Trẻ sau 24 tháng chưa nói được từ nào có thể bị xem là trẻ chậm biết nói. Có những biểu hiện sớm ở trẻ cho thấy trẻ sẽ biết nói chậm, mời các bậc cha mẹ tham khảo và có hướng tập nói cho trẻ đúng phương pháp. Chúng ta cùng tham khảo phương pháp dạy con chậm nói nhé!
Những nguyên nhân khiến trẻ chậm biết nói và cách xử trí của cha mẹ
Bạn cần chú ý nếu trẻ từ 12 đến 24 tháng có những dấu hiệu sau: Không làm được nhiều cử chỉ khi 12 tháng tuổi, không bắt chước được âm thanh khi 18 tháng tuổi…
Con trai bạn 2 tuổi và vẫn chưa biết nói. Bé bập bẹ vài từ, nhưng so với các bé khác cùng tuổi, bạn nghĩ rằng bé vẫn chậm hơn. Bạn nhớ là chị bé đã có thể phát âm cả câu dài ở cùng tuổi đó. Với hy vọng bé sẽ sớm theo kịp, bạn chưa vội tìm lời khuyên của chuyên gia ngay. Một số trẻ biết đi sớm hơn và số khác nói sớm hơn, bạn tự nhủ. Không có gì phải lo lắng…
Kịch bản này khá quen thuộc trong nhóm các ông bố bà mẹ có con chậm nói. Trừ khi họ quan sát thấy những biểu hiện chậm khác trong quá trình phát triển, họ thường trì hoãn việc tìm lời khuyên của các chuyên gia. Một vài người có thể tự trấn an rằng “nó sẽ lớn thôi” hoặc “thằng bé chỉ thích các hoạt động thể chất”.
Biết được điều gì là “bình thường” và điều gì là không bình thường trong tiến trình phát triển từ vựng và ngôn ngữ có thể giúp bạn biết đã đáng lo hay bé vẫn phát triển bình thường.
Những biểu hiện phát triển bình thường:
Trước 12 tháng tuổi
Ở giai đoạn này, điều quan trọng là phải xem những dấu hiệu cho thấy trẻ sử dụng giọng của chúng có liên quan đến môi trường xung quanh. Những tiếng thì thầm hoặc bập bẹ là giai đoạn sơ khai của phát triển vốn từ. Khi bé lớn hơn chút nữa (thường khoảng 9 tháng), chúng bắt đầu nối các âm thanh với nhau, và nói thành từ như “mẹ” và “bà” (dù không thực sự hiểu nghĩa từ). Trước 12 tháng, bé sẽ chăm chú vào các âm thanh. Những bé nhìn chăm chú nhưng không phản ứng với âm thanh có thể có dấu hiệu của việc không nghe được.
Từ 12 đến 15 tháng
Trẻ ở tuổi này đã phát được khá nhiều âm và ít nhất nói được một hoặc hai từ đúng (không bao gồm “mẹ” và “bà). Các danh từ thường được nói trước, như “bé” và “bóng”. Con bạn cũng đã có thể hiểu và tuân theo những chỉ dẫn (câu lệnh) đơn lẻ, chẳng hạn “đưa cho mẹ quả bóng”.
Từ 18 đến 24 tháng
Trẻ phải có vốn từ khoảng 20 từ vào lúc 18 tháng tuổi và 50 hoặc hơn vào thời điểm lên 2. Ở 2 tuổi, trẻ đã học được cách kết nối 2 từ, ví dụ “bé khóc” hoặc “bố béo”. Trẻ 2 tuổi cũng có thể thực hiện được các chỉ dẫn hai bước, ví dụ “nhặt quả bóng lên và đưa cho bố cái cốc”.
Từ 2 đến 3 tuổi
Cha mẹ thường chứng kiến sự “bùng nổ” trong ngôn ngữ của trẻ trong giai đoạn này. Vốn từ của trẻ sẽ tăng lên (tới mức không thể đếm được) và bé sẽ kết hợp ba hoặc nhiều từ hơn trong một câu.
