè; vừa thở ra từ từ vừa bấm mạnh vào đó trong 6 giây. Mỗi ngày làm như vậy 3 lần với cả 2 bên đầu gối, mỗi bên ấn 10 cái, hiện tượng đau sẽ hết

Bệnh nhân viêm khớp vẫn có thể rửa chân bằng nước lạnh; nhưng về đông cần giữ ấm chân để chứng đau không tái phát. Có thể khắc phục những cơn đau xuất hiện khi trời trở lạnh hoặc về đêm bằng cách lấy vải thấm nước nóng đắp lên đầu gối


Cách tập luyện để chữa đau khớp bàn tay

Hỏi: Tôi bị đau khớp bàn tay, bác sĩ bảo là viêm khớp dạng thấp. Xin hướng dẫn cách tập luyện để khắc phục chứng bệnh này.

Trả lời: song song với việc dùng thuốc, bạn nên thực hiện một số bài tập đơn giản nhằm bảo vệ và nhanh chóng cải thiện chức năng của các khớp. Dưới đây là một số hướng dẫn cụ thể:

1. Ngâm tay trong nước nóng, tay nắm một miếng bọt biển, nắm chặt vào rồi thả ra. Lặp lại nhiều lần

2. Để một quả bóng trên mặt bàn, dùng bàn tay lăn qua lăn lại sao cho bóng lăn từ cổ tay đến tận cùng các ngón tay. Động tác này có tác dụng xoa bóp và thư giãn các cơ nhỏ trong bàn tay. Lặp lại nhiều lần, và làm lần lượt hai tay. Động tác này có tác dụng xoa bóp và làm giãn các cơ nhỏ ở bàn tay. Nếu không có bóng, có thể dùng khăn mặt cuộn lại để lăn

3. Duỗi cẳng tay và hướng bàn tay lên trên cao, đầu ngón tay cái và ngón trỏ chụm lại vào nhau tạo thành chữ O, rồi mở thật nhanh bàn tay, các ngón tay tạo thành với ngón cái nhìn chữ C. Lặp lại nhiều lần và làm lần lượt với tay bên kia.

4. Áp chặt hai lòng bàn tay và các ngón tay vào nhau, bên nọ chống lại bên kia. Lúc đầu chụm ngón tay lại, sau đó xòe các ngón tay ra, trong khi tay bên nọ vẫn chống mạnh vào tay bên kia. Lặp lại nhiều lần trong ngày

5. Đặt sấp cẳng tay lên thành bàn, thả lỏng cổ và bàn tay trong khoảng không. Ngửa dần bàn tay lên bằng cách nắm chặt với các ngón tay. Động tác này làm mạnh và mềm cổ tay.  Lặp lại nhiều lần và làm lần lượt từng tay

6. Đặt cẳng tay lên mặt bàn, áp lòng tay vào mặt bàn. Lấy ngón tay út làm trụ, lấy tay đối diện cố định khuỷu tay, lật ngửa lòng bang tay lên. Lặp lại nhiều lần, và làm lần lượt với tay bên kia

7. Bệnh nhân có thể ngồi hoặc đứng, người hơi nghiêng ra trước. Thả lỏng hoàn toàn cánh tay và xoay cánh tay, vẽ nên các vòng tròn nhỏ. Phải hoàn toàn mềm cơ, các động tác nhẹ nhàng, không gắng sức

Điều trị khớp bằng tắm bùn

Trong các bệnh khớp, viêm khớp dạng thấp, thoái hóa khớp gối và bệnh gout chiếm tỷ lệ tương đối cao; nhất là ở các  nước nhiệt đới, có độ ẩm như ở Việt Nam. Việc điều trị các bệnh này thường lâu dài, tốn kém và hay gặp các tác dụng phụ nghiêm trọng do thuốc gây ra trên niêm mạc dạ dày, tá tràng. Sáu đâu là một phương pháp điều trị các bệnh cơ khớp đã được ứng dụng từ lâu ở nhiều nước trên thế giới đó là tắm nước khoáng hoặc bùn khoáng…

Nguyên tắc chung: viêm khớp dạng thấp là bệnh mãn tính kéo dài nhiều năm, vì vậy việc điều trị cần kiên trì, liên tục, kết hợp nhiều biện pháp nội – ngoại khoa, vật lý trị liệu, chỉnh hình… Điều rất quạn trọng cần lưu ý là điều trị phục hồi chức năng – chỉnh hình.

            Bùn khoáng

Là loại bùn thiên nhiên được hình thành từ những biến đổi địa chất, có nguồn gốc từ thực vật hoặc đất đai, là một nhóm của sản phẩm tự nhiên của môi trường đất đai do thảo mộc, cây cỏ, hoa bị chôn vùi tạo nên. Bùn được phân bố khắp mọi nơi, gồm các chất hữu cơ, vô cơ, các chất có chứa caron. Bùn khoáng màu đen huyền, đa số có mùi thơm, có tính acid, có thể hút nước

Bùn khoáng trong điều trị viêm khớp dạng thấp

Phương pháp điều trị viêm khớp dạng thấp bằng bùn khoáng – nước khoáng ở một số bệnh viện phục hồi – chức năng đã đạt được kết quả hết sức khích lệ:

- Giảm 50% thời gian cứng khớp so với trước điều trị

- Giảm 40% số khớp sưng đau so với trước điều trị

- Cải thiện chức năng khớp tổn thương 35% so với trước điều trị

- Không có phản ứng phụ ở tất cả các bệnh nhân viêm khớp dạng thấp trong quá trình trị liệu

             Phương pháp tắm, ngâm bùn khoáng – nước khoáng có tác dụng điều trị tốt viêm khớp dạng thấp và bệnh nhân thoái hóa khớp gối

            Ngoài ra, nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh việc tắm bùn khoáng, nước khoáng còn chữa được rất nhiều loại bệnh khác như các bệnh lý về da (vẩy nến, viêm da mãn tính…), suy nhược thần knh, mất ngủ…

            Nước khoáng

            Nước khoáng có tác dụng chống viêm, chống rối loạn chức năng do lão hóa; tăng tái tạo tế bào cơ, xương, thần kinh; phục hồi chức năng đối với các bệnh nội, ngoại, phụ khoa, các bệnh xương khớp, đau thần kinh tọa, các bệnh tai mũi họng như viêm mũi, viêm họng, các bệnh tiêu hóa như viêm đại tràng, táo bón, các bệnh lý về da…

            Đỉa giúp giảm đau viêm khớp

             Chữa bệnh bằng đỉa được biết đến từ lâu, song nó mới chỉ dùng lại ở việc giải quyết các vấn đề về phản ứng đông máu sau phẫu thuật. Mới đây, tiến sĩ Gustav j. Dobos đến từ viện Kliniken Essen-Mitte (Đức) phát hiện ra loài vật thân mềm này còn có khả năng làm dịu cơn đau đối với chứng viêm khớp gối. Nguyên nhân có thể là trong dịch nước bọt của loài vật hút máu này chứa chất chống sưng và một số thành tố có khả năng hạn chế triệu chứng cửa bệnh viêm khớp

              Dobos và cộng sự đã tiến hành so sánh hiệu quả của hai liệu pháp: một là dùng thuốc diclofenac phổ biến trong điều trị khớp gối, hai là chỉ với 4 – 6 con đỉa. Số đỉa này được đặt vào các điểm đa trên đầu gối của 24 bệnh nhân viêm khớp trong vòng 70 phút, cho đến khi chúng tự tách ra khỏi vị trí.

              Sau 7 ngày, kết quả thu được rất khả qun: sự đau đớn ở vùng viêm khớp giảm đáng kể ở nhóm bệnh nhân dùng đỉa, nhiều hơn so với nhóm dùng diclofenac. Tác dụng trên kéo dài 91 ngày sau đó, kèm theo sự cải thiện về chức năng khớp và sự tiêu giảm hầu hết triệu chứng bệnh. Theo Dobos, chữa bệnh bằng cách để đỉa cắn và hút máu không gây đau đơn, song nó cũng có thể nguy cơ truyền nhiễm bệnh.


Phần III: Chế độ ăn uống và sinh hoạt  phòng chữa bệnh viêm khớp dạng thấp

Chế độ dinh dưỡng cho bệnh nhân khớp


Nên bổ sung một số acid béo

             Acid béo hệ Omega-3 chủ yếu gặ trong các loại ca giàu chất béo, có khả năng thuyên giảm các triệu chứng bệnh viêm khớp dạng thấp (rheumatoid arthritis) do chúng ngăn chặn được phản ứng của hệ miễn dịch gây ra chứng viêm khớp.

             Một số công trình nghiên cứu khi cho bệnh nhân dùng những liều dầu cá từ 2 – 4 đến 5g/ngày, đã cho một số kết quả khá hứa hẹn: khớp bớt cứng và đỡ đau hơn.

             Những loại giàu cá acid béo hệ Omega-3 gồm: cá hồi, cấ thu, cá trích, cá mòi, cá ngừ, cá trống. Tuy nhiên bệnh nhân nên tham vấn ý kiến của bác sĩ trước khi dùng dầu cá liều cao – vì dầu cá cũng có thể ảnh hưởng đến tiến trình đông máu ( chẳng hạn phải nhổ răng hay tiểu phẫu), hoặc cps thể tương tác bất lợi với những loại thuốc đang uống theo toa để điều trị một bệnh khác ( chẳng hạn như thuốc hạ hiếu áp).

             Acid béo hệ Omega-6 GLA (acid gamma-linolenic) có khả năng ngăn chặn tiến trình sản sinh ra các chất protaglandin gây chứng viêm. Tuy nhiên vấn đề tìm ra được một nguồn GLA còn khó hơn. Dầu anh thảo có GLA, nhưng tính ra giá thành sẽ khấ cao. Ở Việt Nam, có thể tận dụng vi tảo Spirulina (9-11g/kg) dưới dạng viên nang 400mg tảo khô (tên biệt dược Linaforce).

            Các vitamin

             Tác dụng kháng oxy – hóa của các vitamin C, D, E và beta-caroten có thể giúp phòng tránh được một số dạng viêm khớp. Vơi những người bị viêm xương – khớp (Osteoarthritis) thì vitamin C và D có khả năng cải thiện bệnh. Một công trình nghiên cứu mới đây đã chứng minh được khả năng làm chậm lại hẳn sự tiến triển của căn bệnh này ở đầu gối, chỉ với liều nhỏ dưới 150mg vitamin C (tương đương với hàm lượng sinh tố của 2 ly cam vắt) và 400đơn vị quốc tế (IU) vitamin D/ngày. Người ta cũng đã chứng minh vitamin E có tác dụng giảm đau chống viêm. Còn những mức hàm lượng beta-caroten thấp luôn gắn liền với bệnh viêm khớp dạng thấp (rheumatoid arthritis), có nghĩa là nếu làm tăng được lượng beta-caroten cũng có thể giúp bệnh giảm xuống,. Như vậy vấn đề có thể đảm bảo chế độ dinh dưỡng đầy đủ các vitamin nói trên, ăn nhiều rau và trái cây tươi là việc rất nên làm đối với các bệnh nhân cơ xương khớp.

Người viêm khớp dạng thấp không nên ăn kiêng

              Việc áp dụng chế độ ăn kiêng chỉ dẫn đến sự thiếu hụt dinh dưỡng, suy giảm sức khỏe. Trong khi chế độ ăn hợp lý lại giúp tăng cường sức mạnh cơ  bắp và độ rắn chắc của xương, hỗ trợ tốt hơn cho các khớp, nhất là trong thời tiết thay đổi.

            Bệnh viêm khớp dạng thấp rất khó chữa khỏi. Trong đa số trường hợp, thuốc chỉ tạm thời đẩy lui bệnh. Nhiều người vẫn truyền nhau các phương pháp như nhịn đói trị bệnh, loại bỏ những thức ăn gây đau đớn, chọn ăn những thực phẩm đặc biêt… Tuy nhiên, cho đến nay, khoa học vẫn chưa chứng minh được hiệu quả của những biện pháp này.

              Viêm khớp dạng thấp thường đi kèm các đợt viêm (bệnh nhân bị sốt, khớp bị sưng đau). Điều này làm tiêu hao năng lượng và gây chán ăn, khiến người bệnh dễ bị thiếu dinh dưỡng. Họ cần ăn uống nhiều hơn để tích lũy các chất dinh dưỡng.

             Người bệnh viêm khớp dạng thấp thường thấy mệt mỏi, cứng các khớp xương vào buổi sáng. Vì vậy, họ cần ăn điểm tâm đầy đủ để tăng thêm sức lực. Ngoài 3 bứa ăn chính, nên ăn thêm 2 – 3 bữa phụ với thực phẩm giàu năng lượng. Thức ăn càng đa dạng càng tốt. Hàm lượng khuyết cáo với từng thành phần dinh dưỡng là:

- Rau quả: nên dùng trên 300g rau và 200g hoa quả mỗi ngày. Chắt sơ trong rau trái giúp giảm cholesterol máu, tránh táo bón (vốn là tình trạng thường gặp ở người bệnh khớp)

 - Chất đạm: dùng 50g thịt, 100g đậu đỗ mỗi ngày có thể ăn 3 – 4 quả trứng/tuần ( người có cholesterol máu cao cần giảm xuống 1 – 2 quả một tuần). Các loại thực phẩm giàu chất đạm như thịt cá, trứng, sữa, nghêu, sò, tào phớ và đậu các loại… đều có lợi cho sức khỏe. Chú ý chỉ ăn các loại thịt lạc bỏ da, không ăn phủ tạng. Nên thay bớt đạm động vật bằng đạm động vật. Cần tăng cường uống sữa vì đây là nguồn cung cấp canxi quan trọng, rắt tốt cho người bệnh khớp.

- Chất béo: không nên dùng quá 20g dầu thực vật mỗi ngày, nên sử dụng dầu lạc, dầu vừng…

- Tinh bột:  Ăn đầy đủ các thức ăn giàu chất bột như cơm, mì, khoai củ để không bị thiếu dinh dưỡng.

- Muối, đường: không nên ăn thực phẩm quá mặn hoặc quá nhạt. Cần hạn chế lượng muối ở mức không quá 10g/ngày và đường ở mức 20g/ngày.

Cho con bú giảm nguy cơ viêm khớp

             Một nghiên cứu gần đây cho thấy, những phụ nữ nuôi con bằng sữa của mình ít có khả năng bị viêm khớp mãn tính hơn những người không cho con bú

   “Ngoài tác dụng làm giảm nguy cơ ung thứ vú và buồng trứng, giảm nguy cơ bị viêm khớp mãn tính có thể là một lợi ích nữa của việc cho con bú”, tiến sĩ Elizabeth Wood Karlson tại bệnh viện Brigham and Women, Boston, Mỹ, tuyên bố.

             Karlson và cộng sự đã phân tích số liệu của nhiều phụ nữ để tìm hiểu vai tròi của các yếu tố hoóc môn đối với bệnh viêm khớp. Họ nhận thấy những bà mẹ cho con bú với tổng thời gian từ 12 đến 23 tháng trong cuộc đời giảm được 30% bị viêm khớp mãn tính, còn những người cho con bú từ 24 tháng trở lên giảm được 50% nguy cơ.

             Kết quả phân tích cũng cho thấy, chu kỳ kinh nghiệt không đều và tình trạng có kinh nghiệt sớm cũng làm tăng nguy cơ bị viêm khớp mãn tính. Song tình hình sử dụng thuốc tránh thai, số con và số tuổi của phụ nữ trong lần sinh nở đầu tiên không có tác động gì tới nguy cơ mắc bệnh.

Dùng quá nhiều vitamin C không tốt cho bệnh nhân viêm khớp

             Hấp thụ vitamin C liều cao trong một thời gian ngắn có thể chống lại bệnh viêm khớp mãn tính. Tuy nhiên sử dụng vitamin C lâu dài lại khiến cho bệnh thêm trầm trọng. tốt nhất là người bệnh không nên uống quá liều chỉ định

              Một số nghiên cứu ngắn hạn đã khẳng định tác dụng của vitamin C liều cao đối với bệnh viêm khớp mãn tính, xong chưa có công trình nào kiểm định ảnh hưởng của loại vi chất này trong một thời gian dài.

   Tiến sĩ Virginia B. Kraus và cộng sự đến từ đại học Duke, bắc Carolina (Mỹ) đã theo dõi tiến triển của bệnh viêm khớp mãn tính trên một số con lợn guinea, được hấp thụ vitamin C ở các liều cao, trung bình, thấp trong vòng 8 tháng. Trong đó liều thấp tương đương với lượng vitamin C cần thiết để ngăn ngừa bệnh Scurvy – một bệnh về máu do thiếu vitamin C trong thức ăn hàng ngày. Liều trung bình tương đương với lượng hấp thu từ 5 bữa hoa quả mỗi ngày. Liều cao và liều mà các nghiên cứu trước đây cho rằng có thể làm chậm tiến triển bệnh. Kết quả là nhóm dùng liều cao liên tục trong 8 tháng đã bị viêm khớp nặng hơn so với nhóm liều thấp và trung bình

              “ Thí nghiệm đã cho thấy những hạn chế khi sử dụng lâu dài vitamin C liều cao đối với sức khỏe khớp xương”, Kraus kết luận. Lượng vitamin C bổ xung không nên vượt quá mức khuyến cáo là 90mg/ngày cho nam giới và 75mg/ ngày cho phụ nữ. Ngoài một chế độ dinh dưỡng cân đối, mỗi ngày một viên đa vitamin là rất cần thiết, giúp cơ thể đạt được mức hấp thu vitamin C chuẩn. Không chỉ ảnh hưởng đến bệnh viêm khớp, lạm dụng vitamin C còn có thể gây tiêu chảy, sỏi thận và các chứng bệnh do thiếu sắt.

Rau quả chống viêm khớp

Rất nhiều nghiên cứu đã khẳng định khả năng làm giảm viêm sung khớp của nhóm chất carotenoid – chất làm cho rau và hoa quả có màu vàng nhở khả năng chống oxy hóa.

             Để tìm hiểu tác dụng cảu carotenoid đối với căn bệnh viêm khớp, tiến sĩ Alan J. Silman từ đại học Manchester (Anh) đã phân tích dữ liệu từ một nghiên cứu trên 25000 người. Sau 8 năm, nhóm ghi nhận 88 người mắc bệnh viêm khớp.

             Kết quả phân tích cho thấy mức tiêu thụ trung bình chất beta-cryptixanthin – hai thành viên nhóm carotenoid  - ở những bệnh nhân khớp thấp hớn 40% và 20% tương ứng so với người khỏe mạnh. Những người tiêu thụ beta-cryptoxanthin và zeaxanthin nhiều nhất có nguy cơ mắc bệnh viêm khớp chỉ bằng một nửa so với nhóm hấp thu ít nhất. Trong khi đó, hia chất carotenoid nổi tiếng khác là lutein và lycopene lại không có tác dụng chống viêm khớp.

             Một số chất chống oxy hóa như beta-cryptoxanthin, zeaxanthin và vitamin C có thể phòng chống hiệu quả bệnh viêm khớp

            Quả có vị chua phòng bệnh viêm đa khớp

            Tăng cường ăn các loại quả chua, tối thiểu là một cốc nước cam mỗi ngày, có thể giảm nguy cơ mắc chứng rối loạn viêm sưng, điển hình là bệnh viêm khớp mạn tính tăng dần.

            Có được tác dụng đó là nhờ một thành viên trong nhóm chất carotenoid có tên là beta-cryptoxanthin. Nhiều nghiên cứu trước đây cũng đã thừa nhận tiềm năng chống oxy hóa của carotenoid.

            Các nhà khoa học từ đại học ManchesterCambridge (Anh) phân tích dữ liệu từ Cục điều tra Ung thư châu Âu (EPIC) trên 25000 người. Tất cả được theo dõi trong nhiều năm để  phát hiện căn bệnh viêm đa khớp tăng dần – tình trạng viêm màng hoạt dịch ảnh hưởng ít nhất 2 nhóm khớp.

             Kết quả cho thấy, ở những bệnh nhân viêm đa khớp, lượng beta-cryptoxanthin trung bình hấp thu mỗi ngày thấp hơn 40% thấp so với người khỏe mạnh. Những người có nhiều beta-cryptoxanthin nhóm ít nhất. Kết quả này không thay đổi kể cả khi tính đến toàn bộ năng lượng hấp thu và thói quen hút thuốc.

            Quả lựu bảo vệ khớp

            Cắc nhà khoa học Mỹ vừa phát hiện ra chiết xuất từ quả lựu có khả năng khống chế các men tham gia quá trình gây viêm khớp mãn tính. Thứ quả này có thể sẽ là giải pháp thay thế những các chữa bệnh thông thường kém hiệu quả hiện nay

             Đại học Case Western Reserve (Mỹ) vừa nhận diện thủ phạm gây thoái hóa sụn trong bệnh viêm khớp mạn tính là Interleukin-1b, một phần tử protein tiền viêm sưng. Các phần tử Interleukin-1bnày kích thích sản suất thừa những phân tử chuyên gây viêm, đặc biệt là matrix metalloproteases (MMP). Khi có quá nhiều MMP trong môi trường bệnh, Ví dụ như viêm khớp mạn tính, chúng sẽ gây suy thoái sụn dẫn tới tổn thương và phá hủy khớp.

            Các nhà khoa học đã nghiên cứu trên mẫu mô sụn của người bị bệnh viêm khớp mãn tính và bổ sung một chiết suất từ quả lựu vào môi trường nuôi cấy. Kết quả cho thấy chiết suất từ quả lựu có thể bảo vệ sụn, bên cạnh tính năng chống oxy hóa và viêm sưng. Những chiết xuất này khống chế việc sản xuất thừa men MMP trong các tế bào sụn. “Điều này chứng tỏ quả lựu có thể giúp bảo vệ sụn trước sự ảnh hưởng của Interleukin-1b bằng cách ức chế hoạt động thoái hóa”, tiến sĩ Tariq M.haqqi trưởng nhóm nghiên cứu kết luận.

   Một số nghiên cứu trên mẫu ung thư của động vật cũng thừa nhận các chiết xuất từ quả lựu có tác dụng chống ung thư, trong  khi nghiên cứu trên chuột và người thì chỉ ra rằng nó còn có tiềm năng về chữa trị tim mạch. Trong tương lai, nhóm  nghiên cứu của Haaqqi sẽ tập trung vào tìm hiểu tỷ lệ hấp thu các chất tiếp thu thu các chiết suất từ quả lựu trong khớp, khả năng sửa chữa sụn hư và tiềm năng điều  trị bệnh viêm khớp mạn tính tăng dần.

Dầu cá chống viêm khớp

            Các nhà khoa học Mỹ cho biết tích cực ăn những loại cá nhiều dầu như cá hồi, cá thu có thể làm dịu chứng viêm sưng như trong các bệnh tim mạch và viêm khớp

            Những bệnh nhân viêm khớp vẫn được khuyên ăn từ 2 đến 3 bữa cá dầu mỗi tuần, hoặc uống viên dầu cá 1500mg/ngày. Nhóm chất béo giúp chống viêm trong cơ thể người có nguồn gốc từ axit béo omega-3 trong dầu cá. Đặc biệt, nếu người bệnh kết hợp bổ sung thuốc aspirin liều thấp, họ sẽ nhận được hiệu quả cao nhất từ cá dầu.

            Viên sưng vốn là một phản ứng của cơ thể nhằm chống lại sự lây nhiễm và tổn thương. Tuy nhiên, nếu phản ứng này gặp sự cố, nó có thể gây ra những bệnh như viêm khớp và tim mạch

              Các nhà khoa học đến từ đại học Harvard và bệnh viện Brigham – đã nhận dạng một nhóm chất béo trong cơ thể người có tên là resolvin, làm nhiệm vụ kiểm soát tình trạng viêm sưng bằng cách ngăn cản các tế bào viêm di trú tới khu vực bị viêm, đồng thời chấm dứt khởi động những tế bào viêm khác. Rtesolvin thực chất được tổng hợp từ axit béo omega-3 tập trung nhiều trong các loại cá dầu, trong đó, thành viêm chống viêm tích cực nhất là chất resolvin E1

            Điều thú vị là thuốc aspirin lại khuyến khích cơ thể sản xuất resolvin E1 trong huyết thanh của những tình nguyện viên tham gia nghiên cứu được bổ sung aspirin và axit béo omega-3 mỗi ngày

            Serhan và đồng sự còn phát hiện ra các chất ức chế COX-2, nhóm dược liệu kiểm soát chứng viêm sưng, có liên quan đến quá trình sản xuất chất resolvin E1. Họ nghi rằng loại thuốc này có thể vô hiệu hóa khả năng tổng hợp E1 của cơ thể. Như vậy, rất có thể nhóm COX-2 vừa có tác dụng chống viêm sưng, vừa cô tình gây suy giảm cơ chế tự vệ quan trọng của cơ thể đối với tình trạng này.

Vitamin D có thể chống được bệnh viêm khớp mãn tính

             Vitamin D có thể giúp chống lại bệnh viêm khớp mãn tính (RA), đó là một kết luận trong những nghiên cứu mới đây. Sau khi nghiên cứu các số liệu tại trung tâm sức khỏe Phụ nữ Iowa, một nhóm các nhà khoa học đã tiến hành một dự án nghiên cứu vấn đề này vào năm 1986

              Họ đã quan sát mẫu từ gần 3000 phụ nữ có độ tuổi từ 55 đến 69, mà những người này không bị bệnh viêm khớp mãn tính trong giai đoạn đầu của nghiên cứu. Sau đó các nhà nghiên cứu dã theo dõi những phụ nữ này trong vòng 11 năm, tìm hiểu về những thói quen ăn uống, việc hút thuốc lá và trọng lượng cơ thể của họ.

             Các nhà khoa học đã phát hiện ra 152 trường hợp bị viêm khớp trong 11 năm sau đó. Kết quả cho thấy người sử dụng vitamin D nhiều thì có nguy cơ bị bệnh viêm khớp thấp hơn

             Nếu họ dùng ít hơn 200 IUs vitamin D trong một ngày, họ có nguy cơ bị bệnh viêm khớp khoảng 33% so với người dùng hơn 200 IUs vitamin trong một ngày

            Các bác sĩ khuyên nên dùng 400 Ius vitamin D trong một ngày từ thức ăn hoặc các nguồn bổ sung khác. Cho đến nay các nhà nghiên cứu cũng chưa biết một cách chính xác tại sao vitamin D lại có thể chống lại căn bệnh viêm khớp. Rất có thể Vitamin D có ảnh hưởng trong việc quy định calcium của cơ thể và nó cũng có ảnh hưởng tới hệ thống miễn dịch

            Vitamin có từ thực phẩm là tốt nhất, nếu có đủ lượng vitamin này trong chế độ ăn kiêng thì tốt, nếu không thì bạn phải bổ xung thêm lượng vitamin D. Một cốc sữa cung cấp khoảng 100 Ius vitamin D, một ly sữa bắp cung cấp 40 Ius.