Khả năng hiểu cũng tăng lên – vào năm 3 tuổi, bé sẽ bắt đầu hiểu “đặt nó lên bàn” hoặc “đặt nó dưới gầm giường” nghĩa là gì. Con bạn cũng sẽ bắt đầu phân biệt được màu sắc và hiểu các khái niệm mô tả (như to lớn, nhỏ).
Sự khác biệt giữa nói và ngôn ngữ
Khả năng nói và ngôn ngữ thường được đánh đồng, nhưng thực ra có sự khác biệt giữa hai điều này:
- Nói là sự bộc lộ ngôn ngữ thành lời, bao gồm việc phát âm rõ ràng.
- Ngôn ngữ là khái niệm rộng hơn và để chỉ toàn bộ hệ thống bày tỏ và tiếp nhận thông tin theo một cách có nghĩa. Đó là sự hiểu và được hiểu thông qua giao tiếp – bằng lời, bằng cử chỉ và bằng chữ viết.
Một đứa trẻ gặp trục trặc về ngôn ngữ có thể phát âm từ khá tốt, nhưng lại không thể ghép 2 hoặc hơn 2 từ với nhau. Một em bé khác nói khó hiểu, nhưng bé lại có thể sử dụng các từ và cụm từ để bày tỏ ý kiến của mình. Và một bé khác nữa có thể phát âm tốt nhưng lại khó khăn trong việc hiểu các câu lệnh (chỉ dẫn).
Những dấu hiệu cảnh báo trẻ có vấn đề
Bé sơ sinh không đáp ứng với âm thanh hoặc không phát ra âm thanh nào thì đặc biệt cần chú ý. Từ 12 đến 24 tháng, những trẻ có dấu hiệu sau cần chú ý:
- Không sử dụng điệu bộ, cử chí, chẳng hạn chỉ hoặc vẫy tay bye-bye khi được 12 tháng tuổi
- Thích dùng cử chỉ hơn là lời nói để giao tiếp khi đến 18 tháng tuổi
- Không bắt chước được âm thanh khi 18 tháng tuổi
- Có khó khăn trong việc hiểu các yêu cầu đơn giản
Bạn nên đưa bé đi khám nếu trẻ trên 2 tuổi:
- Chỉ có thể bắt chước âm thanh hoặc hành động và không tự mình phát âm từ hoặc các cụm từ
- Chỉ nói một số âm thanh hoặc từ nào đó lặp đi lặp lại và không thể sử dụng ngôn ngữ nói để trò chuyện ngoài những nhu cầu thiết yếu
- Không thể tuân theo các chỉ dẫn đơn giản
- Có giọng nói khác thường (nghe như giọng mũi hoặc the thé)
- Khó khăn trong việc hiểu ở tuổi này. Cha mẹ phải hiểu được khoảng một nửa số từ trẻ nói ra khi 2 tuổi và khoảng 3/4 vào lúc 3 tuổi. Vào năm trẻ lên 4, thậm chí người lạ cũng phải hiểu được trẻ nói gì.
Những nguyên nhân khiến trẻ chậm nói
Nhiều nguyên nhân có thể khiến trẻ chậm phát triển khả năng nói và ngôn ngữ. Đôi khi chỉ là do trục trặc trong vòm miệng, như với lưỡi hoặc hàm ếch. Dây hãm ngắn cũng có thể hạn chế cử động của lưỡi khiến trẻ khó nói…
Trục trặc trong khả năng nghe cũng thường có liên quan đến việc chậm nói, đó là lý do ví sao trẻ nên được bác sĩ tai mũi họng kiểm tra khi có vấn đề về nói. Trẻ khó nghe cũng sẽ gặp khó khăn trong việc hiểu, bắt chước và sử dụng ngôn ngữ.