Rượu thuốc phòng chống viêm khớp mùa lạnh

            Có thể phòng chống viêm khớp trong mùa lạnh bằng nhiều bài thuốc y học cổ truyền; trong đó có một cách đơn giản và tiện lợi là dùng rượu thuốc. Sau đây là một số loại thuốc phỏ biến:

- Mộc qua 120g, ngưu tất 60g, tang ký sinh 60g, tất cả tán vụn, ngâm với 500ml rượu trắng, sau chừng  7 – 10 ngày thì dùng được, uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 10 – 15ml

- Đỗ trọng, sà sàng tử, đương quy, xuyên khung, can khương, tần giao, phụ tử chế, thạch hộc, phòng phong, độc hoạt mỗi thứ 60g; nhục quế, tế tân mỗi thứ 20g, tất cả tán vụn, ngâm với 2000ml rượu trắng, sau 7 ngày thì dùng được, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 15 – 20ml. loại rượu này rất tốt cho những trường hợp viêm khớp, đau lưng do lạnh.

- Ngưu tất, tần giao, xuyên khung, bạch linh, phòng phong, độc hoạt, đan sâm mỗi thứ 60g; ngũ gia bì 250g, ý dĩ 30g, nhục quế 20g, ma nhân 15g, mạch môn, thạch hộc, đỗ trọng, phụ tử chế, địa cốt bì, can khương mỗi thứ 45g; tất cả tán vụn, ngâm với 1000ml rượu trắng, sau 7 ngày thì dùng được, uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 15 – 20ml

- Hải hồng bì, ý dĩ nhân mỗi thứ 30g, sinh địa 150g, ngưu tất, xuyên khung, khương hoạt, địa cốt bì, ngũ gia bì mỗi thứ 15g, cam thảo 4.5g, tất cả tán vụn, ngâm trong 1000ml rượu trắng, sau 7 ngày thì dùng được, uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 15 – 20ml

- Xương hổ, phòng kỷ, vân linh, đỗ trọng, tỳ giải, tần giao, cẩu tích, ngũ gia bì, tục đoạn, dây đau xương, mộc qua, kỷ tử, thương nhĩ tử, ngưu tất mỗi thứ 12g; độc hoạt 6g, khương hoạt 6g, tang chi 15g; tất cả tán vụn, ngâm với 2500ml rượu trắng, sau 7 ngày thì dùng được, uống mỗi ngày 10 – 15ml

- Xương hổ, dương quy, xuyên khung, tục đoạn, ngũ gia bì, ngưu tất, thiên ma, hồng hoa mỗi thứ 50g, tần giao 25g, phòng phong 25g, tang chi 200g, mộc qua 150g; tất cả tán vụn, ngâm với 2000ml rượu trắng, sau 7 – 10 ngày thì uống được, uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 10-15ml

- Khương hoạt, quế chi, tần giao, phòng phong, phụ tử chế, sinh khương mỗi thứ 6g, đương quy, cầu tích, xương hổ mỗi thứ 10g, đỗ trọng 12g, xuyên khung, tang chi mỗi thứ 20g, đại táo 4 quả; tất cả tán vụn, ngâm trong 1000ml rượu trắng, sau 10 ngày thì dùng được, uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 10ml.

- Tần giao, đương quy, phòng phong, xích thược, tam ký sinh, bạch linh, hai đồng bì, quế chi, sa sâm, độc hoạt, xuyên khung mỗi thứ 12g, cam thảo 8g, tất cả tán vụn, ngâm trong 1500ml rượu trắng. Sau 10 ngày thì dùng được, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần uống 20ml

Gừng có thể chữa bệnh viêm khớp

            Gừng có thể là liều thuốc giảm đau rất tốt đối với những người bị viêm khớp. Nó có hiệu quả tương đương với các thuốc giảm đau truyền thống và không gây tác dụng phụ có hại cho sức khỏe

            Trong vòng 6 tuần, 250 bệnh nhân viêm khớp tham gia thử nghiệm được yêu cầu uống mỗi ngày 510mg nước gừng cô đặc, chia làm 2 lần. Kết quả là các cơn đau của họ giảm rõ rệt (mức độ tương đương với các thuốc giảm đau được dùng trong bệnh viêm khớp)

Chương II: Thoái hóa khớp

PHẦN I: Tìm hiểu về thoái hóa khớp

Thoái hóa khớp là gì

             Thoái hóa khớp hay còn gọi là viêm xương khớp là bệnh khá phổ biến ở người cao tuổi, bệnh ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống, sinh hoạt, công việc do triệu chứng đau, tê, hạn chế cử động ở khớp. Để tránh tác hại của chứng bệnh này chúng ta tìm hiểu 3 vấn đề cơ bản sau đâu:

  1. Thoái hóa khớp là gì, do đâu lại bị thoái khớp?
  2. Những khớp nào dễ bị thoái hóa và có những biểu hiện gì?
  3. Những điểm gì cần lưu ý khi điều trị và phòng ngừa bệnh thoái hóa khớp?

Thoái hóa khớp là gì?

             Khớp là phần tiếp nối giữa hai đầu xương trong cơ thể gồm có bao khớp bọc xung quanh, sụn mềm đệm giữa 2 đầu xương, dịch nhày để khớp được trơn láng khi cử động

              Thoái hóa khớp là hư hỏng xảy ra ở sụn khớp là chính, kèm theo là phản ứng đầu xương tại khớp và giảm thiểu dịch nhày về số lượng và chất lượng.

             Thoái hóa khớp thường gặp ở các khớp cột sống cổ, cột sống thắt lưng, khớp vai, khớp bàn tay, khớp háng, khớp gối, khớp ở gót chân

      Thoái hóa khớp thường gặp ở tuổi trên 40 nhất là tuổi sau 60. Nhưng quá trình thoái hóa khớp thực sự đã xảy ra từ những năm 20 tuổi.


Nguyên nhân dẫn đến thoái hóa khớp


             Người ta nhận thấy rằng hầu hết thoái hóa khớp ở người cao tuổi là nguyên phát, nghĩa là không tìm thấy có một số yếu tố sau đây tham gia trong quá trình thoái hóa khớp: tuổi cao, tình trạng béo phì, tính di truyền, chấn thương nhẹ mãn tính ở khớp. Ngoài ra thoái hóa khớp cũng có thể là thứ phát nghĩa là do những  nguyên nhân cụ thể như xảy ra sau viêm khớp dạng thấp, viêm khớp nhiễm trùng, chấn thương khớp nặng, đái tháo đường, suy tuyến giáp trạng…
               Thoái hóa khớp nguyên phát thường gặp ở người cao tuổi và trong trường hợp này tuổi tác giữ một vai trò quan trọng. Người ta cho rằng sụn trong quá trình lão hóa chống đỡ kém, dễ bị hư hỏng trong quá trình khớp cử động và béo phì với cân nặng dư thừa góp phần làm tăng thêm gánh nặng cho các khớp nhất là khớp háng, khớp gối. Trong quá trình sống các chấn thương nhẹ mãn tính tại khớp dễ xảy ra nếu ta không chú ý như khuân vác hay xách đồ nặng làm tăng gánh nặng cho khớp cột sống, khớp gối, khớp háng, khớp ở gót chân. Các chấn tương ở khớp mạnh hơn như đá bóng làm tổn thương khớp gối nặng là nguyên nhân thường gặp của thoái hóa khớp thứ phát. Ngược lại ở những người không vận động nhất là những trường hợp bệnh nặng liệt giường, bất động kéo dài thì quá trình thoái hóa khớp cũng xảy ra khá nhanh chóng.


Triệu chứng của thoái hóa khớp và tác hại

            Thoái hóa khớp có biểu hiện gì và khớp nào thường bị thoái hóa

            Để phát hiện sớm bệnh thoái hóa khớp, cần lưu ý triệu chứng của của thoái hóa khớp là:

-Đau tại khớp bị thoái hóa.

-Cứng khớp vào buổi sáng

   Cả hai triệu chứng này đề có những đặc điểm khác với viêm khớp dạng thấp.

             Hiện tượng cứng khớp có nghĩa là khớp cử động khó khăn vào buổi sáng là triệu chứng thường gặp kéo dài trong thời gian ngắn 5 – 15 phút, tối đa không quá 30 phút, khu trú ở vai khớp bị thoái hóa. Trong khi đó viêm khớp dạng thấp có thể kéo dài lâu hơn đến vài giờ, cứng khớp có ở nhiều khớp và đối xứng cả 2 bên.

            Đau tại khớp bị thoái hóa

             Đau do thoái hóa khớp có một số đặc điểm như: xuất hiện ở một vài khớp riêng lẻ bị thoái hóa như ở khớp gối, khớp háng, cột sống cổ, cột sống thắt lưng, khớp ngón chân. Đau có thể 1 bên hoặc 2 bên khớp. Đau do thoái hóa khớp không đi kèm theo sưng nóng đỏ tại khớp, khác với đau do viêm khớp dạng thấp thường kèm theo sưng to hay nóng đỏ tại khớp

            Đau khớp về buổi sáng

              Trong trường hợp thoái hóa khớp ở cột sống thắt lưng giai đoạn đầu, người bệnh thấy đau lưng nhiều về buổi sáng khi mới ngủ dậy kéo dài không quá 30 phút thì giảm đau, sau đó không đau cả ngày dù vẫn làm việc bình thường. Sau một thời gian tiến triển thì bệnh nặng hơn, đau lưng kéo dài cả ngày, đau tăng khi làm việc nhiều và giảm khi nghỉ ngơi

             Trong trường hợp thoái hóa khớp gót chân, bệnh nhân có cảm giác đau thốn ở gót vào buổi sáng lúc mới ngủ dậy bước xuống giường đi những bước đầu tiên. Khi đi được vài chục mét thì thấy giảm đau nhiều và đi đứng bình thường. Sáng hôm sau tình trạng đâu lại tái diễn càng ngày càng nặng hơn.

             Thoái hóa ở khớp háng ngoài triệu chứng đau có thể kèm theo tiếng lạo xạo, lụp cụp khi co duỗi khớp gối, đau khớp gối nmhieeuf khi đi lại vận động, đau nhất là khi phải níu vào vật gì khác để đứng dậy. Nặng hơn là tê chân, biến dạng nhẹ ở khớp gối.

             Thoái hóa khớp gối làm người bệnh đi lại khó khăn ngay từ ngày đầu do triệu chứng đau vì khớp háng chịu đựng trọng lượng cơ thể nhiều nhất

             Thoái hóa cột sống cổ thường gặp ở cột sống thứ 4. 5. 6 biểu hiện bằng cảm giác đau mỏi phía sau gáy lan đến cánh tay bên có dây thần kinh bị ảnh hưởng

            Thoái hóa cột sống thắt lưng hay gặp ở cột sống thắt lưng thứ 3 trở xuống. Khi có ảnh hưởng thần kinh tọa người bệnh có cảm giác đau lan từ lưng xuống chân đôi khi rất mạnh như một luồng điện chạy từ trên xuống khi có một cử động không đúng hướng

             Cảm giác thường xuyên mỏi ở khớp làm cho bệnh thích bẻ khớp, hay giật mạnh khớp để tạo tiếng kêu răng rắc, những động tác này có thể gây hại cho khớp

             Ngoài các triệu chứng lâm sàng nêu trên thì chụp X-quang khớp phần nào giúp xác định chuẩn đoán và đánh giá mức độ nặng của bệnh. Trên phim X quang, ta có thể thấy:

- Khe hẹp khớp do biến đổi của sụn khớp

- Hình ảnh gai xương thường mọc ở bên bờ khớp có thể là nhiều gai. Gai xương thường gặp ở cột sống, ít gặp hơn ở các khớp gối, khớp gót chân

  Cung có nhiều trường hợp thoái hóa khớp trong giai đoạn sớm hình ảnh X quang khớp còn bình thường. Nhưng do người bệnh không biết nên chủ quan không điều trị đây là giai đoạn điều trị và phòng ngừa cho kết quả tốt.

     Ngoài chụp X quang khớp thì xét nghiệm máu không phát hiện gì bất thường


Hỏi đáp về thoái hóa khớp

            Thoái hóa khớp hay viêm khớp dạng thấp?

             Tôi rất đau khớp gối nhưng không bị sưng hoặc biến dạng, đang ngồi xổm rất khó đứng dậy, sáng ngủ dậy thì khớp hai bàn tay bị cứng, phải tập 10 phút mới khỏi. Có bác sĩ chuẩn đoán là thoái hóa khớp, có bác sĩ lại chuẩn đoán là viêm khớp dạng thấp. Vậy tôi bị bệnh gì?

             Cả hai bệnh thoái hóa khớp và viêm khớp dạng thấp đều có những biểu hiện sau:

-Đau tại khớp, biến dạng khớp

-Cứng khớp vào buồi sáng

            Tuy nhiên, hiện tượng cứng khớp do thoái hóa khớp thường chỉ kéo dài trong thời gian 5-15 phút, tối đa là 30 phút, chỉ khu trú ở vài khớp bị thoái hóa. Trong khi đó, ở viêm khớp dạng thấp, hiện tượng này có thể kéo dài đến vài giờ, xảy ra ở nhiều khớp và đối xứng cả hai bên

             Đau do thoái hóa khớp thường xuất hiên ở một vài khớp bị thoái hóa (như khớp gối, khớp háng, cột sống cổ, cột sống thắt lưng, khớp gót chân), có thể ở một hoặc hai bên. Cảm giác đau không kèm theo sưng, nóng, đỏ tại khớp. Còn đau do viêm khớp dạng thấp thường đi kèm theo sưng to hay nóng đỏ tại khớp

            Vì sao khớp vai hay đau?

            Tôi thường hay đau khớp vai sau khi vận động. Như thế có phải là do viêm khớp vai?

            Đau khớp vai là bệnh lý hay gặp thứ hai sau đau lưng. Bệnh thường liên quan đến vận động thể thao, nhất là chơi quần vợt, bơi lội, bóng chuyền, là những môn đòi hỏi khớp này vận động nhiều ra phía sau.

   Khớp vai có diện hoạt động rất rộng (có thể vận động về mọi phía) và cũng là khớp duy nhất không lồng khít với ổ khớp. Vì vậy, nó rất không vững chắc và có nguy cơ tổn thương cao nếu vận động quá nhiều hay vận động không đúng. Đau khớp không phải bao giờ cũng do viêm khớp. Có 3 nguyên nhân chính gây hạn chế cử động của vai:

- Dây chằng yếu, không giữ nổi khớp vai: nguyên nhân do vận động quá mức. Hay gặp ở người bơi sải, bơi bướm, chơi quần vợt. Biểu hiện: khi vận động khớp vai, có cảm giác đau kèm theo tiếng răng rắc. Cách điều trị là để cho khớp vai nghỉ ngơi, rồi tập vận động để củng cố các cơ “quay tròn”. Nếu không bớt đau thì cần xem các dây chằng có bị căng quá mức hay bị rách không. Có khi phải thay đổi hoạt động thể thao

- Tổn thương xương đòn: do phải làm việc quá mạnh và vung qua đầu nhiều lần (bơi bướm chẳng hạn) nên xương đòn bị tổn thương, nhất là ở khớp nối mỏm vai và xương đòn. Kết quả là khớp nhỏ này bị đau mỗi khi vận động hặc bị chèn ép. Bệnh nhân không thể nằm nghiêng bên đau mà ngủ được. Nếu đau nhiều và kéo dài thì cần tìm nguyên nhân khác như bệnh lý ở dốt cột sống cổ hoặc phải can thiệp phẫu thuật

- Viêm dây chằng: Do vận động sai lệch hay stress. Thường đi kèm viêm bao khớp. Dây chằng co lại làm cho vai đau, cứng đơ, không vận động được. Khi các dây chằng không co rút nữa thì bao khớp sẽ tự nhiên hết viêm. Để hồi phục cử động vai, cần nhiều tháng chữa trị và luyện tập theo hướng dẫn của thầy thuốc chuyên khoa chấn thương

            Viêm khớp thái dương hàm

              Gần đây, khi há miệng, tôi thường thấy đau và nghe xương khớp thái dương hàm bên trái kêu, nhất là buổi tối. Bác sĩ nói tôi bị chứng “TMD” do nhai hàm bên trái trong một thời gian dài (vì hàm dưới bên phải mất răng). Nếu trồng lại răng, bệnh có khỏi không? Tôi có bị viêm xương hàm không? Xin bác sĩ cho biết cách điều trị?

Bệnh viêm khớp thái dương hàm có nhiều nguyên nhân, thường là do khớp cắn lệch lạc hoặc răng lệch lạc, đặc biệt là nếu bị mất răng lâu ngày. Trong trường hợp trên, muốn khỏi bệnh thì trước tiên bạn phải trồng lại răng. Nếu việc mất răng đúng là nguyên nhân dẫn đến viêm khớp thái dương hàm thì sau khi được trồng lại răng, bạn sẽ khỏi bệnh.

              Nếu tình trạng mất răng của bạn kéo dài lâu ngày, khớp cắn có thể bị tổn thương. Khi đó, việc điều trị bệnh sẽ trở nên phức tạp hơn. Trường hợp của bạn chúng tôi nghĩ đến bệnh viên xương hàm

            Viêm khớp dạng thấp hay thoái hóa khớp?

              Hai năm nay, tôi bị đau âm ỷ ở ngón cái tay phải, rồi ngón cái tay trái, khớp cứng khó cử động, khi cử động thì kêu “cụp cụp” chứ không sưng và nóng. Khi đau nhiều, tôi uống một vài viên panadol thì bớt. Tôi nghĩ mình bị viêm khớp dạng thấp nên đã uống Cloroquine Sulphate hơn 2 tháng mà không đỡ. Tôi uống thuốc như vậy có đúng không?

            Các triệu chứng trên cho thấy có nhiều khả năng bạn không bị viêm khớp dạng thấp mà bị thoái hóa khớp bàn và ngón tay hia bên.

- Với bệnh thoái hóa khớp ngón cái, quan trọng nhất là tập vận động ngón tay cái thường xuyên. Tập nhẹ nhàng, tránh làm các việc phải tì đè bằng ngón cái và chỉ nên uống thuốc giảm đau (ví dụ panadol) khi đau

- Với bệnh viêm khớp dạng thấp, mọi việc sẽ phức tạp hơn nhiều. Trước khi điều trị, phải xác định bệnh bằng các tiêu chuẩn chuẩn đoán bệnh viêm khớp dạng thấp. Trước đây, thuốc Chloroquine Sulphate được sử dụng cho thể nhẹ của bệnh viêm khớp dạng thấp. Gần đây, người ta đã thay thế nó bằng Hydroxy Chloroquine (HCQ), một thuốc ít gây tác dụng phụ tới mắt hơn

   Bạn không nên tiếp tục tự ý dùng thuốc khi chưa xác định rõ bệnh. Trước hết, hãy đến bệnh viện để bác sĩ khám và có những chỉ định cụ thể

Phân II: Phòng và điều trị bệnh thoái hóa khớp

Phương pháp điều trị thoái hóa khớp

Cho tới nay, chưa có dược phẩm hay cách nào có thể phục hồi tế bào sụn và chữa dứt bệnh thoái hóa khớp, mà chỉ chữa theo triệu chứng: đau đâu chữa đó, đau lúc nào uống thuốc lúc ấy.

   Tuy nhiên, với những phương tiện hiện đại, người bệnh có thể duy trì, cải thiện một số chức năng của khớp bị bệnh, làm bớt đau và làm đời sốn linh động tốt hơn.

   Người bệnh cần được hướng dẫn, tìm hiểu về bệnh, biết rõ căn nguyên, nguy cơ gây bệnh để tránh, biết phải làm gì để bớt đau và thích nghi với khó khăn, khiếm dụng do bệnh gây ra.

1-Vật lý trị liệu

   Đây là phương tiện được dùng rất nhiều hiện nay vì có nhiều công hiệu. Nó giúp bệnh nhân phục hồi một số chức năng của bắp thịt và khớp như khả năng co duỗi, sự di động, mềm mại; hướng dẫn cách lựa và sử dụng gậy chống, nạng, tựa người.

2-Vận động

   Sự vận động cơ thể làm tăng sự mềm mại của cơ thịt, co và duỗi ra dễ dàng, khớp cử động nhẹ nhàng, tăng máu lưu thông tới nuôi dưỡng khớp, làm bớt đau, làm tầm cử động rộng hơn. Cần lưu ý là chỉ vận động vừa sức mình, không vận động khi khớp đang sưng, nóng, đau. Trước khi tập, có thể đắp nóng để làm thư giãn cơ, làm máu lưu thông tốt, hoặc đắp lạnh trên khớp để làm bớt đau, sưng và viêm đỏ. Đôi khi ta có thể luân phiên với sức lạnh và sức nóng, mỗi thứ chừng 30 phút.

3-Giảm béo

   Béo phì vẫn được coi như là nguy cơ gây thoái hóa khớp, nên giảm cân là một cách tốt để làm cơ thể nhẹ nhàng, bớt sức nặng dồn trên khớp nhất là khi ta di chuyển.

4-Dược phẩm

Dược phẩm được dùng với mục đích chính là để giảm đau, chống viêm sưng.

Thuốc acetaminophen ( Tylenol) được coi như là thuốc căn bản, uống với phân lượng cao tới 4 grams một ngày. Thuốc này dùng nhiều có thể ảnh hưởng tới gan nhất là khi người bệnh uống rượu, hoặc đưa đến thận suy.

Thuốc có chất á phiện chỉ nên dùng ngắn hạn khi cơn đau dữ dội không chịu nổi hoặc làm mất ngủ.

Có nhiều loại thuốc bôi làm dịu đau như kem bôi capsaicin, mỗi ngày thoa đều trên khớp đau ba bốn lần.

Thuốc chống viêm không có steroid như ibuprofen, naproxen, Celebrex, Daypro, … có nhiều công hiệu.

Các thuốc chống đau đều có nhiều tác dụng phụ, không tốt, nên trước khi dùng, cần tham khảo ý kiến bác sĩ.

Ngoài ra, dùng những máy phát ra sóng từ trường, hoặc chích thuốc ( corticosteroids, Hyaluroran ) vào khớp cũng giúp giảm cơn đau nhức một phần nào.

Trường hợp nặng có thể giải phẫu thay khớp.

5-Dinh dưỡng

   Trong những năm gần đây, nhiều chuyên gia đã nghĩ ra và đề nghị áp dụng dinh dưỡng trong việc chữa bệnh thoái hóa khớp. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào xác định là một chế độ ăn uống hoặc một món thực phẩm nào đó có thể trị được bệnh viêm khớp này.

              Có một số ý kiến cho rằng nếu ta ăn vài trăm gram cá mỗi ngày thì có thể giảm cứng khớp mỗi sáng khi thức dậy.

              Bác sĩ Joel M.Kremer của Đại học Y khoa New York cho hay, uống dầu cá viên trong tuần lễ có thể làm giảm sưng và đau của viêm khớp. Ta nhớ là cá có loại axit béo Omega – 3

              Có người cũng đã thử nghiệm và thấy cà chua cũng làm bớt đau viêm khớp.

             Có một số bài thuốc được giới thiệu là làm thuyên giảm triệu chứng của viêm khớp. Đó là:

             Chất Glucosamine. Glucosamine sulfate là chất lấy ra từ vỏ sò, vỏ cua và đóng dưới dạng thuốc viên. Theo nhà sản xuất, mỗi ngày uống 1500mg chia ra làm ba lần. Thuốc chỉ gây ra một chút khó chịu cho dạ dày. Nhiều nghiên cứu cho hay, phải uống cả tháng mới thấy có công hiệu. Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm cho hay, Glucosamine có tính chất chống viêm và kích thích sản xuất sụn.

             Chất Chondroitin : Đây là chất được lấy ra từ sụn cá mập, bò và có dưới dạng viên hoặc con nhộng. CŨng như Glucosamine, thuốc này được giới thiệu có khả năng chống viêm và tạo sụn. Một số nghiên cứu khoa học cho hay, Chondroitin ít gây ra tác dụng phụ. Mỗi ngày phải uống khoảng 1200mg, chia ra làm ba lần và phải uống khoảng bốn tuần lễ mới thấy công hiệu.

             SAMe: Đây là chữ viết tắt của S – Adenosyl – methionine, là một hợp chất thiên nhiên trong mọi tế bào cón sống và được sản xuất bằng cách nuôi tế bào các loại men, nấm. SAMe đã được bán theo đơn của bác sĩ ở châu Âu từ năm 1975 để chữa viêm khớp và trầm cảm. Món thuốc này khá đắt và phải dùng từ 400mg tới 1200mg mỗi ngày. Tác dụng phụ là khó chịu tiêu hóa, như là tiêu chảy.

             Ngoài ra, theo kinh nghiệm nhiều người thì gừng, khoáng Borom, chất DMSO Dimethyl Sulfoxide từ quả gỗ cơm (pulp) cũng có công dụng chống viêm của xương khớp.

6-Xử lý tại nhà khi bị đau xương khớp

            Khi xảy ra một cơn đau cấp tính ở một vùng cơ xương nào đó, việc đầu tiên người bệnh nên làm là nghỉ ngơi. Một số thuốc giảm đau có thể sử dụng ngay trong một hai ngày đầu là:

- Paracetamol liền 500-1000mg đối với người lớn.

- Các thuốc ngoài da ( không chà xát hay xoa bóp mạnh)

- Thuốc kháng viêm không steroid như Bnalgesin, diclofenac, v.v…

              Lưu ý:

- Cần thận trọng trong việc sử dụng mọi loại thuốc đối với những người có tiền căn bệnh dị ứng, hen xuyễn, bệnh mãn tính về tim mạch, thận, gan, phụ nữ có thai hay đang cho con bú

- Một số người có thói quen sử dụng lại những đơn thuốc cũ hay đơn thuốc của một người khác có triệu chứng tương tự, đưa đến việc đưa vào viện trễ, bị những biến chứng nặng của bệnh hay phản ứng phụ  nguy hiểm đến tính mạng. Vì vậy, người bệnh tuyệt đối không nên sử dụng lại nhiều lần một đơn thuốc hoặc tự trị liệu theo kinh nghiệm nếu không phải là người chuyên môn trong y tế

- Sau khi nghỉ ngơi và tạm thời uống những thuốc giảm đau thông thường khoảng 3 ngày mà không thấy bệnh thuyên giảm hay chỉ giảm rất ít, người bệnh nên đến cơ sở y tế để được thăm khám và xử lý kịp thời.

            Kết luận

             Thoái hóa khớp kinh niên đưa tới nhiều trở ngại, khó khăn cho người bệnh. Ngoài thuốc men và các phương thức trị liệu khác, bệnh nhân cũng nên khéo léo tổ chức trong sinh hoạt hàng ngày để tránh khớp đau nhiều hơn:

- Khi làm việc, khi ăn, nên ngồi nhiều hơn là đứng. Ghế ngồi có chỗ dựa lưng để giảm căng thẳng cho bắp thịt ở lưng. Ghế có dựa tay để giúp đứng lên ngồi xuống dễ dàng.

- Mở hộp thức ăn với dụng cụ thay vì dùng sức mạnh của bàn tay. Đứng cầm vật gì nặng quá lâu

- Cần nâng một vật nặng, nên sử dụng cả hai tay thay vì một tay chịu nặng vào hai chân chứ không vào xương sống lưng

             Làm được như vậy là ta đã phần nào tránh được sự mất khả năng vận động, một trong những nguyên nhân đưa tới việc lệ thuộc vào người khác của tuổi già

Ăn cam chống thoái hóa khớp

   Một công trình nghiên cứu mới được công bố cho thấy, chỉ cần ăn một quả cam một ngày và phơi nắng một cách vừa phải, là có thể ngăn chặn được bệnh viêm khớp xương, một trong những bệnh thông thường nhất trên thế giới hiện nay.

              Có đến 90% những người trên 40 tuổi bị viêm khớp xương ở một mức độ nào đó. Tuy nhiên, không nên diểu bệnh viêm khớp xương như là bệnh thấp khớp, vốn làm cho các khớp xương trở nên rất đau đớn mà thật ra là vì tạo ra bởi việc hệ thống miễn nhiễm hoạt động không đúng nhiệm vụ mà quay lại tấn công các lớp sụn lót của các khớp, bệnh thấp khớp này có thể được kiểm soát bằng các loại thuốc thông thường

            Khác biệt chính giữa hai bệnh viêm khớp và thấp khớp là các cơn đau của bệnh thấp khớp diễn ra từng cơn, trong khi đó, đau nhức của bệnh viêm khớp thì hầu như thường xuyên không thay đổi ngày này qua ngày khác

   Cho đến nay, cách chữa trị độc nhất của bệnh viêm khớp này là dùng các thuốc chống đau và trong trường hợp bệnh nặng quá thì phải mổ. Tuy nhiên, các bác sĩ tại trung tâm nghiên cứu về viêm khớp tại Mỹ đã khám phá ra rằng, một chế độ ăn uống giàu sinh tố mặc dù không thể ngăn chặn được bệnh này tái phát nhưng có thể làm chậm tiến trình phát triển của bệnh và đôi khi ngăn chặn hẳn được nó. Họ đã dùng các tấm hình chụp X-quang khớp xương đầu gối của các bệnh nhân, chụp cách nhau 10 năm và so sánh chế độ ăn uống của họ

              Đặc biệt, đối với những người dùng nhiều xinh tố C, có khả năng ngăn chặn bệnh viêm khớp phát triển cao hơn đến 3 lần so với những người không dùng hoặc dùng ít sinh tố C. Sinh tố D có tác động kích thích xương cũng như có tác dụng tương đương

              Nhưng các bác sĩ nhấn mạnh rằng, đây là chưa phải là bằng chứng tốt nhất cho thấy sinh tố có thể ngăn chặn được sự phát triển của bệnh viêm khớp. Tuy nhiên, nếu bạn bị bệnh này thì uống thêm nhiều sinh tố chắc cũng không có hại gì, nhưng ăn thêm bao nhiêu thì vừa phải. Đối với sinh tố C, khác biệt chính giữa hai nhóm là khoảng 120mg một ngày, tương đương với 1 hay 2 quả cam một ngày.

Thoái hóa đốt sống cổ và cách phòng tránh

             Tư thế hoạt động sai là một trong những nguyên nhân gây thoái hóa đốt sống cổ. Ở mức độ nặng bệnh có thể gây ra các biến chứng phức tạp như cảm giác khó nuốt, buồn nôn, chóng mặt… Ngoài phương pháp điều trị bằng thuốc, châm cứu và bấm huyệt kết hợp với xoa bóp cũng là cách điều trị hiệu quả

            Một đợt không khí lạnh tràn về kết hợp với một tư thế nằm không thuận lợi về ban đêm có thể gây cứng cổ sáng hôm sau. Người bị cứng cổ không tự đi được và rất sợ những cơn ho, hắt hơi. Có người đau ê ẩm vùng gáy hoặc cả mảng đầu sau, rồi lan sang mảng đầu bên trái. Một số khác đau liên tục, không quay đầu sang trái hay sang phải được mà phải xoay người… Những công việc luôn đòi hỏi cúi nhiều, ngửa nhiều, mang vác nặng trên đầu hay ngồi trước màn hình vi tính quá lâu cũng sẽ làm sai lệch cấu trúc bình thường của cổ, dẫn tới biến đổi mồ xương, dây chằng, cơ và dễ dẫn đến thoái hóa các mô cột sống hoặc hình thành các gai xương đốt sống.

            Các biểu hiện bệnh

- Đau nhức mỏi từ bả vai lan xuống  cánh tay hoặc như có kim châm tê tê suốt dọc phía trong cánh tay, khiến người bệnh khó khăn khi nâng cánh tay lên hoặc hạ xuống. Nếu trầm trọng, thoái hóa đốt sống cổ có thể gây biến chứng phức tạp hơn như cảm giác khó nuốt, thấy vướng ở cổ, choáng váng…

- Bệnh biểu hiện dưới dạng thoái hóa đĩa đệm, thoái hóa đốt sống (cảm giác gai xương)… làm biến dạng cột sống cổ, mất đường cong sinh lý cột sống cổ, khớp đốt sống cổ cứng lại, hạn chế vận động. Những bệnh thường gặp ở đốt sống cổ thoái hóa nặng, hình thành nên các gia xương. Khi vận động đầu cổ, gai xương này kích thích, chèn ép vào rễ thần kinh gây đau

- Bệnh có thể diễn ra ở đĩa đệm. Đĩa đệm bị thoái hóa, lồi ra bên ngoài vị trí ban đầu hoặc thoái vị về một phía chèn ép và rễ thần kinh gây đau và hạn chế vận động, đặc biệt trong các tư thế cúi, ngửa.

            Một số cách điều trị

- Dùng các thuốc chống viêm, giảm đau như alaphan, viatril-s nhằm làm tăng tạo sụn khớp, hạn chế quá trình thoái hóa

- Nếu ở mức độ nhẹ, cần nghỉ ngơi, thư giãn kết hợp liệu pháp xoa bóp,bấm huyệt, châm cứu hay tập luyện đốt sống cổ nhẹ nhàng, đúng phương pháp

- Đeo đai một thời gian ngắn để hạn chế chuyển động và giữ tư thế sinh lý đầu cổ

- Khi có bệnh rễ thần kinh do lồi, thoái vị đĩa đệm, ngoài việc dùng các biện pháp lý liệu phục hồi chức năng, người bệnh cần được kéo giãn cột sống cổ và thư giãn, tránh các tư thế đầu cổ sai lệch hoặc tăng trọng tải vùng đầu cổ

            Cách dự phòng bệnh

- Thay đổi tư thế làm việc sai lệch như ngồi làm việc trước bàn vi tính kéo dài.

- Không nên có động tác vặn bẻ cổ đột ngột khi thấy mỏi, bởi tất cả những động tác này sẽ làm tăng thoái hóa đốt sống cổ

- Không nên đội nặng trên đầu

- Cần luyện tập thể dục nhẹ nhàng và xoa bóp theo chỉ dẫn của bác sĩ

Trà xanh làm giảm nguy cơ đau bắp

             Các nhà nghiên cứu thuộc trường đại học Sheffield (Anh) đã phát hiện trong trà xanh có hai chất EGCG (Epigallocatechin Gallate) và ECG (Epicatechin Gallate) có thể giúp cơ thể phòng ngừa bệnh viêm khớp nhờ khả năng ngăn chặn chất enzyme phá hủy phần sụn trong  khớp xương.

              Theo tiến sĩ David Buttle – thành viên nhóm nghiên cứu này, các thí nghiệm cho thấy rõ tác dụng bảo vệ sụn của EGCG, làm giảm đau và sưng khớp. Vì vậy, trà xanh cần được xem như một thức uống dược phẩm phòng ngừa căn bệnh này. Trước đó, trà xanh đã được xem là thức uống có lợi cho sức khỏe khi có tác dụng liên quan đến ngăn ngừa bệnh động mạch vành, đột quỵ và vài loại bệnh ung thư

Lời khuyên đối với người có tuổi bị viêm khớp

- Người có tuổi bị đau khớp hoặc viêm khớp kinh niên thì không chữa khỏi hẳn được.

- Một số cách xử lý làm bệnh giảm đau:

+ Nghỉ ngơi: Nên tránh lao động nặng và vận động mạnh làm cho khớp đau. Nếu viêm khớp có sốt nên ngủ ban ngày là tốt nhất

+ Đắp gạc nóng: Dùng vải thấm nước nóng đắp lên khớp đau

+ Uống aspirin giảm đau:Uống 100mg mỗi ngày, chia bốn lần đến sáu lần. Nếu thấy ù tai uống bớt đi. Nếu uống aspirin cùng thức ăn, hoặc sữa, hoặc natribicacbonat, hoặc uống nhiều nước để tránh hại dạ dày.

+ Làm những động tác vận động đơn giản để giữ nguyên hoặc làm tăng khả năng vận động của các khớp đau.

+ Nếu chỉ có một khớp bị sưng, nóng và có sốt, có lẽ khớp bị viêm phải dùng kháng sinh như penixilin.

Chương III: Bệnh Gout

Phân I: Tìm hiểu về bệnh Gout

Sơ lượt về bệnh gout

             Gout là bệnh được biết và mô tả từ thời Hy Lạp cổ. Ngay từ thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên, Hyppocrates đã mô tả rõ một biểu hiện rất đặc trưng của bệnh là sưng tấy, nóng, đỏ và rất đau ở ngón chân cái, ông còn gọi bệnh Gout là “Vua của các bệnh” và “ bệnh của các Vua”.

             Suốt gần 2.000 năm sau những mô tả và nhận định này của Hyppocrates, nhân loại chẳng biết thêm gì đáng kể về căn bệnh này, ngoại trừ một mô tả lâm sàng hết sức sống động, hết sức chân thực của một bác sĩ người Anh, và cũng là một nạn nhân của bệnh Gout – bác sĩ Sydenham. Ngoài ngón chân cái, Sydenham còn nêu thêm một số vị trí khác  cũng có thể bị bệnh Gout tấn công như : khớp bàn ngón chân, khớp cổ chân,…

   Mãi tới cuối thế kỉ XVIII, các nhà khoa học Đức và Mỹ mới phát hiện được các tinh thể urate trong các u cục quanh khớp, trong các viên sỏi ở hệ tiết niệu, đồng thời phát hiện được sự khác nhau giữa lượng acide uric ở nước tiểu người bình thường và người bệnh. Sau các phát hiện trên là một loạt cá nghiên cứu của các nhà khoa học Anh, Đức, Mỹ, Nga…. Cho đến giữa thế kỉ XX, các nhà khoa học đã làm rõ các nguyên nhân gây tăng acid uric máu, đã tìm thấy tinh thể urate dịch khớp, ở sụn khớp, ở các tổ chức dưới da, đã tìm được lí do làm khớp bị viêm cấp và người ta có thể gây viêm khớp thực nghiệm bằng chích tinh thể urate vào ổ khớp. Cũng từ đây, các phương pháp chẩn đoán và điều trị bệnh Gout đã dần được củng cố và hoàn thiện.

Những quan niệm chung về bệnh gout

Gout là một bệnh khớp do rối loạn chuyển hóa purin ở người, mà nguồn gốc từ việc tiêu hủy các acid nhân của tế bào và hoặc giảm bài xuất acid uric ra nước tiểu, gây tăng acid uric trong máu. Ở người bình thường, lượng acid uric máu từ 3 – 5 mg% ( hay 180 – 300 mol/L). Acid uric máu cao khi bằng hoặc trên con số 7mg% ( hay 420mol/L).

   Tuy nhiên không phải cứ có acid uric máu cao là bị bệnh Gout. Nếu chỉ có acid uric mấu cao đơn thuần, chỉ được gọi là tình trạng tăng acid uric máu không triệu chứng. Người bệnh nên được theo dõi sức khỏe thường kì, nên hạn chế protid trong khẩu phần ăn hàng ngày, hạn chế uống rượu, giảm cân nặng nếu có quá cân và tăng cường vận động để tránh thừa cân.

            Chỉ gọi là bệnh Gout khi tình trạng tăng acid uric máu gây những hậu quả xấu cho cơ thể. Hậu quả trước mắt  của bệnh là gây các đợt viêm khớp Gout cấp – nỗi kinh hoàng cho những ai bị Gout, tuy nhiên ở giai đoạn đầu, các đợt viêm này thường xuyên và rất dễ chữa. Nếu bệnh không được điều trị đúng và đủ, các đợt viêm khớp sẽ xuất hiện thường xuyên hơn, kéo dài hơn, khó chữa hơn và hậu quả lâu dài và cố định của bệnh sẽ là viêm nhiều khớp, xuất hiện nhiều u cục quanh khớp, cứng khớp, biến dạng khớp, tàn phế, sỏi hệ tiết niệu đặc biệt là sỏi thận và nguy hiểm hơn cả là suy chức năng thận, đây là nguyên nhân chính làm giảm tuổi thọ của các bệnh nhân Gout.

            Gout là một bệnh khớp do rối loạn chuyển hóa, các bệnh rối loạn chuyển hóa và liên quan đến rối loạn chuyển hóa thường hay đi kèm với nhau vì vậy bệnh nhân Gout thường thừa cân, mà mắc thêm một hay nhiều bệnh như: xơ vữa đọng mạch, rối loạn chuyển hóa mỡ, tiểu đường, rối loạn lipid máu, cao huyết áp, bệnh mạch vành, bệnh mạch não…. Nói cách khác,các bệnh nhân bị các bệnh nói trên rất dễ bị bệnh Gout.

            Với những biểu biết hiện nay về bệnh Gout, với những phương tiện và thuốc men hiện có, bệnh Gout được coi là bệnh dễ chẩn đoán, có thể chẩn đoán sớm và có thể điều trị đạt kết quả cao.

GOUT – Căn bệnh nhà giàu

              Những khớp sưng đi sưng lại, những cơn đau, có khi tới hàng chục lần trong năm, thường xảy ra lúc nửa đêm hoặc sau một bữa ăn phong phú thực phẩm, nhiều rượu và thịt đó là những hình ảnh cô đọng về căn bệnh không chết người nhưng cũng chẳng mấy dễ chịu

             Gout (Goutte), hay còn gọi là bệnh thống phong thực chất là một loại viêm khớp. Chỉ có điều, tất cả các thuốc chữa thấp khớp đều tỏ ra bất lực với bệnh này. Bệnh dễ bị chuẩn đoán nhầm là viêm da khớp thông thường vì có các biểu hiện: đau nhức, sưng, nóng, đỏ, căng bóng các khớp

            Nhiều acid uric

            Bệnh xảy ra do nồng độ acid uric trong cơ thể tăng cao, tạo thành các tinh thể lắng đọng tại khớp, gây ra những cơn đau đớn vô cùng khó chịu. Nguyên nhân dẫn đến acid uric tăng:

1. Sử dụng quá nhiều thực phẩm có chứa nhiều purin như:

- Các loại thịt đỏ ( thịt chó, thịt bò, thịt thú,…)

- Phủ tạng động vật: tim, gan, bầu dục…

- Một số cá (cá mòi, cá hồi, cá trích…)

- Tôm, cua, ốc …

2. Sử dụng một số thuốc như:

- Nhóm cortison

- Aspirin, các chuốc chứa salicytale

- Pyraxinamid, thuốc lợi tiểu

            Tiến triểu

             Bệnh gout tiến triển qua hai giai đoạn.

1. Giai đoạn cấp tính:

- Người bệnh bỗng thấy ngón tay, ngón chân cái bị sưng tấy (cũng có khi sưng ở cổ chân, khớp gối hoặc những ngón chân khác). Xuất hiện những cơ đau dữ dội, đau đến mức không thể chịu đựng được, nhất là về đêm. Có thể kèm theo sốt nhẹ, mệt mỏi và sợ lạnh

- Cơn sưng đau kéo dài từ vài ngày đến hàng tuần, rồi tự nhiên giảm dần và trở lại gần như bình thường

- Vài tuẩn hoặc vài tháng sau, những cơn đau khác lại xuất hiện, cũng dữ dội và bất ngừ như những cơn đau trước. Cứ như vậy, những cơn sưng đau trở đi trở lại, có khi tới hàng chục lần trong năm.

- Cơn gout thường xảy ra vào quá nửa đêm, hoặc sau một bữa ăn nhiều rượu thịt

   Nếu không được điều trị dứt điểm, bệnh sẽ kéo dài vài năm rồi chuyển thành mãn tính

2. Giai đoạn mãn tính

   Người bị sưng đau nhiều khớp, nhất là ngón chân cái, mắt cá, khớp gối và khớp đốt ngón tay. Các u cục này to nhỏ không đều, đường kính từ 2mm đến 5cm, hơi mềm, không đau, có thể nhìn thấy cặn trắng ở bên dưới lớp da mỏng. Khi bị vỡ, các u này sẽ chảy ra một thứ bột trắng như phấn, đó là axit uric lắng đọng dưới dạng muối urat. Các muối urat không những lắng đọng ở dưới da, quan khớp mà còn lắng đọng că ở thận, gây sỏi thận, dẫn đến tăng huyết áp, suy tim, suy thận và có thể dẫn đến tử vong.

            Xử trí

             Bệnh thường đe dọa nam giới từ 30 tuổi trở lên, to béo, ăn uống thừa thãi (rất hiếm gặp ở phụ nữ và lứa tuổi trẻ). Theo các chuyên gia y tế, bệnh hòa toàn có thể phòng ngừa được, nên những người trên 30 tuổi, có mức sống cao nên thường xuyên kiểm tra nồng độ acid uric trong máu

- Nếu lượng acid uric cao hơn mức bình thường (50-60mg/l) thì phải thực hiện ngay chế độ ăn uống thích hợp và dùng thuốc giảm acid uric trong máu.

- Khi xuất hiện cơn đau, có thể dùng thuốc chông viêm, giảm đau, nhưng không nên quá ỷ lại vào thuốc, vì chúng chỉ có thể cắt cơn đau mà không điều trị dứt bệnh được

- Tuyệt đối không được uống rượu và các chất kích thích khác

- Uống nhiều nước (2-3 lít/ngày), tốt nhất là nước khoáng có độ kiềm cao, để tăng thải acid uric qua đường tiểu tiện

- Tránh dùng các thực phẩm có chứa nhiều chất purin như thịt, cá, phủ tạng động vật (chỉ nên dùng dưới 100g/ngày hoặc không quá hai lần mỗi tuần).

Tại sao bệnh nhân gout lại gia tăng nhanh như vậy?

              Các lý do chính của sự gia tăng này là:

- Kiến thức và khả năng chuẩn đoán các bệnh về khớp đã được nâng lên một bậc đáng kể, ngày càng giảm đi những chuẩn đoán chung chung vô nghĩa như: thấp khớp, viêm đa khớp…

- Đời sống kinh tế của nhân dân và đang được nâng lên rõ rệt

- Với chính sánh mở của và hội nhập với thế giới, việc du nhập lối sống phương Tây, việc thay đổi lối sống và các thói quen sinh hoạt…

            Các yếu tố trên đã góp phần làm thay đổi mô hình bệnh tật của nước ta và Gout là một trong những bệnh đang có xu hướng tăng đáng kể

Bia  – Tác nhân số một gây bệnh gout

              Sau hàng loạt nghi vấn về ảnh hưởng của chất cồn đối với bệnh gout, cuối cùng các nhà khoa học Mỹ đã chứng minh được mối quan hệ này là có thực. Trong đó, bia là mối đe dọa nguy hiểm nhất, do nó chứa một lượng thành phần đặc biệt nhiều hơn bất kỳ loại nước uống chứa cồn vào

              Lâu nay, người ta tin rằng chất cồn có khả năng kích thích cơ thể sản sinh một chất gọi là axit uric. Sự tích tụ chất này trong các ổ khớp sẽ dẫn đến bệnh Gout, hay còn gọi là bệnh thống phong, phá hủy mãn tính khớp, gây nên các cơn viêm khớp thống phong cấp với các biểu hiện sưng đỏ và đau nhức

   Trong quá trình theo dõi gần 47000 nam nhân viên y tế trong vòng 12 năm, một nhóm chuyên gia thuộc bệnh vien đa khao Massachusetts (Mỹ) đã ghi nhận 730 người  phát triển bệnh gout. Trong đó, những người uống trên 2 vại bia mỗi ngày có tỉ lệ mắc bệnh cao hơn gấp 2.5 lần người không uống. Những trường hợp uống rượu ở mức độ tương tự cũng co nguy cơ cao gấp 1.6 lần. Tuy nhiên, dường như không có mối nguy hiểm nào đe dọa những người uống rượu ở mức độ vừa phải hoặc ít hơn.

              Theo tiến sĩ Hyon Choi, trưởng nhóm nghiên cứu, sự chênh lệch về khả năng gây bệnh gout giữa các loại nước uống chứa còn có thể do sự góp mặt của một chất không còn nào đó. Mọi nghi ngờ đang đổ dồn vào hợp chất có tên purines, được tìm thấy một lượng lớn trong bia, nhưng lại rất ít có trong rượu và những nước uống khác. Chất này có thể tác dộng lên acid uric trong máu và làm gia tăng tác hại của chất cồn đối với cơ thể.

            Bia dễ gây bệnh gout hơn rượu

   Tác động của các loại đồ uống có cồn đối với lượng acid uric trong máu là rất khác nhau. Do đó, nguy cơ mắc bệnh gout khi uống các đồ này cũng không giống nhau. Trên thực tế, dân nghiền bia có nguy cơ bị bệnh gout cao hơn dân nghiền rượu

   Các nhà khoa học thuộc đại học sức khỏe cộng đồng Harvard tại Boston (Mỹ) đã tìm hiểu mối liên quan giữa việc uống bia, rượu mạnh và rượu vang với m\nồng độ acid uric trong máu trên 14809 người có độ tuổi thấp nhất là 20

   Kết quả cho thấy nồng độ acid uric trong máu ở những người thường xuyên uống bia là lớn nhất, sau đó là những người uống nhiều rượu mạnh. Trong đó là những người uống nhiều rượu mạnh. Trong khi đó, các chuyên gia không nhận thấy mối liên quan giữa việc uống rượu vang và nồng độ acid ủic

   Kết quả này là như nhau ở cả nam và nữ, cũng như đối với mọi mức trọng lượng

   Bệnh gout là một bệnh khớp do rối loạn máu. Nồng độ acid uric trong máu càng tăng cao thì nguy cơ mắc bệnh càng cao. Chính vì vậy, việc uống các đồ uống có cồn khác nhau gây nguy cơ mắc bệnh khác nhau.

            Không phải rượu nào cũng làm tăng nguy cơ bị bệnh gout

            Đó là ý kiến của các chuyên gia y học Mỹ tại bệnh viên đa khoa Masachusetts. Họ khảo sát 47000 nhân viên y tế nam trong vòng 12 năm, trong đó có 730 người phát bệnh gout và nhận thấy, những ai uống 2 lon bia hay hiều hơn mỗi ngày thì có nguy cơ bị Gout gấp 2.5 lần người không uống. Dùng rượu mạnh cũng làm tăng nguy cơ, nhưng chỉ ở mức 1.6 lần. Những ai uống rượu vang với mức dộ vừa phải thì không có nguy cơ bị Gout

             Người đứng đầu nghiên cứu, tiến sĩ Hyon Choi, nói: “Điều này gợi ý rằng một vài chất trong bia, rượu đóng vai trò gây bệnh gout”. Theo ông, “thủ phạm” chính có thể là phức phợp purin, có rất nhiều trong bia và nhất là rượu. Bàn luận về nghiên cứu này, tiến sĩ Qing Yu Zeng thộc đại học y khoa Shantou (Trung Quốc) nói: ‘’Nguyên nhân gây ra gout liên quan đến những yếu tố di truyền và môi trường. Những gia tăng tần suất của bệnh hiện nay thì chủ yếu là do yếu tố môi trường, trong đó phổ biến nhất là việc uống nhiều thức uống có cồn”.

            Kết luận

            Có thể nói Gout là bệnh của các ông (vì thường mắc ở nam giới, tuổi sắp làm ông). Tuy bệnh có thể mắc ở mọi mức sống không kể giàu nghèo, nhưng những người có mức sống, mức sinh hoạt cao, có lối sống hiện đại có nghĩa là có nhiều hơn các yêu tố nguy cơ (rượu, tiệc, căng thẳng…) và chắc chắn khả năng bị bệnh Gout tấn công hơn.

              Bệnh Gout hoàn toàn có thể được chuẩn đoán sớm. Khi có các dấu hiệu nghi ngờ, các bận nên đến thầy thuốc chuyên khoa Khớp để được xác định chuẩn đoán càng sớm càng tốt.

             Bệnh Gout có thể được điều trị tốt bằng:

- Chế độ ăn uống sinh hoạt hợp lý

- Chế độ thuốc men đạt hiệu quả nhằm hai mục đích:

+ Cắt cơn viêm khớp thấp

+ Phòng ngừa viêm khớp tái phát, sỏi thận và suy chức năng thận. Việc điều trị này cần phải liên tục và lâu dài để hạ và duy trì mức acid uric máu ở mức độ bình thường (dưới 5mg% hay dưới 300mol/L).