Cha mẹ có thể làm gì
Giống như nhiều việc khác, phát triển khả năng nói là tổng hợp của khả năng bẩm sinh và nuôi dạy. Gene có thể tham gia vào việc trẻ nói sớm hay muộn. Tuy nhiên, nó phụ thuộc rất nhiều vào việc nuôi dạy. Trẻ có được kích thích nói đúng mức ở nhà hay ở nhà trẻ không? Trẻ có cơ hội trò chuyện không?
Và đây là vài điểm chung các bậc cha mẹ có thể áp dụng tại nhà:
- Dành thật nhiều thời gian trò chuyện với con, thậm chí từ lúc ẵm ngửa – nói hát và bắt chước các âm thanh và cử chỉ.
- Đọc cho trẻ nghe, bắt đầu từ lúc 6 tháng, những cuốn sách mà trẻ có thể bắt chước cử động, hoặc có các hình hoa văn để trẻ có thể chạm vào. Cho trẻ chỉ các bức tranh và cố gắng gọi tên chúng.
- Tận dụng mọi tình huống hàng ngày để khuyến khích trẻ nói và bộc lộ ngôn ngữ. Mặt khác, bạn cũng nói liên tục nếu có thể. Chẳng hạn, gọi tên thức ăn khi ở trong quầy hàng, giải thích bạn đang làm gì khi bạn đang nấu hoặc lau nhà, chỉ các vật ở quanh nhà, và khi đưa bé lên xe, chỉ các âm thanh mà bạn nghe thấy. Đặt câu hỏi và lắng nghe bé trả lời.
Dù con bạn ở tuổi nào đi nữa, nhận ra và xử lý vấn đề càng sớm càng tốt.
Trẻ chậm biết nói vì cha mẹ quên dạy
Gần 5 tuổi nhưng bé Thảo (Thanh Xuân, Hà Nội) vẫn không nói được từ nào, dù trước đó, hồi 2 tuổi bé đã gọi được từ “mưa”. Gia đình phải đọc cử chỉ, ánh mắt để hiểu con muốn gì.
Chị Hải, mẹ Thảo cho biết hai vợ chồng chị mải đi làm cả ngày, nên việc chăm con giao hoàn toàn cho ông bà. Cháu đầu lòng nên ông bà chăm chút tỷ mỷ, từng ly từng tý. Muốn ăn, uống gì bé chỉ cần chỉ tay, hoặc dùng ánh mắt là ông bà đã vội vàng đi lấy.
Một tuổi thấy con không nói, thi thoảng chỉ i a, gia đình nghĩ cháu chỉ chậm biết nói. Nhưng hơn 4 tuổi, cháu vẫn không tíu tít nói như bao đứa trẻ bình thường khác. Thi thoảng nghe mọi người xì xào nào cháu chậm phát triển trí tuệ, thậm chí tự kỷ, chị thấy tủi thân. Nhưng chị không nghĩ con mình như thế, vì ngoài chậm nói, cháu vẫn chơi, vẫn hiểu ý mỗi khi chị nói, rất thích được đi chơi.
“Đến khi đưa con đi khám tâm lý, tôi vui mừng biết bao khi bác sĩ bảo cháu chỉ bị chậm nói. Nhưng điều làm tôi day dứt hơn cả là cháu bị như ngày hôm nay là tại gia đình không chịu trò chuyện nhiều với con”, chị Hải tâm sự.
Tuy nhiên theo nhà tâm lý Đặng Thị Thanh Tùng, Phòng khám Tuna (Hà Nội), bé Thảo không phải chậm phát triển trí tuệ mà chỉ đơn thuần là rối loạn ngôn ngữ, bị chậm nói vì gia đình quá bao bọc. Cháu ít khi được cho đi chơi nên không có cơ hội chơi với các bạn cùng trang lứa, cũng không đi nhà trẻ vì cứ đi là khóc, bỏ ăn.
“Bình thường trẻ sẽ học cách nói để thể hiện nhu cầu của mình, chẳng hạn khi muốn uống nước bé sẽ tập nói từ “nước”. Nhưng ông bà chăm chút cháu kỹ quá, chưa cần trẻ nói đã vội vàng lấy nước cho uống. Việc làm này tạo cho trẻ tâm lý được phục vụ mà không cần giao tiếp, trẻ không cần nói mà vẫn được đáp ứng. Trẻ không có nhu cầu nói, không cần nói nên chậm phát triển về ngôn ngữ”, chị Tùng cho biết.
Hiện tượng này gặp nhiều ở trẻ từ 18 tháng đến 3-4 tuổi, trẻ nói được mấy từ nhưng không phát triển thêm. Rối loạn ngôn ngữ nghĩa là bé nói âm đầu thì bớt âm cuối, nói được câu đầu mất câu sau, nói không hoàn chỉnh câu, đi học lớp một nhưng bé chưa kể được một câu chuyện theo lôgic. Bé cũng có thể nói ngọng, nuốt lời, nuốt âm, “chẳng” thành “chẳn”, hoặc không biết cách sắp xếp ngôn ngữ “bà ăn cơm” thành “cơm ăn bà, ăn cơm bà”…
Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến trẻ chậm nói, trong đó chủ yếu là do môi trường gia đình, cách dạy dỗ của cha mẹ. Gia đình làm thay trẻ quá nhiều cũng không tốt, nhưng nếu có dạy con, song hờ hững, không nói chuyện trực tiếp với con cũng không tốt, như trường hợp cu Bin ở tập thể Nghĩa Tân, Cầu Giấy, Hà Nội. 36 tháng tuổi nhưng bé vẫn chưa biết gọi mẹ, mà chỉ bập bẹ “ba ba, nhanh nhanh, bai bai, cá”. Thích thì nói không thích thì thôi, muốn cái gì chủ yếu là cháu chỉ tay hoặc cầm tay kéo ba, mẹ lại.
Chị Thanh – mẹ cháu cho biết, một phần vì không có thời gian nên hầu như chị không nói chuyện với con nhiều ngoại trừ những câu nói lúc cho con ăn. Buổi tối vợ chồng mải nói chuyện với nhau, trong khi con xem tivi hoặc thơ thẩn chơi một mình.
Nhiều cha mẹ cũng giống như chị Thanh cho rằng trẻ học nói bằng cách lắng nghe âm thanh, nên chỉ cần hai vợ chồng nói chuyện với nhau là đủ. Thực tế, nếu chỉ học bằng cách này, bé sẽ chỉ nói được bập bõm một vài từ nghe thấy, nhưng không hề hiểu nghĩa của chúng, nhà tâm lý cho biết.
Ngoài ra, trẻ nói chậm có thể do tổn thương thực thể, bị vàng da bệnh lý, thiếu máu. Cũng có thể là nguyên nhân tâm lý do những cú sốc mất người thân, trong gia đình ít được yêu thương, không được tôn trọng… nhưng ít gặp.
Một số người cho rằng, 18 tháng tuổi bé chưa nói được thì cũng không cần quá lo lắng vì nếu là chậm nói đơn thuần đến 2-3 tuổi trẻ sẽ nói được. Theo chị Tùng, điều này đúng trong một vài trường hợp, nhưng nếu biết nói chậm bé sẽ rất thiệt thòi trong việc tiếp thu, phát triển nhận thức, tư duy ngôn ngữ kém. Khi đi học sẽ gặp khó khăn, đặc biệt là những môn liên quan đến tư duy ngôn ngữ. Trẻ có thể đọc chậm, viết kém, văn miêu tả kém. Việc chậm nói cũng khiến trẻ mất tự tin trong giao tiếp, khó biết cách bộc lộ cảm xúc và suy nghĩ của mình có thể dẫn đến bực tức.
Chị Tùng khuyến cáo, khi thấy con có biểu hiện chậm nói, không bằng những trẻ cùng lứa tuổi khác, cha mẹ nên lưu ý, phát hiện sớm, đưa cháu đi khám tìm hiểu nguyên nhân. 8-9 tháng tuổi trẻ đã bập bẹ nói, cha mẹ cần tạo môi trường, cơ hội cho bé được nói. Thường xuyên nói chuyện với con, đọc chuyện cho con nghe, đặc biệt để bé nhìn thấy khẩu hình miệng khi đang nói. Trẻ cần được khuyến khích nói như khuyến khích tập đi.