   Kết quả điều trị hoàn toàn phụ thuộc vào hai yếu tố không thể tách rời: kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn của người thầy thuốc; hiểu biết và sự tuân thủ điều trị của bệnh nhân

Gout  – Dấu hiệu ban đầu của bệnh tim

            Bệnh gout là hiện tượng tụ acid uric và muối urate trong máu và khớp, do sự rối loạn chuyển hóa acid uric gây nên. Người trung niên bị bênh gout rất dễ tăng huyết áp và cholesterol -  những yếu tố nguy hiểm đe dọa sức khỏe tim mạch

            Bệnh gout, thường gặp ở những người lạm dụng quá mức các thực phẩm giàu protein như gan, tận, cá mòi… và rượu. Trước đây, nó được coi là bệnh của nhà giàu vì chỉ tầng lớp khá giả mới được thưởng thức các món này. Trong những năm gần đây, ngày càng nhiều người mắc bệnh gout do tỉ lệ béo phì tăng nhanh. Bệnh gây nên các cơn viêm khớp gout cấp, phá hủy mãn tính khớp và lắng đọng muối urate tạo thành sạn urate ở da, sụn. Trong trường hợp có quá nhiều urate, thận sẽ bị tổn thương và xuất hiện sỏi thận

            Không những thế, Gout còn có thể là dấu hiệu ban đầu của bệnh tim ở những người không có tiền sử bệnh

            Khi so sánh 261 bệnh nhân từng trải qua một cơn viêm khớp guot cấp đầu tiên và khoảng 500 người khỏe mạnh các nhà khoa học nhận thấy:

- 43% bệnh nhân gout bị huyết áp cao, trong khi tỉ lệ này ở nhóm khỏe mạnh chỉ là 18%

- Lượng cholesterol trong máu ở bệnh nhân gout cao hơn nhóm khỏe mạnh

- Cứ 20 bệnh nhân gout thì có 1 người bị tiểu đường, trong khi tỉ lệ này ở nhóm bình thường là 1/100

- Hơn một nửa bệnh nhân gout bị béo phì, trong khi chỉ có 1/3 nhóm khỏe mạnh chịu chung hoàn cảnh

              Kết quả trên cho thấy nguy cơ mắc bệnh tim ở những người bị Gout rất cao. “Bệnh không trực tiếp gây nguy hiểm cho sức khỏe tim mạch, song nó có thể là dấu hiệu ban đầu:.

              Biện pháp điều trị bệnh Gout hiện nay là dùng thuốc tăng bài tiết urate, hoặc thuốc làm chậm quá trì tạo thành sạn urate. Ngoài ra, có thể phong bệnh bằng cách hạn chế ăn các loại thịt đỏ, đồ biển ( con trai, cá trích, cá mòi,…) và uống ít rượu đỏ, bia.


PHẦN II: Điều trị bệnh gout

Điều trị bệnh gout như thế nào?

            Bệnh gout còn gọi là thống phong, là bệnh lý ứ đọng tinh thể monosodium urate tại khớp và mô liên kết nơi khác do tăng quá độ acid uric trong máu. Bệnh lâm sàng thường là hội chứng viêm một hoặc nhiều khớp cấp tính, tái diễn và một số biến chứng ở cơ quan khác. Khi triệu chứng lâm sàng xuất hiện là bệnh nhân tăng acid uric trong máu một thời gian dài; tuy nhiên, cũng có một số người chỉ có hội chứng tăng acid uric trong máu mà không hề đưa đến bệnh viêm khớp Gout. Hội chứng tăng acid uric và bệnh Gout có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau.

            Nguyên tắc điều trị

            Cơn Gout cấp, một khi đã được chuẩn đoán, cho dù là Gout nguyên phát, cần được điều trị càng sớm càng tốt

            Mục tiêu điều trị

1. Chấm dứt quá trình viêm (kháng viêm không steroid, colchicin, corticoid).

2. Phòng ngừa cơn cấp tái phát thường xuyên (colchicin)

3. Phòng ngừa sự lắng đọng thêm cũng như giải quyết các tophi sẵn có với các biện pháp làm giảm acid uric trong máu. Ngoài ra, cũng cần điều trị các bệnh lý đi kèm như tăng huyết áp, rối loại lipid trong máu như béo phì

            Điều trị triệu chứng

- Colchicin: là thuốc kinh điển trong điều trị cơn gout cấp vì có hiệu quả rất cao trên quá trình viêm khớp do tinh thể, đặc biệt là bệnh gout. Chính vì thế mà nó được dùng như một tiêu chuẩn chuẩn đoán kể từ năm 1966. Colchicin tác động vào quá trình thực bào của tế bào đa nhân trung tính. Trong những ngày đầu, liều sử dụng thường không quá 4mg/ ngày đầu, giảm xuống dần và bắt đầu duy trì từ ngày thứ tư với liều 0,6 – 1mg/ ngày tùy theo từng trường phái

- Các thuốc kháng viêm không steroid: cũng có tác dụng kháng viêm giảm đau rất tốt trong viêm khớp cấp do gout. Người ta thường chọn lựa các loại tác dụng nhanh

- Corticoid thường cho kết quả rất tuyệt với trong những cơn gout cấp với liều 20-30mg prednison/ngày, tuy nhiên bệnh sẽ tái phát ngay khi ngưng dùng thuốc,đưa đến dấu hiệu của việc lệ thuộc thuốc, đưa đến những hiệu quả xấu của việc lệ thuộc corticoid, vì thế hầu hết các tác giả không khuyên dùng. Corticoid có thể được dùng đường toàn thân nếu viêm khớp, dùng tại chỗ nếu là viêm một khớp và được khuyến cáo chỉ sử dụng trong đợt cấp và không kéo dài.

- Thuốc giảm đau thường được cho kèm theo kháng viêm như acetaminophen đơn thuần hay phối hợp

- Cho khớp nghỉ ngơi và chọc hút dịch khớp trong trường hợp có tràn dịch khớp nhiều.

Điều trị căn bản

- Mục tiêu chính của điều trị cơ bản là giảm lượng acid uric máu xuống = 6mg%

- Thuốc tăng thải acid uric qua đường niệu, cần thận trọng vì có thể gây sỏi niệu. Vì thế, không nên dùng khi bệnh nhân có tiền căn sỏi niệu, hay có lượng uát/ nước tiểu vượt quá 4.8mol/ngày

- Thuốc ức chế tổng hợp acid uric (allopurinol, tisopuriene)

- Một số thuốc mới đạng nghiên cứu: Puricase, TMX-67

- Nước rất quan trọng nhằm mục đích phòng ngừa ứ đọng tinh thể urat tại thận, nên bệnh nhân thường được khuyên uống nhiều nước, hoặc truyền dịch nhằm đảm bảo lượng nước tiểu trong ngày đạt đến 2000ml/24 giờ.

- Chế độ ăn:

+ Giảm tối đa thức ăn cung cấp nhiều đạm gốc purin

+ Giảm calorie

+Giảm chất béo

- Kiềm hóa nước tiểu: nước pha bicarbonat (ít dùng), acetazolamid, nước suối Vichy, trái cây không chua…

- Phẫu thuật: chỉ định khi các tophi quá lớn ảnh hưởng đến chức năng hay chèn ép gây biến chứng

            Kết luận

            Bệnh gout có chiều hướng tăng cùng với sự phát triển về kinh tế xã hội, do đó cần được quan tâm để tránh những hậy quả vì biến chứng hầu như không hồi phục. Bên cạnh thể bệnh nguyên phát, còn có nhóm bệnh thứ phát, tuy không chiếm tỉ lệ đáng kể nhưng lại thường khó điều trị và diễn biến nặng nề. Gout thứ phát có vẻ chiếm tỉ lệ khá cao ở nhóm bệnh nhân nữ.

             Trong điều trị cơn cấp, có một số thay đổi trong việc sử dụng, định liều và kết hợp thuốc. Thầy thuốc cần thận trọng nhất là khi chỉ định trên bệnh nhân lớn tuổi và có nhiều bệnh đi kèm, do vậy cũng uống đồng thời nhiều loại thuốc có thể làm ảnh hưởng đến diễn biến cũng như đáp ứng của bệnh. Trong một số trường hợp, đểu tránh phản ứng có hại của một số thuốc điều trị gout, corticoid tại chỗ hay toàn thân có thể được chỉ định những cần hết sức thận trọng và không dùng kéo dài để tránh tình trạng lệ thuộc corticoid

Các loại thuốc điều trị bệnh gout

              Tổng quan: hiện nay, có nhiều thuốc điều trị bệnh gout cấp hoặc mãn tính, bao gồm colchicin, các thuốc chống viêm phi steroid (NSAID), sulfinpyrazon, allopurinol, probebecid, corticotropin (ACTH) và các glucocorticod. Điều trị bệnh gout bao gồm 3 khía cạnh khác nhau của bệnh: ức chế phản ứng viêm (colchicin, glucocorticod, ACTH và Nsaid), gaimr sinh acid uric (phenylutazon, probenecid, sulfinpyrazon). Các thuốc lý tưởng để điều trị cơn gout cấp là colchicin và NSAID. Cacs glucocorticoid vaf ACTH được dành để điều trị cơn cấp ở những người kháng điều trị hoặc chống chỉ định dùng colchicin và các NSAID. Bệnh gout mãn tính thường được điều trị bằng các thuốc thải acid uric niệu, allopurinol hoặc liều thấp colchini dùng hằng ngày

              Lịch sử: Colchini đã được dùng từ lâu trong điều trị viêm khớp gout cấp. Năm 1763, chế phẩm colchini autummale, loại cây chuwasalkaloid colchini, lần đầu tiên được sử dụng trong điều trị cơn gout cấp. Mãi đến năm 1820, người ta mới chiết xuất được colchini từ cây này. Ngày nay, colchini vẫn được dùng phổ biến trong điều trị bệnh gout cấp.

            Trong suốt thời gian mà nguồn cung cấp penicillin bị hạn chế, có nhu cầu về các thuốc giảm bài tiết penicillin qua thận. Probenecid đã được triển khái nhờ kết quả của một nghiên cứu có tổ chức. Đây là 1 trong2 thuốc (thuốc kia là carinamid) làm giảm thanh thải penicillin qua thận. Trong lâm sàng, probenecid có hoạt tính bài tiets acid uric niệu và lá thuốc điều trị gout có hiệu quả.

             Sulfinpyrazon được phát hiện khoảng năm 1960, trong khi tìm kiếm một thuốc bài tiết acid uric niệu và chống viêm ít độc nhất. Là chất chuyển hóa cả phenylbutazon, sulfinpyrazon có hiệu quả rõ rệt trong việc bài tiết acid uric niệu và do đó là thuốc có hiệu quả trong điều trị bệnh gout mãn tính.

            Lịch sử của các thuốc chống viêm phi steroid bắt đầu vào giữa thế kỷ XVIII khi người ta sử dụng vỏ cây liễu điều trị. Năm 1829, người ta chiếu xuất được hoạt chất của vỏ cây liễu. Salicylat natri được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1875 và aspirin được đưa vào điều trị chứng viêm năm 1899. Các thuốc chống viêm steroid, không phải salicylat ban đầu bao gồm indomethacin, hiện nay vẫn được dùng, và phenylbutazon, một hợp chất ít được dùng vì nguy cơ thiếu máu bất sản và mất bạch cầu hạt. Vòa giữa những năm 1970, ibuprofen và các dẫn xuất acid propionic không độc cùng họ khác được ting ra thị trường. Có không dưới 17 thuốc riêng biệt về mặt hóa học trong nhóm này. Các thuốc NSAID khá ít độc khi điều trị ngắn ngày, mặc dù các tác dụng phụ trên đường tiêu hóa (GI) khá nổi tiếng và là một trong những phản ứng thuốc có hại hay gặp nhất khi dùng kéo dài. Để điều trị cơn gout cấp, các tazon và sulindac, tuy nhiên, nhiều thuốc NSAID khác có hiệu quả bao gồm diclofenac, ketoprofen, fenoprofen, ibuprofen, piroxicam, toilmetin, naproxen, acid meclofenamic và flurbiprofen

   Vào cuối những năm 1970, mới đầu allopurinol được nghiên cứu như một thuốc chống ung thư. Nó tỏ ra thiếu hoạt tính chông gout rõ rệt. Nghiên cứu sâu hơn đã chứng minh allopurinol là một thuốc có hiệu quả trong điều trị gout

             Các corticosteroid và ACTH được xem là những thuốc có hiệu quả điều trị cơn gout cấp vì hoạt tính chống viêm của thuốc. Do có một số tác dụng phụ, các thuốc này được dành để điều trị cơn gout cấp kháng thuốc.

             Cơ chế tác dụng: các thuốc điều trị gour khác nhau tác dụng thông qua một số cơ chế khác nhau. Probenecid và sulfinpyrazon làm tăng bài tiết acid uric niệu, trong khi, allopurinol cản trở sự hình thanhfacid uric. Probenecid và sulfinpyrazon không tác dụng trên sự hình thành acid uric. Colchicin, NSAID, corticotropin, và các corticosteroid ức chế chứng viêm phản ứng với lắng đọng tinh thể urat, do đó, giảm các triệu chứng (thí dụ: viêm khớp  gout) do bệnh gout.

             Hoạt động của các thuôc chống viêm dùng điều trị gout khác nhau rõ rệt. Colchicin tác động băng cách gắn với các protein vi tiểu quản và cản trở chức năng thôi gián phân dẫn đến giảm di cư cạnh cầu, hóa ứng, bám dính vào thực bào. Indomethacin và phenybutazon có hiệu quả như colchicin trong việc giảm các triệu chứng viêm của gout. Không như indomethacin, phenybutazin cũng có hoạt tính bài tiết acid uric niệu. Sulfinpyrazon, không giống phenylbutazon, không có đặc tính chống viêm hoặc giảm đau. Thuốc có đặc tính chống viêm hoặc giảm đau. Thuốc có hoạt tính thải acid uric niệu mạnh gấp 3-6 lần probenecid. Sulfinpyrazon cũng kéo dài hơn sống tiểu cầu, có lợi trong phòng ngừa  nhồi máu cơ tim và huyết khối

            Các liều dược lý của corticosteroid và ACTH làm giảm viêm do ức chế giải phóng các caid hydrolase bạch cầu, ngăn ngừa sự tích tụ đại thực bào tại vị trí viêm, cản trở sự bám dính của bạch cầu vào thành mao mạch, giảm tính thấm màng mao mạch (nhờ đó làm giảm phù nề), giảm các thành phần bổ sung, ức chế giải phóng histamin và kinin, và cản trở sự hình thành mô sẹo

              Các đặc điểm phân biệt: các thuốc điều trị bệnh gout khác nhau về cơ chế tác dụng và các tác dụng phụ. Colchicin, loại thuốc lâu đời nhất trong nhóm này, được dùng để làm giảm các triệu chứng của cơn gout cấp và mãn tính như có tác dụng giảm mức acid uriuc. Ngoài những lợi ích đối với bệnh gout, colchicin có hiệu quả trong một số chỉ định chưa chính thức như xơ gan, thoái hóa dạng tinh bột, bệnh Paget, viêm da dạng heroes, sốt địa trung hải gia đình

   Sulfinpyrazon là thuốc được  ưa chuộng dành cho những bệnh nhân gout thứ phát sau liệu pháp lợi tiểu điều trị tăng huyết áp và những người có nguy cơ bị bệnh mạch vành

             Các phản ứng có hại: tác dụng độc của colchicin liên quan tới hoạt tính chống gián phân trong các mô đang sinh như da, tóc và tủy xương. Điều trị ngắn ngày thuốc có thể gây buồn nôn hoặc nôn và viêm dạ dày ruột xuất huyết. ĐIều trị lâu ngày có thể gây mất bạch cầu hạt, thiếu máu bất sản và rụng tóc

   Tác dụng phụ hay gặp nhất của allopurinol là phản ứng da. Ở một số trường hợp, phát ban xuất hiện tới 2 năm sau khi bắt đầu điều trị. Ngoài ra,dùng allopurinol có thể gây hội chứng ngộ độc nguy hiểm đến tính mạng.

              Tất cả các thuốc NSAID đều gây các tác dụng phụ tương tự nhau, nhưng có một vài ngoại lệ. Những tác dụng phụ hay gặp nhất là ở dạ dày, ruột, bao gồm buồn nôn, chán ăn, đau bụng và loét. Indomethacin và phenylbutazon có những tác dụng phụ hạn chế việc dùng thuốc kéo dài. 30-55% số bệnh nhân dùng indomethacin bị tác dụng phụ. Hay gặp nhất là tác dụng phụ ở dạ dày ruột và hệ thần kinh trung ương (CNS). Những tác dụng phụ trên CNS bao gồm đau đầu vùng trán dữ dội, chóng mặt, mất thăng bằng, kém minh mẫn, lú lẫn. Điều trị phenylbutazon kéo dài gây viêm gan, viêm bạch cầu hạt và giảm lượng tiểu cầu

             Tất cả các thuốc glucocorticoid, do kích thích phản hồi tiêu cực, có thể ức chế trục vùng dưới đồi-tuyến yên – tuyến thương thận (HPA). Ngoài ra, những tác dụng phụ khác của glucocorticoid rất nổi tiếng và xuất hiện ở hầu hết các bệnh nhân sau khi điều trị kéo dài với liều trên mức sinh lý. Những tác dụng phụ này bao gồm: loãng xương, viêm tụy, đái đường do steroid, đục thủy tinh thể, tăng nhãn áp, rối loạn tâm thần, bệnh nấm candida miệng và các nhiễm trùng cơ hội khác, suy giảm miễn dịch, tăng câm và teo da. Mặc dù các corticosteroid có hiệu quả điều trị một số bệnh, việc dùng thuốc kéo dài bị hạn chế do có nhiều tác dụng phụ nghiêm trọng

Chú ý khi sử dụng thuốc điều trị bệnh gout

- Các thuốc giảm đau chỉ dùng khi có cơn viêm khớp, nhằm cắt cơn viêm càng sớm càng tốt. Càng dùng càng tốt vì các tác dụng phụ của thuốc sẽ tăng theo số lượng thuốc dùng, thời gian dùng và tuổi của bệnh nhân

- Để điều trị tận gốc các hậu quả (gây các đợt viêm khớp cấp, gây sỏi thận, gây suy thận) của căn bệnh này cần phải giảm bớt lược acid uric máu bằng thuốc ức chế tổng hợp acid uric hoặc các thuốc làm tăng thải acid uric ra ngoài, các thuốc làm giảm acid uric mãu sẽ phải dùng lâu dài (nhiều năm), dùng lên tục, không ngắt quãng. Liều lượng và loại thuốc do bác sĩ điều trị chọn lựa và điều chỉnh tùy theo lượng acid uric máu, tuổi và tình trạng sức khỏe của người bệnh. Mục tiêu của việc dùng thuốc này là giảm acid uric máu tới mức bình thường và duy trì mức đó lâu dài, bảo đảm không bị lắng động acid uric ở các cơ quan: khớp (gây tái phát viêm khớp), thận (gây sỏi thận hay suy thận)…

- Allopurinol ( biệt dược là Zyloric) là thuốc rất thường dùng để giảm acid uric máu, vì thuốc ức chế tổng hợp acid uric

- Ngoài ra, có thể dùng các thuốc tăng thải acid uric qqua đường thận như:probencide, Sulfinprazon, thuốc làm tan sỏi urate (Cốm piperraxien Midy), thuốc làm tiêu hủy acid uric (Uricozyme) nhưng cần chú ý tới các chống chỉ định của thuốc.

- Riêng ở người trên 60 tuổi, Allopurinol là thuốc thường được chọn lựa để làm giảm acid uric máu

- Các thuốc làm giảm acid uric đều đòi hỏi phải dùng liên tục nhiều năm vì đây chính là việc phòng ngừa bệnh tái phát.

-           Lượng acid uric máu phải được giảm tới mức bình thường dưới 5mg% hay dưới 300(mol/lít) và duy trì ở mức này bằng thuốc và chế độ ăn uống. Việc theo dõi định kỳ lượng acid uric trong máu, chức năng gan và thận là rất cần thiết để các thầy thuốc điều chỉnh lượng thuốc cho phù hợp và theo dõi ảnh hưởng của thuốc đến cơ thể người bệnh

- Khi đang dung Allopurinol

+ Cố gắng sử dụng các kháng sinh nhóm Lactam, nhóm Penicillines, đặc biệt là Ampicilline và Amoxyclin (vì allopurinol làm tăng khả năng dị ứng của các kháng sinh này lên nhiều lần).

+ Thận trọng khi dùng các thuốc ức chế men chuyển (đặc biệt là Captopril) vì thuốc này làm tăng khả năng dị ứng với Allopurinol

+ Không nên dùng Corticosteroids và aspirin dài ngày vì hai loại thuốc này ảnh hưởng không tốt đến bệnh và gây tăng acid uric máu

+ Không dùng các thuốc lợi tiểu thiazide vì cản trở acid uric qua đường tiểu và tăng khả năng dị ứng allopurinol

- Khi cần sử dụng thuốc hạ sốt người bệnh có thê dùng là paracetamol

- Khi bị các viêm nhiễm cần điều trị kháng sinh, người bệnh nên báo cho bác sĩ sẽ cho dùng kháng sinh thuộc các nhóm khác như: Erythromycine, Rovamycin, Tetracycline, Bactrim, Ciprofloxacine, Pefloxacin, Ofloxacin, Norfloxacin, …

   * Các thuốc lợi tiểu khác, lợi tiểu đông, nam dược đều có thể dùng. Các thuốc lợi tiểu thảo dược thường làm tăng lượng lưu lượng dịch tới thận, tăng mức lọc cầu thận, làm kiềm hóa nước tiểu, không thải muối nên thuận lợi cho việc thải acid uric, (đặc biệt là lá xa kê). Có thể kết hợp với các thuốc này để tăng cường và củng cố kết quả điều trị. Nhiều trường hợp còn làm giảm bớt liều thuốc phải sử dụng

Chườm đá làm giảm chứng đau khớp ở bệnh nhân gout

Một nghiên cứu mới đây của mỹ cho thấy, việc dùng những túi đã để chườm tại các khớp bị viêm do bệnh gout sẽ làm giảm đáng kể triệu chứng đau của người bệnh

              Các bác sĩ tại đại học Y New Jersey đã chọn ra 19 bệnh nhân bị viêm khớp cấp do gout (giai đoạn đầu của bệnh gout, khi mới xuất hiện những biểu hiện đầu tiên). Tất cả họ đều được dùng thuốc chống gout đặc hiệu là colchicine và thuốc chống viêm prednisone. Ngoài ra, 10 người trong số này còn được chườm túi lạnh ở vùng khớp bị đau trong 30 phút, bốn lần mỗi ngày. Bệnh nhân được theo dõi trong vòng một tuần.

             Kết quả cho thấy, ở nhóm được chườm lạnh, dấu hiệu đau giảm đáng kể; chứng phù nề, ứ nước cũng giảm ít nhiều. Ngoài ra, người bệnh ít bị các cơn gout nặng so với những người ở nhóm không chườm lạnh.

              Tuy kết quả thu được rất khả quan, nhưng theo tác giả, quy mô của nghiên cứu còn nhỏ nên chưa rõ ngoài giảm đau, liệu pháp này có đem lại tác dụng gì khác hay không, liệu điều này có còn đúng khi kết hợp chườm lạnh với các thuốc khác

Chế độ sinh hoạt trong điều trị bệnh gout

- Ngâm chân nước nóng hàng tối rất có lợi cho người bệnh, có thể làm thường xuyên, nhưng không nên dùng nước quá nóng, cũng không nên ngâm lúc đang bị viêm cấp

- Tắm sông, tắm biển là rất tốt, điều này hoàn toàn khác với việc dầm mưa lạnh hay bị lạnh đột ngột.

- Tránh gắng sức, tránh căng thẳng, tránh thức quá khuya, tránh lạnh

- Cần duy trị một chế độ tập luyện, vận động thường xuyên, vừa sức

- Khi bệnh chuyển sang mãn tính cần có chế độ tập luyện thường xuyên kết hợp với vật lý trị liệu và phục hồi chức năng để tránh teo cơ, cứng khớp và hạn chế biến dạng khớp

 Ở nước ta, bệnh gout ngày càng phổ biến. Mọi người cần phải cảnh giác với những hiện tượng sưng đau đột ngột, bất thường ở ngón chân, bàn chân, cổ chân… đặc biệt ở nam giới tuổi trung niên. Khi có bệnh, cần đến các thầy thuốc chuyên khoa sớm để được chuẩn đoán xác định và điều trị kịp thời. Lúc đầu bệnh tưởng như có thể khỏi hẳn trong một thời gian dài nhưng những dối loạn bên trong thì vẫn tiềm ẩn và trước sau thế nào cũng sẽ thể hiện và nặng dần lên. Việc phát hiện bệnh sớm, điều trị kịp thời, duy trì một nếp sinh hoạt, ăn uống phù hợp có ý nghĩa quan trọng trong việc kiểm soát và phòng ngừa bệnh, tránh những hậu quả xấu ở khớp, thận và các cơ quan liên quan đặc biệt là tim mạch.


Hỏi đáp về bệnh gout

              Tôi 41 tuổi, là lao động chính trong gia đình 3 người, đã tự bỏ thuốc lá 5 tháng, việc lên cân rất nhanh (từ 59kg lên 64 kg) và hiện đang có triệu chứng thỉnh thoảng đau ngón chân cái (không thường xuyên nhưng thường bị mỗi khi phải khuân vác). Xin hỏi: tôi có thể chữa trị tiết kiệm (với thuốc rẻ tiền mà vẫn hiệu quả) tại nhà hay không? Tôi nên ăn uống như thế nào để hạn chế việc phát sinh thêm chất uric trong người? Nếu ngón chân tôi đã có triệu chứng đau thì việc tập thể dục có được không?

Trước hết muốn có toa thuốc, bạn phải đi khám và xét nghiệm acid uric trong máu và nước tiểu 24 giờ. Nếu đúng là bệnh gout thì bác sĩ sẽ kê đơn cho bạn

      Tôi nghe nói có thể dùng than để giảm đau khi bị gout. Vậy cách sử dụng thế nào?

Dùng than là một trong những biện pháp khá hữu hiệu với bệnh nhân gout. Than có tác dụng hút chất độc từ trong cơ thể ra.

   Bạn có thể dùng than hoạt tính giã thật mịn, trộng với nước sền sệt rồi bọc trong một lớp vải và đắp lên khớp đau. Cứ khoảng 4 giờ lại thay than 1 lần. Nhưng bạn phải bọc thật kín vì than dễ làm bẩn quần áo, chăn chiếu

              Ngoài ra, có thể hòa tan trong nước nóng để ngâm chân. Ngâm trong khoảng 30 phút sẽ thấy dễ chịu

   Tôi bị bệnh gout đã hơn 1 năm nay và thường bị đau đớn ở các ngón chân vào những thời điểm khó biết trước. Mọi sinh hoạt, công việc rất bị ảnh hưởng, có cách nào xử lý nhanh để giảm cơ đau đó?