Bé chậm nói có phải kém phát triển trí tuệ?
Hỏi: Con trai tôi 3 tuổi, cân nặng 15 kg, cao 98 cm, ăn ngủ bình thường, hiểu, nhận biết tốt, tính hiếu động (thích đá, tranh bóng với bạn và anh trai). Hiện nay, cháu chỉ nói được một số từ như trẻ em 1,5 tuổi và vài câu 3-4 từ.
Cháu chưa đi trẻ, đang ở nhà do bà nội trông. Xin hỏi cháu có bị bệnh chậm phát triển trí tuệ không? Nếu có thì xin cho biết cách chữa trị, bệnh viện nào? Xin cảm ơn bác sĩ.
Trả lời của bác sỹ tâm lý nhi khoa:
Con bạn 3 tuổi với cân nặng, chiều cao như vậy và ăn ngủ bình thường thì trong giới hạn phát triển bình thường và còn tốt nữa. Cháu hiếu động, hiểu và nhận biết tốt thì không có gì lo lắng.
Về phát triển trí tuệ, nếu bạn cho biết con bạn bao nhiêu tháng tuổi thì có thể nhận định rõ hơn vì trong 36 tháng đầu đời, trẻ phát triển ngôn ngữ và giao tiếp rất nhanh, nhanh tới mức có thể nhận biết tiến bộ sau mỗi 3 tháng.
Hiện tại con bạn có thể nói một số từ như trẻ em 1,5 tuổi và vài câu 3 – 4 từ có nghĩa là đang chuyển từ nói từng từ tới nói từng câu, là hợp lý với tiến trình phát triển ngôn ngữ ở giai đoạn 21 – 36 tháng (3 tuổi).
Tôi lấy ví dụ con bạn nói: “Con đói, cho con ăn.” Khi trông thấy món ăn mà trước đó trẻ “khoái”. Hoặc, ít hơn, khi trông thấy đồ chơi trẻ thích, trẻ nói “mẹ, (ba) cho con” thì có lẽ bạn nên an tâm và nên cho cháu tiếp xúc với nhiều trẻ bên ngoài nhiều hơn nữa, nếu chỉ ở nhà với bà nội có thể không đủ thuận lợi để trẻ nói nhiều hơn.
Theo tác giả Elain Wetzman, bạn có thể kiểm tra khả năng ngôn ngữ con bạn trong giai đoạn 24 – 36 tháng với một vài gợi ý sau:
- Nói và chỉ đúng tên các bộ phận chính của cơ thể (đầu, tay chân, bụng,…)
- Hỏi và tìm “trái banh đâu?”
- Biết nói “con không thích” khi bị anh hai “giành phần” nhiều hơn.
- Biết nói câu đơn nhưng có động từ, ví dụ “mẹ về”, hoặc, “mẹ đã về”.
- Có thể nói “con tên Tí, con 3 tuổi; hai tên Tèo, hai đi học”.
….
Cho dù con bạn chưa “đạt” đủ những ví dụ trên, bạn cũng không nên quá lo lắng. Trước hết bạn hãy sắp xếp thời gian cho cháu có thời gian chơi nhiều hơn với nhiều trẻ khác. Dành nhiều thời gian cho con, bạn sẽ thấy con bạn có những tiến triển bất ngờ.
9 bài tập học cho bé nói hàng ngày
Bạn háo hức chờ bé nhà mình bập bẹ những tiếng đầu tiên. Dù không thể bắt ép bé làm mọi việc sớm hơn khả năng nhưng 10 gợi ý dưới đây có thể giúp bé biết nói sớm hơn.
Theo Mellisa Essenburg (chuyên gia tâm lý trẻ em Mỹ), khoảng 4-6 tháng tuổi, bé bắt đầu biết bập bẹ những từ đôi như “baba”, “mama” và sử dụng âm điệu để bày tỏ điều hài lòng hay không hài lòng. Đây là kỹ năng sơ khai cho những từ đầu tiên ở bé.
1. Khuyến khích đáp lại
Ngay từ khi bé biết “ê a” lần đầu, bạn cũng nên bắt chuyện với con bằng niềm thích thú. Hãy phản ứng lại những âm thanh ngọt ngào bé vừa tạo ra nhưng cũng cần cho bé cơ hội để đáp trả. Bé bắt đầu hiểu, dù từ lúc còn rất nhỏ rằng, giao tiếp là cho đi và nhận lại.
Nói với “ngôi sao nhỏ” của bạn về mọi thứ hàng ngày giúp xây dựng từ vựng cho bé dù còn phải đợi lâu nữa, bé mới biết dùng từ.
3. Trả lời tiếng khóc của bé
Trước khi bé nói được thì tiếng khóc chính là công cụ bé dùng để giao tiếp với bạn. Khi bạn phản ứng với tiếng khóc của con, điều đó dạy bé rằng, khi bé giao tiếp, bé sẽ được mẹ lắng nghe. Hơn nữa, bạn sẽ biết phân biệt tiếng khóc khi bé đói khác với khi bé mệt mỏi...
4. ‘Chít chat’
Đôi khi, một điều nhỏ cũng tạo nên sự khác biệt lớn, đặc biệt khi nó đến từ sự giao tiếp với bé nhà bạn. Từ việc kể cho bé nghe chuyện mẹ đang thay tã đến việc để bé biết những bước chân vội vã của mẹ là vì đang chuẩn bị bữa cho bé... – những điều tuy nhỏ nhưng tạo ra hiệu quả lớn, giúp bé hiểu được những gì mẹ nói ra và những gì mẹ đang làm. Điều này giúp bé kết nối tốt hơn với mẹ ngay cả khi bé chưa nói được; vì thế, hãy “chit chat” thường xuyên.
5. Hát một bài ngắn
Ngay cả khi bạn không chắc là đúng giai điệu, âm thanh lặp đi lặp lại cũng trở thành âm nhạc với tai nghe của bé. Trong quá trình này, chính sự lặp lại những từ ngữ trong bài hát bạn ngân nga sẽ bước đầu hình thành trí nhớ cho bé về những từ yêu thích.
6. Đọc cho bé
Các bé quan tâm đến sách sớm hơn cha mẹ tưởng. Thử đọc cho bé một cuốn sách quen thuộc khi bé ngồi chơi. Giống như vần điệu từ bài hát hàng ngày, sự lặp lại bằng cách đọc một cuốn sách cũng giúp bé xây dựng ngôn ngữ cơ bản.
7. Mô tả những gì bé đang làm
Khi bé tiến đến mẹ hào hứng hay khóc vì mệt mỏi, hãy nói thành lời những việc bé đang làm và cảm xúc của bé để giúp bé sử dụng đúng từ ngữ về sau.
8. Yêu cầu lặp lại
Thực hành bằng cách lặp đi lặp lại điều gì đó với bé nhà bạn cũng giúp bé hiểu ngôn ngữ sớm. Lặp lại chính là chìa khóa để học hỏi mọi điều và những từ đầu tiên của bé có thể đến vào lúc bạn ít mong đợi nhất.
9. Khuyến khích bé thử
Khi bé bắt đầu bập bẹ (ngay cả khi từ đầu tiên phải được cha mẹ “dịch”), bạn cần khuyến khích những nỗ lực của bé và giúp bé tự tin.
3 sai lầm của cha mẹ khi con tập nói
1. Lập tức đáp ứng yêu cầu khi bé ra hiệu
Chỉ vì điều này mà nhiều cha mẹ đã vô tình làm chậm thời gian học nói của con. Ví dụ như khi bé chỉ vào chai hoặc bình đựng nước là bạn đã rót nước cho bé ngay, không cần bé phải phát âm ra tiếng nói. Làm như vậy khiến bé rất lười nói và phát âm bởi bé biết là chỉ cần ra hiệu, người lớn cũng hiểu được ý của mình. Bé không bị kích thích phải phát âm và có rất ít cơ hội để nói.