Khi bị gout, những cơn đau có thể xuất hiện đột ngột, nhưng thường là vào ban đêm. Cơn đau khiến người bệnh run rẩy, khổ sở và có thể kéo dài mấy ngày. Hầu hết các ngón chân đề đau, nhưng thường ngón chân cái đau nhất.

             Ngoài việc uống thuốc giảm đau theo chỉ định của bác sĩ, có thể dùng đá để chườm. Nước đá có tác dụng xoa dịu và làm tê tức thời. Nên dùng đá vụn đặt lên một miếng vải sạch và chườm trong khoảng 10 phút là có tác dụng ngay.Hoặc cũng có thể nhúng trực tiếp ngón tay, chân đau vào xô đá vụn trong vài phút. Trong cơn đau, cũng nên nghỉ ngơi và nâng chỗ khớp bị đau lên cao.

            Nếu người béo phì và bị bệnh gout thì nên kiêng ăn thế nào để khống chế được bệnh

             Dĩ nhiên lúc này phải có chế độ tập luyện và ăn uống thích hợp để giảm cân. Nhưng nếu nhịn quá mức sẽ khiến tế bào suy nhược và phóng thêm acid uric khiến bệnh nặng hơn

             Tốt nhất phải tránh uống rượu, bia, nên uống nhiều nước. Nước giúp thải acid uric trong cơ thể ra ngoài nhanh hơn. Nước cũng làm giảm nguy cơ sỏi thận, chứng bệnh mà phần lớn người bị bệnh gout đều mắc phải. Ngoài ra, nước còn làm giảm cân một cách tích cực. Việc ăn kiêng chỉ nên chú ý tránh các loại thực phẩm có độ đạm quá cao, kể cả các loại rau củ như măng, đậu khô, nấm, ….

   Tôi vừa bị cao huyết áp, vừa bị gout. Uống thuốc hạ huyết áp có ảnh hưởng gì đến bệnh gout hay không?

Trường hợp của bạn khá rắc rối vì một sô thuốc để hạ huyết áp như thuốc lợi tiểu lại làm ra tăng mức acid uric. Tốt nhất lên hạ huyết áp 1 cách tự nhiên bằng cách ăn ít muối, giảm cân và luyện tập thể thao. Bạn cũng nên tham khảo ý kiến bác sĩ để có 1 loại thuốc ít tác dụng phụ khi cần hạ huyết áp ngay lập tức

   Những ngón chân hay khớp xương bị thương hay thường xuyên bị đau có phải là nguyên nhân dẫn đến bệnh gout? Nếu bị đau khớp do bị gout, tôi có thể dùng aspirin được không?

Đúng là bệnh gout có thể tấn công những khớp xương đã bị thương sẵn. Vì thế nên cố gắng tránh bị thương ở khớp, nhất là các ngón chân. Cũng không nên đi giầy chật vi giầy sẽ làm tổn hại các khớp ngón chân. Còn việc dùng aspirin để giảm đau là không nên vì loại thuốc này có thể làm bệnh gout nặng hơn do thuốc ngăn cản sự bài tiết acid uric.

   Tôi bị bệnh gout, liệu có thể uống Allopurinol 300mg liên tục hàng năm được không ( 1 viên/ngày); thuốc có tác dụng phụ gì? Thuốc Nam, thuốc Bắc có chữa được bệnh gout không?

             Ở bệnh nhân gout có sự tăng acid uric trong máu, dẫn đến đọng tinh thể urat ở khớp, gây đau. Thuốc Allopurinol có tác dụng ngăn ngừa sự tổng hợp acid uric trong cơ thể. Nó không được dùng trong cơn gout cấp tính (điều trị cấp phải dùng Colchicin hoặc Indomethacin) mà chỉ để phòng ngừa, kiểm soát sự ra tăng acid uric trong máu hoặc được chỉ định đặc biệt trong trường hợp bị sỏi niệu (sỏi urat) hay bị bệnh thận do urat. Tác dụng phụ của Allopurinol là dối loạn tiêu hóa, chóng mặt, nhứng đầu, dị ứng, rụng tóc, độc hại với gan, phát ban sốt.

   Điều trị băng Allopurinol có thể duy trì lâu dài, tuy nhiên đối với trường hợp của bạn, nên hỏi bác sĩ đã trực tiếp điều trị việc dùng thuốc như thế nào để phòng ngừa cơn gout là tốt nhất.

   Trong ăn uống, người bị gout nên kiêng ăn các loại thực phẩm chứa nhiều purin (purin vào trong cơ thể cơ thể sẽ chuyển hóa thành acid uric làm tăng acid uric huyết) như gan, thận, óc, cá biển loại béo (như cá mòi). Hạn chế uống rượu bia; nên uống nhiều nước (hơn 2 lít mỗi ngày). Hiện nay chưa có loại thuốc Nam , thuốc Bắc nào có thể chữa khỏi hẳn bệnh gout.

               Tôi bị đau hết cả 2 bàn chân đã mấy ngày, lúc đầu chỉ thấy đau 2 gót chân, 2 ngày sau thì đau toàn bộ bàn chân, cứ dẫm chân xuống là đau, nhưng đi lại một lúc thì đi lại bình thương, trước đây tôi là vận động viên bóng đá. Hiện nay tôi vẫn còn đi dá bóng, lúc chạy có hơi bị đau nhưng về sau không thấy đau nữa. Sáng ngủ dậy dẫm chân xuống đất tôi thấy hai bàn chân đau và hai đầu gối cũng mỏi, phải đi khập khiếng một lúc mới trở lại bình thường.

             Tôi không bị nhức các khớp, hai ngón chân cái phải lay hay bóp thật mạnh mới thấy hơi đau. Xin hỏi, đó có phải triệu chứng của bệnh gout không?

Bệnh gout là một bệnh rối loạn chuyển hóa gây tăng lượng acid uric trong máu, biểu hiện bằng viêm khớp, nổi u cục dưới da quanh khớp, tổn thương thận. Bệnh thường gặp ở nam giới, tuổi trung niên. Bệnh có 2 thể:

1. Gout cấp tính: triệu chứng đặc trưng là cơn sưng tấy dữ dội của khớp ngón chân cái, kéo dài vài ngày rồi khỏ nhưng rất hay tái phát, ngoài ra có thể còn đau ở những vị trí khác ( các ngón chân, cổ chân, khớp gối).

2. gout mãn tính: viêm các khớp nhỏ và vừa, tương ứng với các triệu chứng là nổi cục quanh khớp, dưới da, vành tai (cục này mềm không đau, trong chứa 1 chất trắng như phấn) có thể tổn thương thận (sỏi tiết niệu, viêm thận kẽ).

              Các triệu chứng bạn mô tả chưa đủ để kết luận bạn bị gout, lời khuyên với bạn là:

- Có chế độ ăn uống hợp lý, hạn chế đạm (các đồ ăn như thịt chó, đồ biển, tôm, cua, rượu bia…).

- Khởi động các khớp trước khi vận động, thể dục thể thao đều đặn

- Nếu nghi ngờ nên làm các xét nghiệm: định lượng acid uric trong máu, trong nước tiểu, chụp phim X-quang khớp bị đau

   Người mắc bệnh gout nên ăn uống như thế nào?

Gout là bệnh diễn tiến kéo dài, phải điều trị liên tục để tránh tái phạm. Vì vậy, chế độ ăn uống hợp lý sẽ trợ giúp cho quá trình điều trị được hiệu quả hơn. Người bệnh cần:

- Hạn chế các thức ăn chứa nhiều purin như tim, gan, bầu dục, trứng vịt lồn, cá đối… tuy nhiên, đạm là thành phần dinh dưỡng quan trọng nên không thể loại bỏ hoàn toàn trong khẩu phần ăn.

- Không uống rượu, hạn chế uống bia, tránh ăn uông quá mức

- Nên ăn nhiều rau xanh, uống nhiều nước. Có thể uống các loại nước khoáng có ga vì sẽ làm kiềm hóa nước tiểu, tăng mức lọc cầu thận, thuận lợi cho việc thải bớt acid uric ra ngoài

Tám lời khuyên đối với bệnh nhân gout

              Gan là nơi chuyển hóa acid uric – tác nhân gây bệnh gout – nên người mắc bệnh này phải bồi dưỡng cho gan khỏe mạnh bằng cách duy trì thói quen ăn uống tốt. Vì vậy, chế độ ăn kiêng của họ gần giống với một số người mắc bệnh gan

              Sau đâu là 7 lời khuyên khác:

- Uống thuốc đều đặn để duy trì nồng độ axit uric. Việc tăng cao đột ngột hàm lượng chuất này sẽ dẫn đến cơn Gout cấp

- Trong các loại thịt nên chọn gà, vị và cá. Chúng cũng tốt đối với những người béo hay có bệnh tim mạch vì chứa ít cholesterol

- Không nên có những hoạt động năng hay kéo dài vì điều này gây áp lực lên mặt khớp, dẫn đến hư sụn khớp. Trong trường hợp đó, bệnh nhân bị đau do hư khớp chứ không phải do cơn gout cấp nữa.

- Ở bệnh gout, thận là cơ quan thứ hai sau khớp bị ảnh hưởng. VÌ vậy, cần uống nhiều nước để làm sạch đường tiểu một chách tự nhiên (hòa loãng các chất cặn có trong đường tiểu)

- Bệnh gout tuy có thể chữa khỏi hoàn toàn trong 6-12 tháng nhưng rất dễ tái phát. Vì vậy, bệnh nhân phải luôn luôn duy trì chế độ ăn uống hợp lý

- Không nên uống thuốc làm giảm acid nuric trong máu (như Allopurinol) trong cơn đau cấp vì nó có thể làm cơn đau tăng lên

- Có thể dùng Colchicine để giảm cơn đau cấp ( uống liên tục cách giờ cho đến khi giảm cơn đau) nhưng không được quá 7 viên. Khi có tiêu chảy phải ngừng thuốc. Hiện nay, các loại thuốc kháng viêm không steroid thông thường khác đã được dùng thay cho Colchicine, hiệu quả giảm đau rất tốt.

Chế độ ăn uống trong phòng chống bệnh gout

   Cần nhận thức rằng ăn uống không hợp lý là một yếu tố thúc đẩy xuất hiện bệnh và tái phát bệnh. Nhiều bệnh nhân xuất hiện đợt sưng đau đến mức không đi lại được sau khi ăn nhiều hải sản, thịt chó, thịt thú rừng hay dạ dày, lòng lợn, tiết canh. Vì vậy chế độ  ăn uống của bệnh nhân Gout có ý nghĩa rất quan trọng, có thể làm hạ acid uric huyết bằng cách hạn chế đưa nhân purin vào cơ thể (acid uric được tạo nên do oxy hóa nhân purin)

            Chế độ ăn trong phòng chống bệnh Gout

- Đảm bảo bữa ăn có đầy đủ các chất dinh dưỡng ở tỉ lệ cân đối.

- Đảm bảo cân đối giữa các thành phần sinh năng lượng ( đạm – béo – đường). Tỉ lệ tăng do các thành phần cung cấp nên là:

            Đạm: Béo: Đường = 12-15% ; 18-20% - 64-75%

- Ăn vừa phải các loại thức ăn chứa nhiều nhân purin như các loại thịt, hải sản, các loại phủ tạng động vật

- Cần có sự lựa chọn và phối hợp nhiều loại thực phẩm đề đặn trong thực đơn hàng ngày

- Không uốc quá nhiều và kéo dài rượu, bia, cafe

- Luôn uống đủ nước

            Chế độ ăn trong điều trị bệnh Gout

- Giảm bới lượng đạm trong khẩu phần ăn

- Không nên ăn các thực phẩm có chứa nhiều acid uric (nhóm III): óc, gan, bầu dục (cật), các loại phủ tạng, nước ninh xương, luộc thịt…

- Ăn vừa phải các loại thực phẩm chứa ít acid uric trong chế biến bữa ăn hàng ngày như ngũ cốc, các loại hạt chế biến bữa ăn hằng ngày như ngũ cốc, các loại hạt, bơ, mỡ, trứng, sữa, phomat, rau quả

- Hạn chế các đồ uống gây tăng acid uric máu như rượu, bia, trà, cà phê

- Ăn nhiều rau quả không chua. Hạn chế ác loại quả chua vì sẽ làm tăng thêm độ acid trong máu

- Lượng đường bột trong khẩu phần ăn ( gạo, bột mì, đường, bánh, kẹo, có thể sử dụng với tỉ lệ cao hơn người bình thường một chút).

- Uống các loại nước có tính kiềm: nước rau, nước khoáng

- Uống đủ nước hàng ngày.

   Để điều trị bệnh Gout hiệu quả, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chế độ ăn uống và sử dụng thuốc chữa bệnh hợp lý theo đúng chỉ dẫn của bác sĩ

                        Bảng hàm lượng purin trong một số loại thực phẩm (mg/100g)

Nhóm I:

Nhân purin thấp

(0-15mg)

Nhóm II

Nhân Purin trung bình

(50-150mg)

Nhóm III

Nhân purin cao

(trên 150mg)

Nhóm IV

Các loại đồ uống chứa

Nhân Purin

Ngũ cốc

Dầu mỡ

Trứng

Sữa

Fomat

Rau, quả

Hạt

Thịt

Hải sản

Đậu, đỗ

Óc

Gan

Bầu dục

Nước dùng thịt

Nấm

Măng tây

Rượu

Bia

Cà phê

Trà

            Ăn kiêng để tránh bệnh Gout

              Cách ăn kiêng cần tập trung vào những khẩu phần ăn giàu dinh dưỡng như thịt có màu đỏ giàu và thức ăn biển, còn vể rau thì là đậu Hà Lan, nấm và hoa cải (súp lơ)

             Những thức ăn giàu dinh dưỡng sẽ phá vỡ chất acid uric, gây viêm sưng, dẫn đến bệnh Gout. Để tránh bệnh Gout, người ta không ăn thức ăn có hàm lượng dinh dưỡng cao

             Người dẫn đầu nhóm điều tra của trường Y khoa Haverd và bệnh viện đa khoa Massachussetts, ông Hyon Choi nói: “ Uống nhiều hơn hai lý sữa một ngày sẽ giảm bớt 50% nguy cơ bị Gout. Những sản phẩm từ sữa thì thấp purin (purin là một hợp chất nitơ có cấu trúc phân tử 2 vòng, như adenine và guanine tạo thành các nucleotide của nucleic acid. Uric acid là sản phẩm sau cùng của chuyển hóa purin), nhưng lại cao protein. Và protein giúp chúng ta hạn chế mức độ tăng acid uric. Nhưng kết quả chỉ ra rằng những sản phẩm có độ béo thấp có thể ngăn ngừa Gout khi nó mới vừa chớm phát”.

            Những thức ăn thị và cá giàu protein đặc biệt có hàm lượng purin cao và có thể dẫn đến Gout. Gà và những loại thịt “trắng” lại không làm tăng nguy cơ rủi ro dẫn đến bệnh gout. Ngay cả những loại rau giàu purin và cháo bột yến mạch cũng không tăng khả năng dẫn đến bệnh Gout.

            Làm gì để phòng bệnh Gout

             Theo các bác sĩ tại bệnh viện Hutt (New Zealand), để phòng ngừa bệnh Gout cần chú ý những điểm sau: hạn chế những loại thức ăn thuộc 2 nhóm làm tăng lượng acid uric như: nhóm: phủ tạng các loại như thận, tim, gan, óc… trứng cá, cá nục, măng tây; Nhóm 2: thịt “đỏ’’ như bò, cừu, hải sản, gia cầm, đậu đỗ, cải bó xôi, súp lơ; tránh ăn mặn và uống nhiều rượu, cà phê, cacao vốn chứa nhiều purin (tiền chất của acid uric). Thay vào đó, nên tăng cường ăn các thực phẩm chứa ít purin như ngũ cốc, bơ, dầu ô liu, rau quả, trứng, sữa (không chứa purin) và chăm tập thể dục để giữ thể trọng-một tác nhân quan trọng giúp phòng ngừa bệnh Gout.

Giảm đau trong bệnh gout bằng hoa quả

              Người có bệnh Gout phải uống thuốc giảm đau suốt đời, nhưng dù thuốc có tốt đến mấy thì cũng gây ra tác dụng phụ Để ngăn ngừa điều này, người ta có thể dùng đến một số rau quả có tác dụng giảm đau. Hàm lượng chất giảm đau trong rau quả tuy không đủ để gây tác dụng phong bế cảm giác đau một cách tức thời, nhưng nếu biết cách áp dụng đúng lúc cùng với dược phẩm thì sẽ hỗ trợ tác dụng giảm đau bằng cơ chế cộng hưởng.

              Đứng đầu là cam mận đà lạt, chanh, đậu hà lan, cà chua, sơ ri, nấm mèo, hoặc nếu có điều kiện hơn thì dùng nho, táo tây, nấm đông cô. Theo các chuyên gia dinh dưỡng Ấn Độ, hai thức ăn rất tốt cho người bị Gout là dưa chuột và giấm. Món dưa chuột xắt lát trộn dầu giấm với chút củ hành và tỏi,  nêm bằng muối tiêu có thêm chút mật ong (công thức của ngày y học cổ truyền Ấn Độ Ayurveda) nên luôn có trên bàn ăn. Dưa chuột và giấm cí tác dụng ngăn chặn phản ứng chuyển hóa chất đạm purin, đồng thời làm tăng bài tiết acid uric

              Khoai tây là thực phẩm đóng vai trò chủ chốt trong chế độ dinh dưỡng của người bị Gout. Từ xưa, người ta đã có kinh nghiệm dùng khoai tây cho người bị viêm khớp từ thời thượng cổ. Bệnh nhân gout nên tập ăn mỗi ngày vài củ khoai tây luộc vừa chín (tránh luộc quá lâu vì làm thất thoát vitamin C)

Chăm sóc bệnh nhân gout tại gia đình

            Những người mắc bệnh Gout nếu bị béo phì thì nên điều chỉnh chế độ ăn và sinh hoạt để giảm cân, nhưng không được giảm quá nhanh. Tránh làm việc quá sức, tránh lanh hay ăn uống quá mức.

             Gout xuất hiện do rối loạn chuyển hóa acid uric trong cơ thể. Biểu hiện là viêm ở các khớp, chủ yếu gặp ở nam (95%), tuổi trung niên (30-40 tuổi)

             Cơn viêm cấp thường xuất hiện sau bữa ăn nhiều rượu thịt, chấn thương hoặc phẫu thuật, sau lao động nặng, đi lại nhiều, xúc động, nhiễm khuẩn cấp. Khoảng 50% có dấu hiệu báo trước như rối loạn tiêu hoắ, nhức đầu, mệt mỏi, đi tiểu nhiều, sốt nhẹ. Khoảng 60-70% có biểu hiện viêm cấp ở khớp bàn ngón chân cái. Bệnh nhân đau dữ dội, ngón chân sưng to, phù nề, căng bóng, đỏ, xung huyết.

             Đợt viêm kéo dài 1-2 tuần, ban đêm bệnh nhân đau nhiều hơn ban ngày. Sau đó viêm nhẹ dần, đau giảm, bớt phù nề, da tím dần, hơi ướt, ngứa nhẹ rồi bong vảy. Sau khi khỏi, bệnh không để lại di chứng nhưng có thể tái phát vài lần trong năm.

              Gout mạn tính có thể tiếp theo Gout cấp tính, nhưng phần lớn bắt đầu từ từ, tăng dần, không qua các đợt cấp, biểu hiện bằng dấu hiệu nổi u cục (lắng đọng urat ở xung quanh quanh khớp, đầu xương, sụn) và viêm đa khớp mạn tính (thường là các khớp nhẹ và vừa, rất dễ nhầm với bệnh viêm đa khớp dạng thấp). Bệnh cũng có biểu hiện ở cơ quan khác như sỏi thận (sỏi thận), thần kinh.

              Đối với cơn Gout cấp tính, bệnh nhân cần thăm khám và điều trị tại bệnh viên. Bệnh nhẹ hoặc gout mãn tính có thể điều trị tại nhà theo đơn thầy thuốc. Để phát huy tác dụng điều trị, người bệnh cần có chế độ ăn uống, sinh hoạt hợp lý: kiêng rượu, bia và các chất kích thích chè, cà phê, uống nhiều nước (2-3lits/ngày), nên dùng các loại nước khoáng có chứa nhiều bicacbonat. Hạn chế thức ăn có nhiều acid uric như thịt, cá, tôm, cua, phù tạng động vật, đậu đỏ; Ưu tiên thức ăn có acid uric như trứng, sữa, phomat, ngũ cốc, các loại hạt, đường rau quả.

             Món ăn bài thuốc: Ý dĩ 60g, hồng táo 20 quả; nấu chín, ăn ngày một lần. Hoặc: trứng cút 5 quả, hạt sen 30g; nấu chín, ăn ngày một lần.

Chữa gout bằng đông y

              Theo đông y, nguyên nhân chủ yếu gây bênh gout là khí huyết suy yếu khiến ngoại tà xâm nhập cơ thể, gây nghẽn tắc kinh lạc. Hậu quả là khí huyết rối loạn, tà độc tích tụ ở các khớp, gây đau nhức, vận động khó khăn.

              Gout (thống phong) là một dạng bệnh khớp do rối loạn chuyển hóa purin gây nên. Biểu hiện chủ yếu là: khớp xương sưng tấy, nóng đỏ, đau nhức kịch liệt, tái phát nhiều lần. Bệnh lâu ngày có thể dẫn đến di dạng khớp, nổi u cục quanh khớp và dưới da, sỏi thận, suy thận…

              Trong đông y, thống phong là một loại bệnh Tý (chỉ trạng thái kinh mạch, xương khớp bị nghẽn tắc, đau nhức, vận động khó khăn). Đau xuất hiện ở khắc các khớp xương, đau ghê gớm như bị hổ cắn, nên còn gọi là chứng “bạch hộ lịch tiết phong” (“lịch’ là khắc cả, “tiết” chỉ khớp xương)

              Nếu không chữa trị kịp thời, bệnh tà sẽ thâm nhập vào sâu bên trong, gây tổn thương các tạng phủ, chủ yếu là hai tạng can, thận. Bệnh kéo dài lâu ngày khiến công năng của các tạng phủ suy yếu dần, khí huyết bị ứ trệ hóa thành cục “đàm” – đọng lại quanh các khớp dạng những khối u. Đông y gọi những khối u đó là “thống phong thạch” (đá thống phong)

              Từ xưa, các thầy thuốc đông y đã nhận thấy thống phong có những biểu hiện bệnh lý rất phức tạp, không chỉ dùng một phương thuốc cố định mà chữa khỏi. Các bài gia truyền, kinh nghiệm dân gian tuy có thể mạng lại một số kết quả trị liệu nhất định nhưng ít khi chữa khỏi hoàn toàn, tận gốc. Những người không hợp thuốc còn gặp tác dụng phụ ngoài mong muốn. Vì vậy, cần căn cứ vào chứng trạng cụ thể để phân loại bệnh và sử dụng các phép trị, bài thuốc tương ứng.

            Thể thấp nhiệt nghẽn tắc kinh mạch

Khớp xương đột nhiên bị sưng tấy, nóng đỏ, xung huyết, khó cử động, đau kịch liệt – gân như bị xé, xương như muốn nứt ra. Bệnh thường phát nặng vào ban đêm, kèm theo sốt cao, đau đầu, buồn nôn, mệt mỏi, chán ăn, miệng khát, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng khô

   Dùng phép chữa thanh nhiệt trừ thấp, hoạt huyết thông lạc: phòng phong, hạnh nhân, liên kiều, tàm sa, xích tiểu đậu, khương hoàng, hải đồng bì, sơn chi mỗi thứ 10g, ý dĩ nhân 30g, hoạt thạch 15g, bán hạ 6g, sắc kỹ với nước, chia 3 lần uống trong ngày

             Nếu khớp xương nóng đỏ nhiều, thêm nhẫn đông đằng (dây kim ngân) 30g, hổ trượng căn (cốt khí củ) 10g. Nếu đau nhiều, thêm uy linh tiên 15g, nhũ hương 6g, cùng sắc uống

            Thể huyết ứ đàm trở

            Bệnh kéo dài nhiều ngày, hay tái phát, khớp xương bị biến dạng và cứng lại, vùng da quanh khớp xương đen sạm, đau kịch liệt ở một số vị trí cố định, chân tay tê dại, khó co duỗi. Khi bệnh phát nặng, khớp xương có thể bị sưng, đau, nóng, đỏ, người phát sốt, khát nước, tiểu tiện sẻn đỏ; hoặc xương lạnh ngắt, gặp thời tiết lạnh đau càng kịch liệt, được chườm nóng thì thấy đễ chịu. Chất lưỡi đỏ tía, có những điểm ứ huyết

             Dùng phép chữa hoạt huyết hóa ứ, hóa đàm thông lạc: đào nhân, hồng hoa, khương hoạt, tần cửu, đương quy mỗi thứ 12g, địa long, ngưu tất mỗi thứ 20g, ngũ linh chi, xuyên khung, mộc dược, hương phụ mỗi thứ 9g, cam thảo 6g, sắc kỹ với nước, chia 3 lần uống trong ngày

            Nếu quanh các khớp còn nổi lên những cục “thống phong thạch”, cần thêm bạch giới tử 10g, bặch cương tàm 10g, cùng sắc uống

            Thể cam thận suy hư

            Bệnh kéo dài lâu ngày khiến cơ thể ngày càng tiều tụy, hai tạng can và thận bị hư tổn nặng. Sức đề kháng của cơ thể giảm khiến ngoại tà dễ xâm nhập vào cơ thể, dẫn đến những cơn đau lúc nặng lúc nhẹ, các khớp xương thỉnh thoảng lại sưng đau, nóng đỏ. Dạng bệnh này còn kèm theo các triệu chứng như: toàn thân mệt mỏi, kém ăn, sốt nhẹ về chiều, lưng đau gối mềm, phiền táo, tai ù, đầu choáng, hoa mắt, miệng háo, ra mồ hôi trộm khi sáng sớm (ngũ canh tả), tiểu tiện nhiều lần, chất lưỡi đỏ ít rêu

            Dùng phép trị bổ ích can thận, trừ thấp, thông kinh lạc: phòng phong, đương quy, địa hoàng, phục linh, tang ký sinh mỗi thứ 15g, tần cửu, xuyên khung, bạch thược, đỗ trọng, ngưu tất mỗi thứ 10g, tế tân 3g, nhục quế 7g, nhân sâm 12g, cam thảo 6g, sắc kỹ với nước, chia 3 lần uống trong ngày

              Thêm phụ tử 8g, can khương 8g nếu người bệnh thiên về dương hư, với những biểu hiện như sợ lạnh, da nhợt nhạt, tiều tiện trong dài, đại tiện lỏng, lưỡi trắng nhợt. Phụ tử là vị thuốc có độ độc rất cao, cần được bào chế đúng phương pháp mới sử dụng được. Vì vậy, chỉ mua nó ở những của hàng đong nam dược có uy tín. Mặt khác, phải cho phụ tử vào sắc trước – nấu ôi với nước ít nhất 1,5 giờ để độc tố có đủ thời gian phân giải bớt, sau đó mới cho các vị thuốc khác vào cùng sắc uống

            Cần bỏ nhục quế, thêm kỷ tử 15g, hà thủ ô chế 15g để tư bổ can thận nếu có triệu chứng thiên về âm hư, với những biểu hiện như hai gò má ửng đỏ từng cơn, sốt cơn về chiều, phiền táo, ra mồ hôi trộm khi nằm ngủ, đầu mặt choáng váng, tai ù, miệng khô khát, chất lưỡi đỏ ít rêu

             Nếu lưng gối đau mỏi nhiều, thêm hoàng kỳ 30g, tục đoạn 15g để bổ thận, ích khí. Nếu chân tay tê dại nhiều, cần thêm kê huyết đằng 30g để dưỡng huyết, thông lạc.