Cách khắc phục: Cha mẹ nên “tập luyện” cho mình thói quen “ép” bé phải nói khi muốn một điều gì đó. Có thể bạn sẽ nói trước từ đó để bé tập theo rồi mới thực hiện theo yêu cầu của bé. Ở ví dụ trên, khi bé chỉ vào bình nước tỏ ý muốn uống nước mà không chịu nói từ “nước”, bạn đưa bé chiếc cốc rỗng rồi xem phản ứng của bé, nếu bé “bức xúc” mà lên tiếng thì coi như bạn đã thành công bước đầu.
2. Nói lặp từ
Lặp từ là một biểu hiện bình thường trong một giai đoạn nhất định khi bé đang học nói. Tuy nhiên, không ít người lớn lại “học theo” cách nói này vì thấy rất thú vị hoặc để giao tiếp với bé dễ dàng hơn, ví dụ khi muốn bé ăn cơm thì nói: “Con ơi, cơm cơm nhé”, gặp con mèo lại nói: “Con ơi, bạn mèo mèo này”…
Trên thực tế, do phản xạ phát âm chưa tốt và hạn chế về mặt ngôn ngữ khiến bé thường nói lập bập hoặc nói lặp từ. Không nên mắng, chê trách hay trêu chọc bé về việc này nhưng cũng không được khuyến khích bé tiếp tục nói lắp vì như vậy sẽ làm chậm quá trình hoàn thiện khả năng ngôn ngữ và khả năng nói câu đầy đủ của bé.
Ảnh minh họa
Cách khắc phục: Cha mẹ nên tìm hiểu về quá trình phát triển ngôn ngữ của trẻ con và các biểu hiện cụ thể của bé nhà mình.
Thông thường, trong giai đoạn tập nói, bé sẽ phải trải qua quá trình học nói một từ, cụm từ rồi mới nói cả câu hoàn chỉnh được (một số bé còn có hiện tượng nói cả câu nhưng đảo trật tự cú pháp). Cần quan sát hàng ngày và nắm bắt sự phát triển ngôn ngữ của bé để có hướng dẫn thích hợp, giúp bé phát triển ngôn ngữ ở giai đoạn cao hơn.
3. “Cổ vũ” lỗi phát âm của bé
Việc bé phát âm sai, nói sai, nói ngọng, nói nhầm từ… trong giai đoạn tập nói là việc tất yếu và thường xuyên xảy ra. Đó là do cơ quan phát âm của bé chưa phát triển hoàn chỉnh, khả năng phân tích âm thanh và các dây thanh ở cổ họng còn yếu.
Điều đáng nói ở đây là nhiều người lớn lại thấy việc bé phát âm sai rất dễ thương và thường bật cười mỗi lúc như vậy. Thậm chí, có người còn bắt chước lỗi phát âm của bé khi nói chuyện với bé. Làm như vậy sẽ khiến bé không những không nhận ra mình đang nói sai, nói ngọng mà còn hiểu nhầm là người lớn khuyến khích bé nói như thế.
Cách khắc phục: Bạn không nên học theo cách phát âm của bé và nhắc nhở những người trong gia đình không nên tỏ thái độ “cổ vũ” khi bé nói ngọng, phát âm sai. Đồng thời bạn nên kiên nhẫn sửa từ sai cho bé bằng thái độ nhẹ nhàng, sau một thời gian bé sẽ phát âm đúng và không còn hiện tượng nói ngọng, nói sai khi lớn lên.
Cách dạy con học chữ cái cho con học nhanh thuộc
Dạy con từ thuở lên 3 - học cách làm những ông bố, bà mẹ tốt
Nuôi con khỏe dạy con ngoan
Cách dạy con viết chữ đẹp hiệu quả
Cách dạy con học tiếng anh hiệu quả trẻ hào hứng
(ST)