Một số món ăn phòng chống bệnh gout

             Theo đông y, bệnh Gout là do ngoại tà xâm nhập cơ thể, gây tắc nghẽn kinh lạc, ứ trệ khí huyết, làm tân dịch kết lại thành đờm quanh khớp, gây đau. Ngoài việc dùng thuốc, phương pháp điều trị bằng ăn uống cũng rất quan trọng. Sau đây là một số món ăn chữa bệnh gout

1. Rau cải trắng, dầu thực vật 20g, xào rau ăn hằng ngày, thích hợp trong giai đoạn điều trị củng cố

2. Cà dái dê tím 250g, rửa sạch, luộc chín, thái thành miếng, cho thêm xì dầu, dầu vừng, muối, gia vị, trộn đều, ăn cách nhật

3. Khoai tây 250gm dầu thực vật 30g, rán khoai tây trộn với xì dầu, muối, gai vị, ăn hàng ngày. Dùng rất tốt khi bệnh tái phát

4. Củ cải  250g thái chỉ, dầu thực vật 50g. Củ cải rán quan với dầu rồi thêm bá tử nhân (30g), nước (500ml) đun chín, cho thêm muối và gia vị, ăn hằng ngày

5. Củ cải 250g, dầu thực vật 30g, gạo tẻ 3g. Củ cải thái chỉ, rán qua rồi cho thêm 750ml nước, nấu với gạo thành cháo, ăn trong ngày.

6. Măng tre 250g, dầu thực vật 30g, xào măng, cho thêm muối và gia vị, ăn hàng ngày

7. Hạt dẻ tán thành bột 30g, gạo nếp 50g, nấu với 750ml nước thành cháo ăn trong ngày

8. Rau cần 100g (để cả rễ, rửa sạch, thái nhỏ), gạo te 30g, nấu với 750ml nước thành cháo, ăn trong ngày

9. Nho tươi 20g, gạo tẻ 50g, nấu thành cháo ăn hàng ngày, dùng rất tốt trong giai đoạn cấp tính

10. Dâu tây (thảo mai) 80g, rửa sạch, bỏ cuống, ép lấy nước, pha thêm đường phèn và nước đun sôi để nguội (khoảng 100ml) chia 2-3 lần uống mỗi ngày

11. khoai tây, cà rốt, dưa chuột, táo tươi (loại táo to nhập khẩu từ Trung Quốc) mỗi loại 300g. Tất cả rửa sạch, thái miếng, ép lấy nước, cho thêm mật ong uống trong ngày

12. Quýt 200g, cà rốt 300g, táo 400g, lô hội 40g, tất cả rửa sạch, thái miếng, ép lấy nước, pha thêm mật ong uống trong ngày.

13. Cương tàm 250g, đậu đen 250g, rượu trắng 1000ml. Đậu đen sao cháy, ngâm trong rượu cùng với cương tàm, sau 5 ngày thì dùng được. Mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 20ml

14. Độc hoạt 40g, bạch tiên bì 15g, khương hoạt 30g, nhân sâm 20g, rượu vừa đủ. Các vị rửa sạch, sấy khô, tán vụn. Mỗi lần lấy 10g bột thuốc, 7 phần nước 3 phần rượu, đun cạn còn 7 phần rồi bỏ bã, uống hàng ngày.

15. Tang lý sinh 200g, đậu đen 200g, rượu trắng 1500ml. Các vị sấy khô, sao thơm, tán vụn, ngâm trong rượu cùng một chút mật ong, sau 5 ngày thì dùng được. Mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 15ml.

16. Độc hoạt 60g, đậu tương 500g, đương quy 10g, rượu trắng 1000ml. Tất cả sấy khô, sao thơm, thái vụn, ngâm với rượu, cho thêm mật ong, uống mỗi ngày 2-3 lần, mỗi lần 10-15ml.

Bệnh loãng xương

Chương I: Tìm hiểu về bệnh loãng xương

Loãng xương là gì?

             Loãng xương là một rối loạn bất thường của xương xảy ra ở bất kỳ xương nào, là nguy cơ hàng đầu gây ra gãy xương

   Bệnh loãng xương được ví như những tên ăn cắp vặt, mỗi ngày một chút, chúng lấy dần các khoáng chất quý báu trong ngân hàng xương của mỗi chúng ta. Lúc đầu thường không có biểu hiện gì cả, nhưng khi dấu hiệu rõ ràng, khối lượng xương thì khối lượng xương đã mất trên 1/3 (khoảng 35%). Hậu quả gãy xương do loãng xương thường khá nặng nề với sức khỏe người có tuổi vì xương đã bị loãng rất lâu liền, người bệnh loãng xương lâu ngày nên rất dễ bị bội nhiễm (viêm phổi, viêm đường tiết niệu, loét mục…)

              Xương bình thường được cấu tạo bằng protein collagen và calcium. Loãng xương là do tiêu hủy cả calci và protein của xương, kết quả là tạo ra xương có chất lượng kém hay giảm độ đậm đặc của xương có chất lượng kém hay độ giảm độ đậm đặc của xương. Xương bị loãng có thể bị gãy dù chỉ một chấn thương nhỏ mà trong trường hợp bình thường lại không bị. Gây xương có thể xảy ra khi ngã

             Xương sống, xương chậu, xương đùi, xương cổ tay là những vùng thường vị gãy khi ngã. Mặt khác, gãy xương cũng có thể xảy ra ở những xương khác như xương sườn

            Tại sao loãng xương lại ngày càng gia tăng

              Một trong những thành tựu rất lớn của y học nói riêng và của khoa học kỹ thuật nói chung là nâng cao tuổi thọ cho con người. Với sự gia tăng tuổi thọ, số người có tuổi (trên 65 tuổi) ngày càng cao và chiếm một vị trí đáng kể trong dân số. Hiện nay số người có tuổi chiếm trên 12% dân số thế giới, dự tính vào năm 2020, con số này sẽ tăng là 17% (chiếm 40% chi phí y tế toàn xã hội)

             Từ 10 năm nay, bệnh loãng xương đã được coi là vấn đề sức khỏe mang tính toàn cầu vì ảnh hưởng nhiều tới sức khỏe người có tuổi (đặc biệt là phụ nữ) và đòi hỏi chu phí rất lớn về y tế của xã hội. Loãng xương đã được coi là một trong 4 vấn đề lớn được đặc biệt quan tâm trong thập niên 2000-2010, thập niêu đầu tiên của thế kỳ XXI, mà liên hợp quốc và tổ chức y tế thế giới đã đề xướng là thập niên Xương và Khớp (the bone and Joint Decade)

   Hiện nay, loãng xương đang được coi là một bệnh dịch âm thầm, ngày càng gia tăng, đang có xu hướng lan rộng khắp thế giới, đặc biệt ở các nước châu Á

-Khoảng 50% phụ nữ trên 50 tuổi bị loãng xương

-Trên 40% phụ nữ trên 70 tuổi bị gãy xương do bị loãng xương

Tình hình loãng xương ở nước ta như thế nào?

              Cho đến nay, vẫn chưa có một nghiên cứu dịch tễ đầy đủ nào về bệnh loãng xương cũng như mức độ ảnh hưởng của bệnh tới sức khỏe người bệnh và chỉ phí y tế của căn bệnh này ở nước ta. Đa số bệnh nhân loãng xương chưa được theo dõi lâu dài. Chuẩn đoán loãng xương đa số muộn, vào lúc đã có biến chứng: đau kéo dài do chèn ép rễ thần kinh, gãy lún đốt sống, gãy xương… Việc điều trị hầu hết mới chỉ đưa vào calci, vitamin D và chất chuyển hóa của vitamin D (Calcitriol). Các thuốc điều trị tích cực khác còn rất hạn chế.

   Một số nghiên cứu đã cho thấy:

- Khẩu phần ăn hàng ngày của chúng ta rất thiếu calci, việc sử dụng sữa và các chế phẩm từ sữa trong cộng đồng còn ít và hầu hết những người dùng sữa và các sản phẩm từ sữa đều tập trung ở những thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội

- Khối lượng khoáng chất đỉnh của xương ở người trưởng thành khá thấp, tỷ lệ thiếu xương và loãng xương khá cao trong cộng đồng.

- Chưa có chiến lược phòng ngừa bệnh lâu dài và đầy đủ, mọi người chưa chủ động phát hiện bệnh sớm

- Đa số nhân dân lao động không có khả năng sử dụng thuốc điều trị lâu dài khi có bệnh, chưa có giải pháp để đương đầu với những khó khăn về kinh tế của người bệnh.

            Chi phí cho điều trị loãng xương như thế nào?

   Hàng năm, chi phí cho điều trị bệnh loãng xương ở các nước phát triển không ngừng tăng lên. Riêng ở Mỹ, một đất nước phát triển vào loại hàng đầu thế giới, chi phí cho bệnh loãng xương luôn là một con số rất đáng quan tâm. Chỉ trong vòng 15 năm, chi phí này đã tăng gấp 4 lần ( 5,1 tỷ USD năm 1986 và 22 tỷ USD năm 2001).

             Theo thông báo của Liên đoàn chống bệnh loãng xương thế giới (IOF), hiện nay chi phí cho bệnh loãng xương tương đương với chi phí cho bệnh tiểu đường và lớn hơn chi phí cho cả hai bệnh ung thư thường gặp nhất ở phụ nữ cộng lại (ung thư vú và ung thư cổ tử cung)

            Tại sao chi phí cho bệnh loãng xương lại cao như vậy?

             Chi phí lớn nhất cho bệnh loãng xương là để điều trị biến chứng gãy xương, đặc biệt là gãy cổ xương đùi.

              Năm 1990, toàn thế giới có khoảng 1,7 triệu trường hợp gãy cổ xương đùi do loãng xương, thì 31% số này thuộc các nước châu Á. Với tốc độ lan tràn được ví như dịch hiện nay, dự tính năm 2050, toàn thế giới sẽ có tới 6,3 triệu trường hợp gãy cổ xương đùi do loãng xương, và 51% số này thuộc các nước châu Á

            Gãy xương do loãng xương đang thực sự trở thành một gánh nặng cho chương trình chăm sóc sức khỏe của mỗi quốc gia. Đây là một thách thức lớn cho sức khỏe cộng đồng, đặc biệt ở các nước châu Á, nơi mà đa phần là các nước đang phát triển, đông dân và còn có nhiều khó khăn về kinh tế, trong đó có nước ta.

   Gãy xương là một biến chứng nặng của loãng xương, được ví như tai biến mạch vành (nhồi máu cơ tim) trong bệnh cơ tim thiếu máu cục bộ vì hậu quả của chúng không thua kém gì nhau, mặc dù trên thực tế người ta vẫn nghĩ là tai biến mạch vành năng nề hơn nhiều.

            Các chi phí y tế để điều trị biến chứng gãy xương do loãng xương

1. Chi phí nằm bệnh viện để điều trị gãy xương: cố định ngoài, kết hợp xương, thay chỏm xương đùi…

2. Chi phí điều trị các biến chứng do nằm lâu ở người có tuổi bị gãy xương (vì phải bất động chỗ xương gãy vì không vận động được) như: viêm phổi, viêm đường tiết niệu, loét tư thế, loãng xương tiếp tục…

3. Chi phí cho các thuốc điều trị tích cực bệnh loãng xương (Bisphosphonates hoặc Calcitonine hoặc hoóc môn hay các thuốc giống hoóc môn), vitamin D, thuốc tăng đồng hóa… trong suốt quãng đời còn lại của người bệnh để tránh tái gãy xương

            Hậu quả của gãy xương do loãng xương

              Người bệnh tử vong trong vòng 5 ngày (20%), người bệnh phải có người trợ giúp suốt cuộc đời còn lại (20%), người bệnh bị tàn phế, phải phụ thuộc hoàn toàn vào người khác (30%), chỉ khoảng 30% có thể hội nhập trở lại với cuộc sống xã hội nhưng vẫn luôn luôn bị nguy cơ tái gãy xương rình rập

Triệu chứng và hậu quả của loãng xương

            Triệu chứng của loãng xương là gì?

             Loãng xương tiến triển chậm chạp, kéo dài tới hàng chục năm. Một số trường hợp loãng xương gây ra gãy xương có thể được phát hiện trong khoảng năm năm sau đó. Trước khi bị gãy xương, chỉ khi bệnh nhân không biết mình vị loãng xương, chỉ khi gãy xương mới phát hiện ra, lúc này thì đã quá muộn. Khi đó, họ có những triệu chứng liên quan đến xương bị gãy.

              Gãy xương sống là nguyên nhân gây ra đau cột sống theo rễ thần kinh, lan từ hông lưng ra hai bên. Ở người lớn tuổi, gãy xương sống có thể tái phát, là nguyên nhân gây đau lưng mãn tính, xảy ra ở những chỗ cong của cột sống. Người càng nhẹ cân càng ít bị đau lưng. Bất cứ động tác cúi người nào cũng đều có thể gây ra đau lưng

              Gãy xương có thể xảy ra trong suốt quá trình hoạt động bình thường gọi là gãy xương do stress. Chẳng hạn, một số bệnh nhân bị loãng xương tiến triển thành stress gãy xương, xảy ra ngay cả lúc người bệnh đi bộ, hay bước xuống cầu thang. Họ thường bị gãy xương chân. Gãy xương đùi thường do ngã, hay trong sinh hoạt bình thường. Gãy xương đùi rất khó chữa do xương bị loãng, kể cả phẫu thuật cũng khó giải quyết được

            Hậu quả của chứng loãng xương là gì?

              Xương bị gãy sẽ gây đau đớn, làm giảm chất lượng cuộc sống, giảm khả năng lao động và tàn tật. Trên 30% bệnh nhân bị nứt xương chậu phải có y tá chăm sóc lâu dài tại nhà.

   Những bệnh nhân lớn tuổi hơn sau khi bị gãy xương đùi, có thể do nằm lâu sẽ bị viêm phổi và những cục máu đông ở tĩnh mạch chi dưới có thể di chuyển lên phổi (sự thuyên tắc phổi) buộc bệnh nhân phải được chăm sóc tại giường cẩn thận một thời gian dài

              Khoảng 20% phụ nữ bị gãy xương cổ xương, xương đùi sẽ tử vong trong năm kế tiếp do những hậu quả của gãy xương. Thêm vào đó, nếu một người bị gãy xương cột sống một lần do loãng xương thì người đó có nguy cơ rất cao khi bị gãy xương tương tự trong những năm kế tiếp

Bệnh loãng xương được chuẩn đoán bằng cách nào?

             X-quang thường qui có thể cho thấy những chỗ loãng xương với đặc điểm mỏng và sáng hơn so với xương bình thường. Tuy vậy, thật không may khi phát hiện được đặc điểm này trên phim X-quang thì xương đã bị mất đi ít nhất 30%. Thêm vào đó X-quang không nói lên chính xác đậm bộ xương. Hình ảnh xương trên X-quang  thường bị ảnh hưởng bởi cường độ tia X

            Các tổ chức y khoa lớn trên thế giới đang đề nghị dùng phương pháp đo đậm độ xương kép gọi là DEXA (dual energy x-ray absorptometry) trong chuẩn đoán loãng xương. DEXA đo đậm độ của xương chậu và cột sống. Xét nghiệm chỉ tiến hành trong khoảng 5 đến 15 phút, ăn tia ít (nhỏ hơn từ 1/10 đến 1/100 lượng tia thường sử dụng trong chụp X-quang lồng ngực tiêu chuẩn) và khá chính xác.

              Đậm độ xương của bệnh nhân sau đó được so sánh với đậm độ chuẩn lấy từ những người trẻ truổi cùng giới tính và chủng tộc. Loãng xương được chuẩn đoán khi kết quả này thấp hơn 25% so với đậm độ chuẩn. Giảm đậm độ xương (một thể nhẹ hơn loãng xương) được chuẩn đoán khi kết quả thấp hơn từ 10% đến 25%

            Những ai nên đo đậm độ xương?

            Theo khuyến cáo thì một số nhóm người sau nên làm DEXA :

- Tất cả phụ nữ mãn kinh dưới 65 tuổi có nguy cơ loãng xương cao.

- Tất cả phụ nữ trên 65 tuổi

- Phụ nữ mãn kinh bị gãy xương cho dù không phải là chỉ định bắt buộc vì có thể bắt đầu điều trị mà không cần đến kết quả đo đậm độ xương

- Phụ nữ có quyết định dùng thuốc dưới sự hỗ trợ của xét nghiệm đo đậm độ xương

              Khuyến cáo cũng nói rằng không cần làm DEXA đối với những trường hợp mà nguyên nhân gãy xương sống có thể điều trị bất kể kết quả đo đậm xương. Thêm vào đó khi bệnh nhân không muốn điều trị thì cũng không cần thiết phải làm xét nghiệm. Do đó chủ nên làm DEXA nếu người bệnh sẵn lòng điều trị khi có kết quả khẳng định.

            Những yếu tố quyết định sự vững chắc của xương

   Mật độ chất xương là lượng chất xương có trong cấu trúc xương. Mật độ càng cao xương càng vững chắc. Mật độ chất xương ban đầu sẽ được quyết định bởi các yếu tố gen, các yếu tố gen này có thể bị thay đổi bởi môi trường và thuốc men.

              Ví dụ: Nam có mật độ chất xương cao hơn nữ, những người dân da đen có mật độ chất xương cao hơn người da trắng hoặc người châu Á.

             Bình thường, chất xương được tích tụ khi còn nhỏ và đạt ngưỡng cao nhất ở khoảng 25 tuổi. Mật độ chất xương sau đó sẽ duy trì ổn định trong khoảng 10 năm. Sau tuổi 35, cả nam lẫn nữ sẽ mất 0.3 – 0.5% mật độ chất xương/ năm như một phần của qua trình lão hóa bình thường.

             Estrogen quan trọng trong việc duy trì mật độ chất xương của phụ nữ. Khi mức estrogen bài tiết hạ thấp sau mãn kinh, mất chất xương sẽ tăng lên. Trong 5 đến 10 năm đầu tiên sau mãn kinh, phụ nữ có thể mất từ 2 – 4% mật độ chất xương/ năm. Kết quả là sau thời gian đó họ sẽ bị mất 25 – 30% mật độ xương. Sự gia tăng mất chất xương sau mãn kinh là nguyên nhân chính gây loãng xương ở nữ giới.

Nguyên nhân gây bệnh loãng xương

Loãng xương có thể phân thành hai loại

Loãng xương tiên phát ( do tuổi già) và loãng xương thứ phát ( do các yếu tố nguy cơ thúc đẩy)

Loãng xương do tuổi già là một tiến trình mang tính quy luật của cơ thể, là một trong những bệnh lý rất thường gặp ở người có tuổi vì ba lý do cơ bản sau:

1. Các tế bào sinh xương (Osteoblasts) bị lão hóa

2. Hạn chế sự hấp thu và chuyển hóa calci và vitamine D ở ruột.

3. Suy giảm các hoóc môn sinh dục ( Oestrogen avf Tetosterone), đặc biệt là hooc môn sinh dục nữ ( Oestrogen của buồng trứng) làm cho các tế bào hủy xương ( Osteoclasts) tăng hoạt tính.

            Loãng xương thứ phát là loãng xương do các yếu tố nguy cơ, làm nặng thêm tình trạng loãng xương do tuổi, có thể xảy ra ở người trẻ.

Những nguy cơ gây ra bệnh loãng xương

1. Kém phất triển thể chất khi còn nhỏ, đặc biệt là còi xương, suy dinh dưỡng, chế độ ăn thiếu protid, thiếu calci hoặc tỉ lệ calci/phospho trong chế độ ăn không hợp lí, thiếu vitamin D hoặc cơ thể không hấp thu được vitamin D… vì vậy khối lượng khoáng chất đỉnh của xương ở tuổi trưởng thành thấp, đây được coi là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất của bệnh loãng xương.

2. Ít hoạt động thể lực ( hoạt động thể lực thường xuyên sẽ giúp cho cơ thể đạt được khối lượng xương cao nhất lúc trưởng thành).

3. Sinh đẻ nhiều lần, nuôi con bằng sữa mẹ mà không ăn uống đủ chất đặc biệt là protid và calci để bù đắp lại.

4. Bị các bệnh mãn tính đường tiêu hóa ( viêm loét dạ dày, viêm ruột mãn tính…) làm hạn chế hấp thu calci, vitamin D, protid….

5. Thói quen sử dụng nhiều rượu, bia, cà phê, thuốc lá… làm tăng thải calci qua đường thận và giảm hấp thụ calci ở đường tiêu hóa (thường ở nam giới).

6. Thiểu năng các tuyết sinh dục nam và nữ (Suy buồng trứng sớm, mãn kinh sớm, cắt buồng trứng, thiểu năng tinh hoàn…)

7. Bất động lâu ngày do bệnh tật, do nghề nghiệp (những người du hành vũ trụ khi ở trong tàu cũ trụ ra ngoài không gian)… vì khi bất động lâu ngày các tế bào hủy xương tăng hoạt tính

8. Bị các bệnh nội tiết: cường tuyến giáp, cường tuyến cận giáp, cường tuyến vỏ thượng thận, tiểu đường…

9. Bị bệnh suy thận mãn hoặc phải chạy thận nhân tạo lâu ngày gây mất nhiều calci qua đường tiết niệu

10. Mắc các bệnh xương khớp mãn tính khác đặc biệt là viêm khớp dạng thấp và thoái hóa khớp

11. Do sử dụng một số thuốc: chống động kinh (Dihydan), thuốc chữa bệnh tiểu đường (Insulin), thuốc chống đông (Heparin) và đặc biệt là các thuốc kháng viêm nhóm Corticosteroid (Corticosteroid một mặt ức chế trực tiếp quá trình tạo xương, mặt khác làm giảm hấp thu calci ở ruột, tăng bài xuất calci ở thận và làm tăng quá trình hủy xương)

Một số nguyên nhân khác gây ra bệnh loãng xương

            Trẻ sơ sinh nhẹ cân dễ bị loãng xương khi về già

            Đây là kết luận của tiến sĩ Javaid (Anh) sau khi tiến hành nghiên cứu mối liên hệ giữa sự phát triển của trẻ với bệnh loãng xương ở tuổi già. Phát hiện này có thể giúp các chuyên gia biết trước những người có nguy cơ bị loãng xương và đưa ra các biện pháp điều trị thích hợp.

            Tiến sĩ Kasssim Javaid tiến hành nghiên cứu trên 178 người đàn ông và 155 phụ nữ ở độ tuổi 60-75. Ông đã tìm hiểu về cân nặng lúc sơ sinh và khi một tuổi của họ, cũng như chế độ dinh dưỡng và lối sống. Javaid nhận thấy sự phát triển chậm ngay khi còn trong bào thai và khi được 1 tuổi có thể ảnh hưởng đến độ bền vững về cơ lý của xương hông ở cả nam và nữ nhiều năm sau. Đây là biểu hiện phổ biến nhất của căn bệnh loãng xương.

             Kết quả nghiên cứu này một lần nữa khẳng định, một chế độ dinh dưỡng cân đối, giàu canxi và các bài tập luyện sức bền của xương đều đặn ngay từ thời thơ ấu là phương pháp tốt nhất để có được xương khỏe mạnh. Do đó, các bậc cha mẹ cần quan tâm đến xương của trẻ ngay từ những ngày đầu tiên, và điều chỉnh lối sống của trẻ khi cần thiết để tránh nguy cơ mắc chứng loãng xương sau này

            Làm mẹ khi quá trẻ dễ bị loãng xương

            Những cô gái mới lớn mang thai sẽ làm tăng nguy cơ xương bị yếu đi. Trong một nghiên cứu mới tại Mỹ, 1/3 số bà mẹ ở tuổi thiếu niên có chỉ số điển hình của bệnh loãng xương, hoặc có dấu hiệu báo trước về căn bệnh này

            “Cần phải đảm bảo rằng những bà mẹ thiếu niên tiêu thụ đủ lượng canxi trong thời gian mang thai – 1300 milligram mỗi ngày, để đáp ứng nhu cầu canxi của cả mẹ lẫn bào thai”, Kim berly O. O’brien tại trường sức khỏe cộng đồng Johns Hopkins Bloomberg ở baltimore cho biết.

              Canxi đặc biệt cần thiết trong thời kỳ mang thai do bào thai khi lớn lên cần nhiều chất dinh dưỡng để hình thành xương, trong lúc bản thân các thiếu nữ cũng rất cần nhiều canxi cho chính mình. Thực tế 40% lượng xương của phụ nữ được hình thành trong độ tuổi dậy thì

   Mặc dù mỗi năm có hơn nửa triệu thiếu nữ sinh con tại mỹ nhưng chưa có nhiều thông tin về việc mang thai ảnh hưởng thế nào tới xương của người mẹ. O’Brien và cộng sự đã nghiên cứu 23 phụ nữ mang thai trong độ tuổi 13,5 đến 18,3, cũng giống như người lớn, lượng tiêu thụ canxi trong thời kỳ mang thai của họ cao hơn là sau khi sinh.

            Khoảng 1/3 các bà mẹ trẻ có dấu hiệu xương mỏng đi đáng kể sau khi sinh. Trong số 15 người được đo xương trong 3 – 4 tháng sau khi sinh, 2 người có dấu hiệu của bệnh loãng xương. 3 người khác có dấu hiệu của tiền loãng xương.

             Tuy nhiên, không phải cứ mang thai ở độ tuổi thiếu niên là xương bị yếu đi. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng tiêu thụ nhiều lượng canxi hơn trong thời kỳ mang thai sẽ giúp chống lại tình trạng yếu xương.

            Chất béo có thể gây loãng xương

   Chế độ ăn giàu mỡ không chỉ gây béo hay bệnh tim mạch mà còn làm xương mỏng và dễ gây do loãng xương. Nồng độ cholesterol cao có thể tăng khả năng phá hủy xương.

            Cho đến gần đây, người ta vẫn chưa chú ý đến vai trò của cholesterol đối với xương

            Cholesterol tăng phá hủy xương

Thí nghiệm cho chuột ăn chế độ giàu mỡ trong 7 tháng, gần một nửa thời gian sống của chúng cho thấy: chuột mất rất nhiều muối khoáng từ xương và mất 15% xương của chân sau. Như vậy, nồng độ cholesterol cao làm tăng phá hủy xương

             Và làm giảm sản xuất xương

Trong nghiên cứu trước đây, người ta đã nhận thấy những con chuột ăn theo chế độ giàu mỡ có ít tế bào tạo xương hơn những con ăn theo chế độ bình thường. Điều này có nghĩa là nồng độ cholesterol cao có thể làm giảm sản xuất xương

   Triển vọng điều trị mới

Trong tương lai, điều trị loãng xương có thể phải hướng tới cả các tê bào tạo xương và tế bào phá hủy xương

Các nhà khoa học cho rằng cấu trúc của xương và mạch máu rất giống nhau. Bệnh loãng xương và bệnh tim mạch đều là đáp ứng viêm của cơ thể, do nồng độ cholesterol cao gây ra. Chế độ ăn nghèo mỡ và các thuốc giảm cholesterol thông dụng như statin và các kháng chất kháng oxy hóa – có vai trò phong xơ vữa động mạch -  có thể được sử dụng để phong cả loãng xương và bệnh tim mạch

            Loãng xương do dùng corticoide

              Việc sử dụng thuốc này kéo dài (để điều trị hen, thấp khớp mạn tính, các bệnh lý về gan, thận,…) có thể gây loãng xương do làm giảm hấp thu canxi ở ruột, giảm tái hấp thu canxi ở ống thận và tăng canxi niệu. Loãng xương cho corticoide là thể bệnh hay gặp và trầm trọng nhất trong các loại loãng xương thứ phát

  Corticoide ức chế trực tiếp việc tạo tế bào xương, gây mất cân đối hoạt động tiêu xương và tạo xương, dẫn đến giảm khối lượng xương. Ảnh hưởng tiêu cực này thuowngf ảnh hưởng ở những người dùng thuốc này kéo dài với liều 7,5mg/24 giờ. Tuy nhiên, cường độ mất xương không hoàn toàn tương xứng với thời gian điều trị, liều dùng hàng ngày hay tích lũy corticoide, mà tùy thuộc cơ thể từng người

             Một nghiên cứu cho thấy trong số bệnh nhân dùng corticoide kéo dài, chỉ 15% tránh được các biến chứng về xương. Vì vậy, những người điều trị bằng thuốc này cần đo mật độ xương tối thiểu mỗi năm 1 lần để bác sĩ phát hiện sớm chứng loãng xương (nếu có) và kịp thời khắc phục, tránh được những hậu quả tai hại hơn.

   Để dự phòng loãng xương do corticoide, bệnh nhân phải tuân thủ chỉ định của bác sĩ: sử dụng liều corticoide thấp nhất có thể đem lại hiệu quả. Cần cải thiện mức canxi máu và canxi liệu bằng chế độ ăn không muối, có thể dùng mỗi ngày 20-25mg hydrochlothiazit và 1g canxi

            Đối với một số thường hợp, việc bổ xung nột tiết tố có thể đem lại hiệu quả khả quan. Những nghiên cứu gần đây cũng cho thấy, có thể dùng bisphosphonate vi thuốc này làm giảm mất xương cột sống và xương đùi do dùng corticoide kéo dài (trên 3 tháng)

             Ngoài ra, để phòng loãng xương do corticoide, có thể kích thích tăng tạo xương bằng cách dùng muối fluor kết hợp uống canxi

            Thừa vitamin A có thể dẫn đến bệnh loãng xương

             Mặc dù vitamin A rất cần thiết cho sức khỏe con người nhưng việc sử dụng quá nhiều chất này cùng lúc có thể gây ngộ độc cấp, nguy hiểm đến tính mạng. Tình trạng ngộ độc vitamin A mạn tính có thể dẫn đến bệnh loãng xương.

            Cách đây nhiều thế kỳ, những trường hợp ngộ độc thức ăn có vitamin A đã được ghi nhận. Năm 1597, trong nhật ký của mình, Ông Geritn de Vể (thành viên đoàn thám hiểm từ Nova Zembla tới In donesia) đã mô tả việc các thủy thủ bị ngộ độc khi ăn gan gấu bắc cực (gan là thực phẩm rất giàu vitamin A). trong đó, ông cũng nhắc đến tổn thương bong da toàn thân kéo dài suốt cuộc hành trình

             Việc dùng vitamin A liều cao kéo dài (2000 – 50000 đơn vị/ ngày) có thể dẫn đến ngộ độc mãn tính với các biểu hiện: đau xương khớp, chán ăn, buồn nôn, giảm cân, tăng ắp lục nội sọ, gan to, lách to. Tình trạng này ảnh hưởng tới xương và quá trình chuyển hóa muối khoáng, đồng thời làm tăng số lượng và cường độ hoạt động của tế bào hủy xương. Một nghiên cứu tiến hành ở những người Kenya, có tập quán ăn nhiều gan động vật, cho thấy, so với người bình thường, hệ đệm của xương họ thưa hơn, màng xương có nhiều lỗ khuyết lớn. Đó là biểu hiện của ngộ độc vitamin A mãn tính.

              Trong nhiều nghiên cứu độc lập, các tác giả cho rằng việc sử dụng nhiều vitamin A sẽ làm giảm tỉ trọng xương và tăng nguy cơ gãy xương. Nhà khoa học Melhus đã nghiên cứu và tìm nguyên nhân tại sao tỉ lệ gãy xương hông ở vùng Scandinavia cao hơn so với các vùng khác. Họ nhận thấy, cư dân ở đây thường xuyên dùng vitamin A với liều cao gấp 6 lần so với vùng Nam Âu.

             Vì vậy, các chuyên gia y tế khuyên răng, mọi người không nên tự uống vitamin A mà nên hỏi ý kiến bác sĩ về việc này

            Các nhà du hành dễ bị loãng xương

Vì sao các nhà du hành dế bị loãng xương?

   Trong điều kiện tĩnh lặng của trạng thái không trọng lượng, canxi cacbonnat, một loại khoáng tương tự như phần cứng của xương, kết tinh khác so với bình thường. Thay vì kết tụ thành mảng, chúng lại tạo ra những “phần tử” nằm rời rạc, tương tự như cơ chế làm loãng xương.

            Đây là phát hiện mới nhất của nhà khoa học Xiang-Yang Liu, thuộc đại học quốc gia Singapore. Hiện nay một trong những thách thức lớn nhất đối với các chuyến bay dài ngày vào vũ trụ là tình trạng không trọng lượng, gây ra bệnh loãng xương, làm xương có các lỗ rỗng và giòn đi. (trên vũ trụ lượng xương mất đi trong 8 tháng của một nhà du hành bằng với lượng xương mà người bình thường mất đi trong thời gian từ 50 đến 60 tuổi)

              Xương là hợp chất của khoáng rắn, chủ yếu là canxi phốt phát. Suốt trong cuộc đời của con người, các tế bào tạo xương và tế bào hủy xương làm việc liên tục để tạo ra và phá hủy các khoáng chất này, giúp trẻ hóa xương. Nếu xương không được đổi mới kịp thời, các lỗ rỗng sẽ xuất hiện, gây ra bệnh loãng xương (xốp xương).

            Trong khâu tạo xương, các tinh thể canxi phốt phát được sinh ra theo hai quá trình. Quá trình 1, khi canxi và phốt phát trở nên bão hòa xung quanh các tế bào tạo xương, chúng kết tủa lại tạo thành các tinh thể rời rạc, lơ lửng tự do trong dung dịch, gọi là quá trình tạo nhân đồng nhất. Quá trình thứ 2, các tinh thể này dính bám vào một bề mặt tiếp xúc (là các sợi keo trong xương), tạo thành mảng xương, gọi là quá trình tạo nhân không đồng nhất

             Bình thường trên trái đất (có lực hấp dẫn tác động), xương được tạo ra chủ yếu theo quá trình tạo nhân không đồng nhất. Các tinh thể khoáng gắn chặt vào các sợi hữu cơ mềm tạo thành xương cứng trách

             Chứng minh băng thử nghiêm

              Trong điều kiện lực hấp dẫn, dung dịch hình thành các dòng đối lưu (lên xuống), đưa các phần dung dịch nặng, đậm đặc hơn xuống dưới. Bằng cách đó, nó tạp trung muối từ dung dịch xung quanh lên một bề mặt. Tại đây, các tinh thể lớn dần, tạo mảng (quá trình tạo nhân không đồng nhât). Còn khi không có lực hấp dẫn, các dòng đối lưu biến mất, việc tích lũy các tinh thể trên bề mặt bioj chậm lại, quá trình tạo nhân đồng nhất dần chiếm ưu thế

             Trong sự tạo xương, nếu quá trình tạo nhân đồng nhất là chủ đạo, các tinh thể hình thành đơn độc,  chũng sẽ không gắn vào các sợi keo khiến xương có nhiều lỗ rỗng và yếu hơn. Như thế, nguyên nhân mất xương trong điều kiện không trọng lực chính là do thiếu các dòng đối lưu, nhiễu loạn trong dịch xương

            Ăn nhiều muối sẽ bị loãng xương

             Đó là kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học Úc sau khi theo dõi chế độ ăn hàng ngày của 2 nhóm người. Theo đó, nhóm dùng nhiều hơn 2400mg muối/ngày có nghuy cơ mất chất xương, sụt giảm canxi cao hơn so với nhóm dùng ít hơn

Làm thế nào để phát hiện sớm bệnh loãng xương

1. Phát hiện những nguy cơ gây loãng xương thứ phát.

2. Đi khám bệnh sớm, ngay khi có các dấu hiệu đau mỏi mơ hồ ở cột sống, ở hệ thống xương khớp, dọc các xương dài (đặc biệt là xương cẳng chân), đau mỏi cơ bắp, chuột rút (vọp bẻ)… các bác sĩ chuyên khoa sẽ cho kiểm tra:

- Chụp X-quang xương và cột sống

- Đo khối lượng xương

- Khám và phát hiện các yếu tố nguy cơ

3. Khám bệnh và theo dõi định kỳ (tùy mức độ bệnh)

4. Luôn có ý thức phòng bệnh (suốt cuộc đời)

- Chế độ sinh hoạt, tập luyên tăng cường hoạt động ngoài trời, tập vận động thường xuyên và phù hợp với sức khỏe, duy trì lối sống năng động, tránh các thói quen xấu: uống nhiều rượu, cafe, thuốc lá

- Chế độ ăn uống luôn luôn đảm bảo đầy đủ protein và khoáng chất, đặc biệt là canxi. Vì vậy, sữa và các chế phẩm tử sữa (bơ, phomat, yaourt…) là thức ăn lý tưởng cho một khung xương khỏe mạnh. Chế độ này cần được duy trì suốt cuộc đời mỗi người

- Kiểm soát tốt các bệnh lý ảnh hưởng và những nguy cơ gây ra bệnh

Chương II: Điều trị bệnh loãng xương

Điều trị bệnh loãng xương bằng thuốc tây y

             Loãng xương được hiểu là tỉ trọng khoáng của xương thấp hơn tỉ trọng khoáng trung bình ở những người trưởng thành hay là giảm tỉ trọng xương và tăng khả năng bị gãy.

            Sức mạnh của xương phụ thuộc vào kích thước, tỉ trọng, cấu trúc, chuyển hóa và nhiều yếu tố khác nhau như gia đình, di truyền, lượng canxi đưa vào cơ thể. Khối lượng xương đạt tối đa ở tuổi trưởng thành, xương của nam giới lớn và đặc hơn của nữ 35-50%

   Từ 35 tuổi trở đi, xương giảm tỉ trọng dao động khoảng 2%/ năm, tuổi càng cao tỉ trọng giảm càng nhiều do các nguyên nhân như giảm tiếp nhận vitamin D, rối loạn hóc môn, giảm tạo cốt bao, giảm hoạt động thể lực… Riêng đối với nữ giới, mất xương phụ thuộc estrogen ở những năm đầu của thời kỳ mãn kinh, tốc độ mất xương 5 năm đầu có thể tới 5%/năm. Trong suốt cuộc đời, họ có thể mất tới 1/3 lượng xương vào thời kỳ này. Nữ mắc loãng xương nhiều hơn nam từ 5 – 10 lần.

            Các nghuyên nhân thứ phát gây loãng xương là nội tiết tố như tiểu đường, cường giáp, suy sinh dục, mãn kinh sớm, tăng prolactin máu, thiếu vitamin D do cắt dạ dày, kém hấp thu, rối loạn tiêu hóa, tăng canxi niệu, nằm bất động, rối loạn tủy xương, do thuốc corticosteroid, hóc môn giáp quá liều, heparin, thuốc chống co giật, nghiên rượu, làm việc nặng nhọc, đói ăn, dáng người nhỏ bé, ít vận động…

              Gẫy xương do loãng xương thường không có triệu chứng. Những nơi hay bị gãy là đốt sống ngực phần thấp, đốt sống lưng, xương chân, xương sườn, xương đùi, đầu xa xương quay, xương cánh tay. Đặc biệt thường gãy xương đùi, xương chậu người già, thương tổn khó chữa đến tử vong cao, xẹp đốt sống gây gù, gãy đốt sống gây đau lan khắp lưng, ngực, bụng đưa đến tàn phế.

             HIện nay có nhiều phương pháp xét nghiệm kỹ thuật cao, đánh giá những nguy cơ tiên phát, thứ phát, chuẩn đoán bệnh dễ dàng, chính xác như  cắt lớp định lượng, hấp thụ proton đơn – đôi, hấp thu tia X-quang đôi…

Điều trị: Khi đã xác định mất xương thì không có phương pháp điều trị nào có thể phục hồi như cũ. Điều trị chỉ làm phòng ngừa và mất thêm các chất khoáng của xương đưa đến loãng xương. Dưới đây là những thuốc rất cần thiết:

- Estrongen: đặc biệt cho thời kỳ mãn kinh, có tác dụng ngăn ngừa tình trạng mất xương nhanh ở thời kỳ này. Thuốc làm giảm nguy cơ gẫy xương từ 25-90%. Dùng thuốc càng sớm càng tốt, dùng lâu dài, nếu dừng thì hiện tượng mất xương phụ thuộc estrogen lại xảy ra. Dùng thuốc đều đặn sẽ bảo vệ và ổn định khối lượng xương. Thuốc dùng phối hợp với vitamin C càng tốt. Cũng có thể dùng thay thế Estrogen bằng progesteron để ngăn ngừa mất xương trong thời kỳ mãn kinh.

            Thị trường thuốc hiện nay có nhiều dạng thuốc hoạt chất tự nhiên hay tổng hợp với các thuốc mang tên estradiol, estronpiat, ethinylestradiol, diethylstilbestrol với nhiều biệt dược khác nhau. Thường dùng premarin là estrogen ngựa liên hợp qua đường uống.

            Cần chú ý chống chỉ định của thuốc: người bị bệnh gan, có tiền sử huyết khối tắc mạch, chảy máu sinh dục bất thường, có thai hoặc nghi ngờ có thai, ung thư vú hoặc nghi ngờ, khối u phụ thuộc estrogen, mẫn cảm thuốc

             Nếu vì lý do nào đó chống chỉ định estrogen thì dùng alendronat

- Calcitonin: thuốc ức chế tiêu xương, có thể tiêm hoặc xịt mũi. Nếu tiêm thì dùng cách ngày một lần hoặc ít hơn. Dùng thuốc dạng xịt 200 UI/ngày, thuận tiện, ít tác dụng phụ. Thuốc có nhiều biệt dược với calcitonin người, cá chình, lợn như calcinil, calcitar, calsyn, menocal…

             Tuy nhiên, nếu tiêm cần kiểm tra phản ứng. Dạng xịt có thể gây khô mũi, phù nề, xung huyết, hắt hơi, dị ứng, viêm họng, mệt mỏi, rối loạn vị giác, kích ứng, loét, sần đỏ, viêm xoang, chảy máu cam…

- Biphosphonat: dùng thuốc dưới dạng natri etidronat với biệt dược didronal, Biphosphonat alendronat và bietj dược fosamax. Ngoài việc dùng cho bệnh Paget xương, thuốc kiểm soát bệnh loãng xương, ức chế chuyển đổi xương, giảm tỉ lệ gẫy xương. Ít tác dụng phụ

             Tuy nhiên chưa rõ tính an toàn khi dùng thuốc lâu dài, có khả năng có tác dụng phụ gây viêm thực quản

- Calcitriol: là dẫ chất vitamin D3, làm tăng hấp thu canxi và phospho ở mô xương điều hòa canxi huyết do loạn dưỡng canxi, nhuyễn xương nhờn vitamin D

            Chú ý tránh dùng quá liều gây tăng canxi và phospho máu, đường niệu. Không dùng phối hợp với các thuốc có các vitamin D khác

- Các thuốc khác: kích thích tạo xương như Androgen, fluo, prostaglandin, yếu tố tăng trưởng. Nhiều nước châu Âu dùng natri fluorid khá rộng rãi trong điều trị loãng xương. Dạng thuốc thường dùng là natri monofluorophosphat có hiệu quả và an toàn. Một sô nước dùng dưới dạng phối hợp ở thực phẩm. thuốc có tác dụng cố định ion canxi ở mô xương, dùng trong bệnh loãng xương nguyên phát ở người có tuổi, người mãn kinh, người loãng xương do corticosteroid.

             Khi bắt đầu dùng thuốc có thể thấy buồn nôn, ăn kém ngon, đau dạ dày, đau chi dưới. Tránh dùng cùng các muối canxi, người suy gan, thận, loét dạ dày -  tá tràng, người mang thai, người nuôi con bú và trẻ em dưới 18 tuổi

             Bệnh loãng xương ở Việt Nam ngày càng có tỉ lệ cao, đặc biệt phụ nữ sau mãn kinh, tuổi càng cao tỉ lệ này càng cao, rất nhiều người tàn phế và tử vong do bệnh. Cần đẩy mạnh việc phòng ngừa làm tăng tối đa khối lượng xương đỉnh, giảm tới mức tối thiểu sự mất xương ở mọi người sau tuổi trung niên bằng cách cung cấp đủ lượng canxi hàng ngày, vitamin D, tập luyện đều đặn, vừa phải. Không nên hút thuốc và uống rượu. Với phụ nữ ở tuổi mãn kinh, việc dùng estrogen là rất cần thiết. Mặt khác khi đã xác định loãng xương phải hết sức chú ý trong tập luyện, lao động, đi lại nhiều, tránh vấp ngã gãy xương,

            “Siêu vitamin D” trị loãng xương

            Những nhà khoa học thuộc đại học  Wisconsin Madison ( Mỹ) vừa phát hiện ra một dạng mới của vitamin D có thể giúp điều trị bệnh loãng xương. Các thí nghiệm trên chuột cho thấy, hợp chất này giúp tăng 9% độ đặc của xương và 25% khối lượng cột sống ( bộ phận bị ảnh hưởng nặng nhất bởi chứng loãng xương)

             Các nhà khoa học hy vọng rằng, một ngày nào đó, vitamin D dạng mới này sẽ được áp dụng thay thế cho hooc môn liệu pháp ( thường được phụ nữ mãn kinh sử dụng để ngăn chặn tình trạng mất chất xương).

            Tuy nhiên, theo tiến sĩ De Luca, trưởng nhóm nghiên cứu, còn phải mất thêm nhiều năm nữa để hoàn thiện liệu pháp mới này và xem xét những tác dụng phụ độc hại ( nếu có) của nó.

Vitamin B ngăn ngừa gãy xương

             Tính năng kỳ diệu của axit folic và các loại vitamin B ngày càng được phát hiện trong việc bảo vệ sức khỏe con người. Ngoài khả năng hạn chế khuyết tật ở thai nhi và bệnh tim, loại vi chất này còn giúp tránh gãy xương do chứng loãng xương gây nên.

             Các loại vitamin B từ lâu đã nổi tiếng về khả năng kiểm soát lượng homocysteine – một loại amino axit mà ở nồng độ cao sẽ gây ra các bệnh tim mạch, đột quỵ và Alzheimer. Theo đó, “ cách tốt nhất để duy trì homocysteine trong phạm vi an toàn là bổ sung đầy đủ các loại vitamin B”, tiến sĩ Douglas P. Kiel – Giám đốc trung tâm phục hồi, Viện nghiên cứu tuổi già ở Boston nhận định.

             Kiel và cộng sự đã đánh giá lượng Homocysteine trong mẫu máu của 800 đàn ông và hơn 1000 phụ nữ tuổi từ 59 tới 91 được lưu giữ trong thời gian 1979 – 1982. Số người này được theo dõi  trong 12 – 15 năm về số lần gãy xương hông – hiện tượng hay gặp ở những người bị loãng xương do tuổi tác. Đây cũng là nguyên nhân hàng đẫu gây viêm nhiễm, biến chứng và cuối cùng là tử vong 20% số bệnh nhân trong vòng 1 năm. Kết quả cho thấy, trong nhóm người có hàm lượng homocysteine cao nhất, nam giới có nguy cơ bị gãy xương cao gấp 4 lần nhóm có lượng homocysteine, và tỉ lệ này ở phụ nữ là gấp đôi. Ngoài ra, quá nhiều homocysteine còn đe dọa thêm 9 lần bị gãy xương ở nam giới và 9.5 lần ở phụ nữ trong vòng 14 năm.

  Trong khi đó, một báo cáo của Trung tâm y tế Erasmus ở Hà Lan liên quan đến hơn 2000 người trên 55 tuổi cũng cho thấy, những người có lượng homocysteine cao nhất có nguy cơ  bị gãy xương do chứng loãng xương cao gấp 1.9 lần so với những người bình thường.

            Cơ chế mà homocysteine tác động đến độ bền chắc của xương vẫn còn là điều bí ẩn, song giả thuyết đưa ra là loại axit amino này đã phá vỡ những liên kết hóa học quan trọng trong xương.

              Để hạn chế tình trạng trên, theo Kiel, cần bắt đầu một lối sống lành mạnh ngày trước tuổi trung niên. Đồng thời nên bổ sung mỗi ngày một viên đa vitamin có chứa axit folic, vitamin B6 và B12 để khống chế homocysteine dưới mức nguy hiểm. Ngoài ra, cần ăn nhiều thực phẩm giàu vitamin B và canxi tự nhiên như các sản phẩm sữa, súp lơ xanh, cà rốt, dưa đỏ, mơ, quả hạnh, lạc và các loại rau xanh đậm….. Đặc biệt không thể thiếu một chế độ rèn luyện thân thể với các bài tập chịu sức nặng và đi bộ.

Dinh dưỡng điều trị bệnh loãng xương

            Hiện nay bệnh loãng xương ở người cao tuổi đang trở thành vấn đề quan trọng. Trong đó, vấn đề dinh dưỡng dự phòng cần được quan tâm đúng mức.

             Do đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được cải thiện, tỉ lệ người cao tuổi ngày càng tăng cao trong cộng đồng và vì thế, bệnh loãng xương gặp thường xuyên hơn, trầm trọng hơn và đôi khi trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội.

             Người ta nhận thấy,chất khoáng trong xương có hàm lượng cao ở tuổi trẻ, cao nhất ở tuổi 25, sau đó giảm dần ở nữ vào độ tuổi mãn kinh và ở nam giới khoảng 55 tuổi. Tỉ lệ khối lượng xương giảm hàng năm thay đổi từ 0.25 đến 2% tùy từng người. Việc mất xương âm thầm không có triệu chứng rõ ràng làm giảm sức chống đỡ của xương và hậu quả làm cho người cao tuổi hay bị gãy xương. Gãy xương thường gặp ở phía trên đùi, xương chậu, xương cánh tay…. Dù chỉ là sau những va chạm nhẹ. Người ta gọi đây là gãy xương không do chấn thương.

             Cơ chế sinh bệnh của bệnh loãng xương được coi là ở tế bào đơn nhân chứa cảm thụ collagen làm cho chũng dính vào xương. Tế bào đơn nhân này sản xuất ra chất interleukin 1 ( IL – 1) kích thích hoaatj động của tế bào làm tiêu xương. Đây là biến loạn làm mất chất xương và không làm thay đổi về thành phần hóa học của xương, làm đậm độ của tổ chức xương giảm đi, ảnh hưởng đến cả xương xốp và vỏ xương làm xương dễ gãy.

              Hậu quả của bệnh loãng xương ở người cao tuổi là rất lớn, nhất là ở phụ nữ. Đây là một trong hai nguy cơ hàng đầu về sức khỏe cho phụ nữ ở tuổi mãn kinh. Ví dụ ở Mỹ, hàng năm có khoảng 275000 phụ nữ cao tuổi gãy xương chậu, tử vong 5 – 20% sau 12 tháng bị gãy xương, 15 – 20% bị tàn tật suốt đời…. và chi phí điều trị tốn đến hàng chục tỉ đôla. Người ta đã xác định được các yếu tố ảnh hưởng đến độ đặc của xương gồm: chế độ dinh dưỡng thấp, nghèo canxi, thiếu hoạt động, uống rượu, hút thuốc lá, thiếu estrogen ở phụ nữ mãn kinh, thể chất mảnh khảnh….

              Việc điều trị bệnh loãng xương ở người cao tuổi rất khó khăn và tốn kém, vì thế người ta khuyến khích áp dụng chế độ phòng ngừa bằng việc đưa vào cơ thể một lượng canxi và vitamin D phù hợp trong các giai đoạn của cuộc sống thông qua chế độ dinh dưỡng.

1. Tăng thêm thức ăn giàu canxi: Việc bổ sung canxi vào thức ăn hoặc sử dụng nguồn thức ăn giàu canxi ( như sữa và cá chế phẩm từ sữa…) là rất cần thiết. Người cao tuổi cần lượng canxi hơn người trẻ vì độ hấp thụ cả họ kém hơn

2. Lượng protein trong khẩu phần ăn hàng ngày nên vừa phải vì ăn nhiều protein sẽ làm tăng bài xuất theo nước tiểu.

3. Ăn nhiều rau, trái cây và thức ăn chứa nhiều estrongen thực vật (như giá đỗ…), vì chúng có tác dụng làm thay đổi sự chuyển hóa của xương, làm giảm tốc độ mất xương và làm tăng khoáng chất trong xương

4. Tăng cường thời gian hoạt động (hoặc tắm nắng) để tăng tổng hợp vitamin D trong cơ thể

5. Hoạt động thể lực vừa phải, không nghiện rượu và duy trì cân nặng hợp lý vì gầy cũng là một yếu tố nguy cơ của bệnh loãng xương.

   Đặc biệt ở phụ nữ giai đoạn mãn kinh có thể dùng estrogen (theo chỉ dẫn của bác sĩ) để phòng loãng xương hoặc dùng canxitone thay thế, vì lúc nó ức chế hoạt động của tế bào tiêu xương và ngăn cản chất xương bị hấp thụ

Món ăn – Bài thuốc điều trị loãng xương

   Trong đông y, loãng xương thuộc phạm vi chứng “cốt nuy” có liên quan tới 3 tạng trong đó, tạng thận có vai trò đặc biệt quan trọng. Về trị liệu, ngoài việc dùng thuốc, châm cứu, tập khí công dưỡng sinh, người xưa còn sử dụng nhiều món ăn – bài thuốc độc đáo

1. Thể bệnh thận âm hư tổn: lưng đau gối mỏi, hay buồn nhức các đầu ngón tay và chân, lòng bàn tay và bàn chân nóng, trong ngực chộn rồn không yên, môi khô miệng khát, thích ăn đồ mát, đại tiện táo, tiểu tiện sẻn đỏ, chất lưỡi đỏ

            Bài thuốc:

              * Đậu đen 500g, sơn thì, bạch quy, đương quy, tang thầm, thục địa, bổ cốt chi, thỏ ty tử, hạn liên thảo, ngũ vị tử, kỷ tử, địa cốt bì, vừng đen, muối ăn mỗi thứ 10g.

   Cách làm: Đậu đen rửa sạch, ngâm vào nước trong 30 phút, các vị thuốc khác đem sắc kỹ 4 lần, mỗi lần chừng 30 phút. Trộn 4 loại nước lại với nhau với nhau, cho đậu đen và muối vào sắc kỹ bằng lửa nhỏ cho đến khi cạn kiệt. Lấy đậu đen ra phơi hoặc sấy thật khô, đựng vào lọ kín dùng dần, mỗi ngày ăn 20-30g.

             Công dụng: bổ thận dưỡng can, cường gân tráng cốt.

   *Tang thầm tương (quả dâu chín) 2500g, thục địa, hoài sơn, hoàng tinh mỗi thứ 50g, thiên hoa phấn 100g

   Cách làm: tang thầm rửa sạch, ép lấy nước cốt, các vị thuốc khác đem sắc kỹ lấy 500ml dịch chiết rồi hòa với nước dâu, tiếp tục cô nhỏ lửa cho đến khi thành cao đặc. Đựng thuốc trong bình thủy tinh kín miệng để dùng dần, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 2 thìa canh

              Công dụng: bổ can thận, dưỡng khí huyết, làm mạnh gân cốt

2. Thể bệnh can thận âm hư: Thể trạng gầy yếu, hay hoa mắt chóng mặt, thị lực giảm sút, tai ù điếc, lưng đau gối mỏi, móng tay và móng chân khô giòn, dễ bị chuột rút, tâm trạng phiền muộn, trong lòng hay bức bối không yên, lòng bàn tay và bàn chân nóng, có thể có gãy xương, miệng khô họng khát, lưỡi đỏ, đại tiện táo, tiểu tiện sẻn đỏ

             Bài thuốc

* Tang thầm 30g, kỷ tử 30g, gạo tẻ 80g. Các vị thuốc rửa sạch đem nấu với gạo thành cháo, chế thêm một chút đường phèn, chia ăn vài lần trong ngày

   Công dụng : bổ tỳ thận, làm mạnh gân cốt

* Quy bản 100g, vỏ trứng gà 100g, đường trắng 50g.

   Cách làm: quy bản và vỏ trứng rửa sạch, để ráo nước rồi sao giòn và nghiền thành bột, cho thêm đường trắng, trộn đều, ăn mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 5g.

            Công dụng: bổ thận, kiện tỳ, làm mạnh gân xương

3. Thể tỳ thận dương hư: toàn trạng mệt mỏi, sợ lạnh, chân tay lạnh, lưng đau gối mỏi, ăn kém, chậm tiêu bụng chướng, đại tiểu tiện lỏng hoặc nát, có thể có phù nhẹ hai chân, nam giới liệt dương, di tinh, nữ giới kinh nguyệt không đều, miệng nhạt, chất lưỡi nhợt

   Bài thuốc:

* Chim sẻ 5 con, kỷ tử 20g, đại táo 15g, gạo tẻ 60g

   Cách làm: Chim sẻ làm thịt, bỏ lông, bỏ chân và phủ tạng rồi đem hầm với kỷ tử và gạo tẻ thành cháo, chế thêm gia vị, chia ăn vài lần trong ngày

            Công dụng: Bổ thận, ôn dương, ích tinh, làm mạnh gân cốt

*Cá ngựa (hỉa mã) 50g, dương vật và tinh hoàn bò 500g, đan sâm 500g, hoàng kỳ, a giao, hạch đào nhân, đường phèn mỗi thứ 250g

              Cách làm: Tinh hoàn và dương vật bò rửa sạch, thái miếng; cá ngựa sao khô tán thành bột mịn; a giao tẩm rượu sao phồng; hoàng kỳ và đan sâm sắc kỹ lấy nước cốt. Cho tất cả vào cô nhỏ lửa thành cao đặc, đựng vào lọ thủy tinh kín miệng để dùng dần, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 2tiaf canh

   Công dụng: bổ thận, tráng dương, ích tinh, cường gân tráng cốt

*Xương sống chó 200g, đẳng sâm, thỏ ty tử, thực địa mỗi thứ 10g, gia vị vừa đủ

   Cách làm: xương sống chó rửa sạch, chặt nhỏ; các vị thuốc cho vào túi vải buộc kín miệng; tất cả cho vào nồi hầm nhừ, chế đủ gia vị, dùng làm canh ăn hàng ngày

   Công dụng: bổ thận ôn dương, ích khí dưỡng huyết, cường gân tráng cốt

* Tôm nõn 50g, trứng gà 1 quả, rau hẹ 200g, dầu thực vật và gia vị vừa đủ

   Cách làm: Tôm rửa sạch, rau hẹ cắt đoạn, phi thơm hành mỡ rồi cho rau hẹ và tôm vào xào to lửa, khi gần chín đập trứng vào đảo để một lát là được, dùng làm thức ăn hàng ngày

   Công dụng: bổ thận, ôn dương và làm mạnh gân cốt

Chương III: Phòng chống loãng xương

Phần I: Chế độ dinh dưỡng phòng chống loãng xương

Ăn ít thịt, nhiều rau quả để phòng loãng xương

              Việc ăn quá nhiều thịt sẽ làm thất thoát canxi, dẫn đến bệnh loãng xương. Khi vào cơ thể, các protein của thịt gây axit hóa máu. Để trung hòa, xương phóng thích các ion canxi và maghe (có tính kiềm), khiến xương trở nên giòn và dễ gẫy. Lượng thịt tiêu thụ càng nhiều, lượng canxi mất càng lớn

              Khuyến cáo của các nhà dinh dưỡng, để phòng loãng xương, chỉ nên ăn ngày 1g thịt cho 1kg thể trọng. Chẳng hạn, những người nặng 60kg chỉ nên ăn 60g thịt/ngày

              Một cách khác hạn chế tình trạng máu bị axit hóa là chế độ ăn giàu chất kiềm, cụ thể là các loại rau quả. Rau quả chứa nhiều muối hữu cơ của kali (citrat hay malat kali). Khi vào cơ thể, chúng chuyển hóa thành bicarbonat, có tác dụng kiềm hóa máu. Nhờ đó, xương không phải huy động nhiều canxi nữa.

             Ngoài ra, rau quả cũng giúp hạn chế tác hại của muối ăn và các thực phẩm giàu natri khác đối với xương. Chất natri khi phối hợp với protein sẽ làm gia tăng sự bài tiết canxi qua nước tiểu, ảnh hưởng xấu đến xương. Nó cũng gây axit hóa máu và thúc đẩy sự mất các chất khoáng. Các công trình nghiên cứu cho thấy, muối hữu cơ của kali (có nhiều trong rau quả) có khả năng chống lại tình trạng này.

Đậu nành giảm nguy cơ loãng xương

            Các sản phẩm đậu tương có tác dụng ngăn ngừa bệnh loãng xương ở phụ nữ mãn kinh, khi mà sự thay đổi hooc môn làm mỏng xương nhanh chóng và tăng nguy cơ gẫy.

             Tốc độ mất xương xảy ra đặc biệt nhanh trong 5 tới 7 năm đầu giai đoạn mãn kinh. Nguyên nhân là di lượng hooc môn osetrogen giảm mạnh, có thể gây mất tới 5% khối lượng xương mỗi năm. Trong khi đó, liệu pháp hooc môn thay thế lại tiềm ẩn nhiều nguy cơ cho sức khỏe như chứng đột quỵ. Do đó, protein đậu tương được xem là giải pháp thay thế hiệu quả.

             Trong nghiên cứu mới nhất trên khoảng  24000 phụ nữ trong vòng 3 năm, những phụ nữ mãn kinh hấp thu nhiều protein đậu nành nhất có nguy cơ gãy xương thấp hơn 37% so với nhóm ăn ít nhất

   Các thực phẩm từ đậu tương làm giảm đáng kể nguy cơ gãy xương, đặc biệt ở phụ nữ trong những năm đầu sau mãn kinh

             Số phụ nữ tham gia nghiên cứu được chia thành 5 nhóm theo các mức tiêu thụ đậu nành, trong đó mức cao nhất là 13g mỗi ngày và thấp nhất là sữa 5g, trung bình là 8,5g. Các sản phẩm đậu nành được ưa chuộng là sữa đậu nành, đậu phụ, giá làm từ đậu tương và đậu tương tươi

              Một số nghiên cứu trước đây đã công nhận protein đậu tương có ảnh hưởng tích cực đối với các triệu chững mãn kinh, đặc biệt làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch và các dạng ung thư liên quan đến hooc môn. Tuy nhiên, cũng giống như hooc môn oestrogen, nó có thể kích thích sự tăng trưởng một số tế bào gây ung thư vú

Phần II: Chế độ sinh hoạt và tập luyện phòng chống loãng xương

Các biện pháp phòng ngừa bệnh loãng xương

             Nên hạn chế các đồ uống chứa caffein và hành củ vì những thực phẩm này làm tăng quá trình bài tiết canxi của cơ thể. Ngoài ra, nên tránh lạm dụng đồ uống có cồn như bia, rượu vì chất cồn sẽ ảnh hưởng không tốt tới khả năng hấp thu cãn của ruột

              Loãng xương là một căn bệnh thường gặp và khá nguy hiểm, nhưng vẫn có thể ngăn ngừa. Sau đây là một số phương pháp giúp bạn có bộ xương khỏe mạnh:

1. Bổ sung canxi qua thực phẩm

Các phụ nữ và nam giới ở tuổi trung niên đều cần trung bình 1000mg canxi mỗi ngày. Nhu cầu này tăng lên thành 1500mg đối với phụ nữ thời kỳ mãn kinh và nam giới độ tuổi sau 75. Trên thực tế, phần lớn mọi người đều không được cung cấp đủ lượng canxi cần thiết mỗi ngày. Vì vậy, việc tăng cường bổ sung các thực phẩm giàu canxi là rất cần thiết. Tại mỗi thời điểm, cơ thể chỉ hấp thụ một lượng canxi nhất định, vì vậy nên chia nhỏ thực phẩm giàu chất này thành nhiều lần trong ngày. Ngoài ra, cần bổ sung vitamin D, để giúp canxi được hấp thụ tốt hơn.

Các thực phẩm giàu canxi

-Sữa và các sản phẩm của sữa như sữa chua, phomat…

-Cá, nhất là cá mòi, cá thu (nên dùng cả xương)

-Các loại rau củ hạt: súp lơ xanh, cải xoăn, củ cải đường, rau xanh đậm, hạt đậu nành.

            2. Tập thể dục đều đặn

             Việc tập thể dục đều đặn 30 phút mỗi ngày giúp tăng cường sự cân bằng và duy trì độ dẻo dai của hệ thống xương, giảm nguy cơ loãng xương ở người lớn tuổi

            3. Khám định kỳ

   Nên đến viện kiểm tra mật độ xương định kỳ. Đây là cách duy nhất giúp bạn phát hiện sớm bệnh loãng xương. Cũng nên để ý tới chiều cao của minh. Sự giảm chiều cao vài phân là dấu hiệu đầu tiên của chứng mòn đốt sống và loãng xương

            4. Bỏ hút thuốc lá

             Theo thống kê của các tổ chức y tế, trong số những phụ nữ mắc bệnh loãng xương trên toàn tế giới, thì 1/8 có tiền sử hút thuốc một thời gian dài. Ở nam giới, việc hút thuốc thường xuyên cũng làm tăng 10 lần nguy cơ loãng xương và tăng 2 lần nguy cơ gãy xương cột sống và xương hông. Hút thuốc còn khiến vết gãy ở xương khó hồi phục

            5. Chữa ngay chứng trầm cảm

             Ở những phụ nữ mắc chứng trầm cảm, nguy cơ giảm mật độ xương vùng cột sống và hông cao hơn hẳn so với những người có cuộc sống tươi vui, hạnh phúc. Nguyên nhân là do khi bị trầm cảm, cơ thể sẽ sản xuất nhiều cortisol, một hooc môn liên quan đến stress. Chất này làm giảm lượng chất khoáng trong cơ thể

10 Lời khuyên giúp xương rắn chắc

             Để có hệ xương vững chắc và ngăn ngừa bệnh loãng xương, hằng ngày bạn nên ăn nhiều hoa quả. Khi được hấp thu, các dưỡng chất trong trái cây giúp phục hồi tính kiềm trong cơ thể, giúp xương giữ được canxi

            Sau đây là các hoạt động khác có lợi cho xương:

1. Ăn nhiều rau xanh: Vitamin K có nhiều trong rau xanh đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình thành xương, khiến xương đậm đặc hơn. Những loại rau giàu vitamin K bao gồm súp lơ xanh, bắp cải, cải Brussel, cải xoắn…

2. Dùng nhiều thực phẩm giàu canxi: các nghiên cứu gần đây cho thấy, canxi rất quan trọng đối với sự phát triển của xương. Các thực phẩm giàu canxi là sữa, bơ, phomat, trứng, hải sản…

3. Ra ngoài trời nhiều hơn: Vitamin D có vai trò quan trọng trong việc hấp thu canxi. Hầu hết nhu cầu vitamin D của cơ thể được đáp ưng nhờ ánh sáng mặt trời chiếu vào da. Vì vậy, bạn nên ra ngoài nhiều hơn vào buổi sáng sớm. Ngoài ra, có thể bổ sung chất này từ các thực phẩm như cá trích hun khói, cá mòi, cá hồi…

4. Dùng đồ ăn có nhiều magie: Chất này đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành xương, giúp xương đậm đặc hơn. Magie có nhiều trong rau lá xanh, quả hạnh, các loại hạt và đậu

5. Dùng các thực phẩm từ đậu nành: Rất nhiều phụ nữ bị loãng xương khi mãn kinh, lý do chính là thiếu hooc môn oestrogen. Các thực phẩm từ đậu nành giúp bổ sung isoflavone, một hợp chất tương tự oestrogen, có tác dụng chỗng loãng xương cà các triệu chứng mãn kinh khác

6. Uống trà: Việc dùng trà thường xuyên giúp giảm nguy cơ loãng xương và rạn nứt xương; nguyên do là trà có nhiều hợp chất tạo xương flanovol

7. Giảm muối: một số nghiên cứu cho thấy, việc ăn quá nhiều muối sẽ làm yếu xương

8. Tập thể dục: Các bài tập đi bộ nhanh, chạy chậm và thể dục thẩm mỹ giúp duy trì sự rắn chắc của xương, chống loãng xương. Nên tập 30 phút/ngày

9. Dùng thuốc bổ sung tạo xương: đó là các thuốc dưỡng xương chứa magie, vitamin K, vitamin D và một số dưỡng chất khác có lợi cho xương (như kẽm, borom…)

Quan hệ giữa vận động khi còn niên thiếu và bệnh loãng xương

            Các bé gái thường xuyên vận động chạy nhảy sẽ bị loãng xương muộn hơn so với trẻ bình thường khi trưởng thành, do đó bộ xương cứng cáp hơn

             Nghiên cứu do các nhà khoa học thuộc bệnh viện nhi và đại học Columbia (Anh) tiến hành cho thấy trong số 80 bé gái, 34 em được theo một chế độ tập luyện đặc biệt, đều đặn trong các tiết giáo dục thể chất. Những vận động chủ yếu là nhảy cao tại chỗ, nhảy bật sàn, nhảy xa, nhảy sang 2 bên, kết hợp chạy. Cường độ của vận động tăng dần, 46 em còn lại không tham gia loại hình tập luyện nào

             Kết quả cho thấy, những em hoạt động theo chế độ trên 3 lần/tuần trong suốt thời gian đi học có khả năng hấp  thụ khoáng chất bổ sung cho xương tốt hơn 5% so với trẻ không tập luyện

             Theo đánh giá của giới chuyên môn, chế độ vận động mà nghiên cứu đưa ra là an toàn, hiệu quả và tương đối đơn giản. Nó có thể được đưa vào các thiết giáo dục thể chất ở cấp tiểu học, nhằm tăng cường sự tích lũy khoáng chất trong xương cho trẻ

             Loãng xương là hiện tượng mất xương, khiến xương trở nên giòn và dễ gãy. Bệnh thường đi kèm với tuổi già hay gặp ở phụ nữ mãn kinh do khả năng sảnh sinh hooc môn sinh dục nứ oestrogen kích tích quan trọng cho sự phát triển của bộ xương. Thai nhi hay đạp, hoặc chuyển động trong bào thai cũng giúp cho bộ xương có sự phát triểu khởi đầu tốt hơn

Giúp phụ nữ trẻ phòng bệnh loãng xương

   Những thói quen bảo vệ sức khỏe, đặc biệt ở tuổi niên thiếu, có ảnh hưởng đến xương suốt đời. Riêng đối với phụ nữ, khoảng 40% khối xương phát triển từ tuổi 14 – 17. Khối xương vẫn tiếp tục phát triển, nhưng ở mức thấp hơn so với cho đến tuổi 30 thì giảm dần. Do đó, hình thành những thói quen giúp xây dựng và củng cố xương ngay từ thời thiếu nữ là rất quan trọng để chống căn bệnh loãng xương về sau.

              Những chuyên gia sức khỏe đưa ra 8 lời khuyên để ngừa bệnh loãng xương

1. Chú ý đến chu kỳ kinh: Nếu bạn lỡ chu kỳ 3 tháng liên tiếp, phải đi khám bác sĩ ngay. Điều đó thường là do hàm lượng oestrogen (hooc môn bảo vệ xương) thấp. Thuốc tránh thai có thể giúp điều hòa hàm lượng hooc môn và chu kỳ kinh.

2. Hấp thụ canxi: bạn cần ít nhất 1200mg khoáng chất này mỗi ngày, nhưng các chuyên gia cho rằng nhiều phụ nữ chưa hấp thụ được đủ một nửa lượng canxi đó. Một số nguồn canxi gồm sữa chua ít béo (448mg mỗi cốc), sữa không kem 9352mg mỗi cốc) và nước cam pha canxi (350mg mỗi cốc). Nếu bạn thấy mình không hấp thụ đủ canxi, nên uống một viên bổ canxi, tốt nhất là chọn loại có thêm vitamin D, giúp tối đa hóa hấp thụ khoáng chất này. Thuốc bổ canxi có hai dạng: Muối canxi (vancium citrate) và cacbonate canxi (calcium carbonate), cả hai dạng cơ thể đều hấp thụ tốt. Carbonate canxi hấp thụ tốt khi hàm lượng acid dạ dày cao, vì vậy nên uống trong bữa ăn là lúc mà acid dạ dày ở mức cao nhất. Nên chia canxi làm hai lần uống mỗi ngày để tăng cường khả năng hấp thụ

3. Cắt giảm  caffeine: chất này có thể can thiệp vào háp thụ canxi. Hạn chế trong khoanrg 3 cốc cà phế, trà hay nước soda mỗi ngày. Với một cốc sođa chứa caffein, cơ thể sẽ mất đi khoảng 4mg canxi. Để bổ sung lượng canxi mất đi này, nên cho vào cà phê một chút sữa không kem hoặc uống thêm chút nước hoa quả sau khi uống trà hoặc soda.

4. Hạn chế muối: giống caffeine, thừa muối cũng làm mất canxi (lượng muối tối đa hằng ngày là 24000mg). Cơ thể thải muối qua thận và mang theo cả canxi. Đọc kỹ nhãn hàng để ước tính lượng canxi. Đọc kỹ nhãn hàng hóa để ước tính lượng canxi. Ví dụ, một gói mì tôm chứa 800mg muối, bằng 1/3 yêu cầu hàng ngày

5. Thực hiện bài tập xây dựng và củng cố xương: nhảy thẳng người, như nhảy dây, là môn thể dục có tác động lớn nhất với việc củng cố và xây dựng xương. Các nghiên cứu cho thấy phụ nữ nhảy dây khoảng 300 lần mỗi tuần tăng được khối xương hông khoảng 2,8%

             Những môn thể dục khác giúp xây dựng và củ cố xương gồm tạ đẩy và những hoạt động tác động đến xương cao như chạy bô và thể dục aerobic

6. Bổ sung hàm lượng protein hợp lý: Chế độ ăn uống quá nhiều hoặc ăn ít protein so với nhu cầu có liên quan đến sự giảm hàm lượng xương. Bạn cần khoảng 50g protein mỗi ngày. Bạn có thể hấp thụ đủ lượng protein đó bằng 1 lạng cá biển, 2 cốc sữa chua ít béo và 1 quả trứng. Những nguồn thực phẩm giàu protein khác gồm thịt nạc, thịt gà đã lọc da, đậu phụ và sữa chua không kem.

7. Hạn chế vitamin A: theo nghiên cứu gần đây của đại học Boston (Anh), những phụ nữ hấp thụ hàm lượng viramin A cao ở dạng retinol (2000 mcg hoặc 6600 IU) có nguy cơ gãy xương hông do mất xương cao nhất. Đọc kỹ nhãn thực phẩm và thuốc chứa vitamin A để tránh hấp thụ quá nhiều vitamin A để tránh hấp thụ quá nhiều vitamin này. Bạn nên chọn viên vitamin tổng hợp mà ít nhất 20% hàm lượng vitamin A là từ beta-carotene, không gây hại đến xương như retino;. Ngoài ra, bạn nên chọn loại vitamin tổng hợp chứa 2500 IU viramin A, không nên uống loại chứa 500 IU vitamin này

8. Nên ăn 5 bữa rau quả mỗi ngày: Một nghiên cứu gần đây cho thấy phụ nữ ăn 5 bữa rau quả mỗi ngày có độ dày xương cao hơn phụ nữ không ăn rau hoặc ít hơn. Rau quả là nguồn cung cấp magie và kali, hai dưỡng chất chủ yếu ngoài canxi và vitamin D trong việc bảo vệ xương.

Phụ nữ có tuổi cần thường xuyên kiểm tra mật độ xương

   Từ 65 tuổi trở lên, tất cả phụ nữ cần được thăm khám một cách đều đặn để phát hiện kịp thời bệnh loãng xương, giúp  ngăn ngừa hiện tượng gãy xương.

              Báo cáo trước đó của hội đồng này (đưa ra năm 1996) cho biết, chưa có đủ bằng chứng về sự cần thiết phải tiến hành đo mật độ xương thường xuyên để phòng ngừa loãng xương

   Các yếu tố làm tăng nguy cơ loãng xương ở phụ nữ bao gồm:

-Tuổi già

-Ít vận động

-Tiền sử loãng xương trong gia đình

-Dùng thuốc oestrogen

            Những phụ nữ trong nhóm nguy cở cần bắt đầu thử nghiệm sớm hơn, khi tới 60 tuổi, vì nhiều người trong số họ chỉ biết mình có bệnh lúc đã gãy xương

            Tại Mỹ, khoảng 10 triệu người (trong đó 80% là phụ nữ) bị loãng xương – nguyên nhân gây ra 1.5 triệu ca gãy xương mỗi năm. Chi phí để đo mật độ xương đùi bằng tia X nồng độ thấp là 125 – 200USD

Các môn thể dục có lợi cho xương

            Để phòng ngừa chứng loãng xương, tốt nhất là nên chon những môn cần sự gắng sức lớn trong một thời gian ngắn (tennis, chạy nước rút, đấu kiếm). Các môn duy trì sự vận động trong một thời gian nhưng đòi hỏi sự gắng sức thấp hơn (đi bộ, bơi lội, đi xe đạp) không giúp tăng trọng lượng xương, những môn này chỉ có tợi cho cơ bắp và tim mạch

             Đối với những môn thể thao nặng như chạy marathon, bạn nên cân nhắc xem mình có thích hợp hay không. Các nhà khoa học cảnh báo rằng, những môn thể thao đòi hỏi sức chịu đựng lớn thường gây rắc rối nhiều hơn là giúp phòng ngừa bệnh tật.

(St)

Hỏi đáp, bình luận, trả bài:
*địa chỉ email của bạn được bảo mật

Hot nhất
Top xink
Bộ sưu tập
Chợ xink
Thanh lý