Sự thật về thuyên tắc ối, "kẻ giết người" ít được biết đến
Thời gian gần đây liên tục xảy ra các ca thai phụ chết khi sinh con vì chứng thuyên tắc ối. Vậy chứng bệnh hiếm gặp này nguy hiểm như thế nào?
Theo ghi nhận trong y văn, một nửa số phụ nữ mắc hội chứng này sẽ chết trong vòng một giờ khi khởi phát triệu chứng, số còn lại sẽ chết trong ngày hoặc nếu sống sót thì để lại di chứng thần kinh lâu dài.
Thuyên tắc ối là gì?
Thuyên tắc ối là một cấp cứu sản khoa hiếm gặp do dịch nước ối, những tế bào thai nhi, tóc hoặc các mảnh tổ chức thai khác lọt vào hệ tuần hoàn máu mẹ thông qua nhau gây ra một phản ứng dị ứng. Phản ứng dị ứng này gây ra suy hô hấp và tuần hoàn cấp tính cho mẹ.
Do hiếm gặp với tỉ lệ 1/8.000 đến 1/80.000 ca sinh, nên hầu hết các BS sẽ không bao giờ gặp trong suốt quá trình hành nghề của mình, và kết quả là nguyên nhân chính xác của hội chứng này cũng chưa được hiểu rõ. Tuy nhiên, người ta cũng đưa ra giả thuyết cho rằng dịch nước ối và những tế bào thai khi vào tuần hoàn phổi của máu mẹ sẽ xảy ra quá trình bệnh lý theo 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Sản phụ khó thở cấp kèm cao huyết áp. Quá trình này xảy ra nhanh chóng và tiến triển đến ngưng tim phổi. Sau đó sản phụ rơi vào hôn mê.
Nguyên nhân gây ra thuyên tắc ối?
Các chuyên gia cho rằng thuyên tắc ối là kết quả do dịch nước ối vào tĩnh mạch tử cung và điều này xảy ra khi có 3 điều kiện sau đây: Vỡ màng ối, vỡ tĩnh mạch của tử cung hay cổ tử cung và áp lực buồng tử cung cao hơn áp lực tĩnh mạch.
Ai có nguy cơ bị thuyên tắc ối?
Tất cả chủng tộc, màu da và độ tuổi đều có thể bị. Thuyên tắc ối có thể xảy ra trước, trong và sau khi sinh. Nạo thai, truyền dịch ối, hay chấn thương bụng cũng có thể xảy ra.
Có dấu hiệu nào ghi nhận thuyên tắc ối?
Thường xảy ra ở giai đoạn cuối của cuộc chuyển dạ, sản phụ đột ngột khó thở, hạ huyết áp; co giật và ngưng tim. Người ta cũng ghi nhận các sản phụ thuyên tắc ối có một vài đặc điểm như: thai nhi lớn, thai quá ngày, sinh khó trước khi vào choáng, hốt hoảng, lo lắng, than lạnh, khó thở và nôn mửa.
Tỉ lệ sống sót của thuyên tắc ối?
Tỉ lệ tử vong cho mẹ hơn 80%, mặc dầu tỉ lệ sống sót của thai nhi có thể đến 70%. Thống kê cho thấy 50% sản phụ sẽ chết trong giờ đầu khi khởi phát triệu chứng và một tỉ lệ cao nếu sống sót thì để lại di chứng thần kinh nặng nề.
Có điều trị được thuyên tắc ối?
Điều trị hỗ trợ là chính, không có điều trị đặc hiệu.
• Điều trị rối loạn đông máu.
• Phẫu thuật lấy thai nếu mẹ ngưng tim không đáp ứng với hồi sức.
Bệnh thuyên tắc ối không thể dự báo, không có cách dự phòng và là một cấp cứu sản khoa không điều trị được. Trong khi chuyển dạ cần nhanh chóng ghi nhận các dấu hiệu và triệu chứng, hồi sức tích cực và điều trị hỗ trợ là điều kiện tiên quyết có thể mang lại hy vọng cứu sống mẹ và thai nhi.
Trong và sau biến cố xảy ra cần hỗ trợ và chia sẻ với các thành viên trong gia đình vượt qua cơn khủng hoảng và mất mát này.
Thuyên tắc ối: 80% tử vong
Biến chứng xảy ra đột ngột, không có dấu hiệu báo trước, không có khả năng phòng ngừa và dễ tử vong. Năm ca tử vong trong vòng nửa tháng.
Ngày 9-5, cuộc họp hội đồng chuyên môn gồm 14 chuyên gia sản khoa hàng đầu của Sở Y tế TP.HCM về trường hợp mẹ con sản phụ Ngô Thị Thu Hồng (30 tuổi, Hóc Môn) đã kết luận: Sản phụ tử vong do thuyên tắc ối.
Sản phụ đủ điều kiện sinh thường
TS-BS Phạm Việt Thanh, Giám đốc Sở Y tế TP.HCM, cho biết hội đồng chuyên môn sau khi xem xét hồ sơ bệnh án và giải phẫu bệnh phẩm đã thống nhất: Về lâm sàng, sản phụ trong giai đoạn chuyển dạ có những chuyển biến đột ngột, trụy tim mạch, tím tái, rối loạn tri giác, suy hô hấp cấp, được xử trí hồi sức tích cực nhưng không cứu được. Chẩn đoán cận lâm sàng, giải phẫu bệnh, sản phụ bị thuyên tắc ối, giải phẫu bệnh thai nhi thấy phôi bào thai chết trong bụng mẹ.
“Sản phụ chuyển dạ kéo dài, được chỉ định giục sinh. Gia đình xin mổ bắt con nhưng BV thấy rằng đây là trường hợp sinh thứ hai, thai nhi đã xuống dưới tử cung, đủ điều kiện cho sinh thường. Sản phụ tử vong do thuyên tắc ối trong giai đoạn chuyển dạ, con chết trong tử cung khi mẹ bị thuyên tắc ối” - giám đốc Sở Y tế kết luận.
Nhiều câu hỏi đặt ra nếu mổ bắt em bé ra trước đó theo đề nghị của gia đình sản phụ thì liệu có thuyên tắc ối xảy ra? Theo các chuyên gia, thuyên tắc ối không biết trước được nên không thể nói cho mổ thì sẽ không chết mẹ và con. Tuy nhiên, mổ lấy thai cũng là yếu tố nguy cơ tạo nên thuyên tắc ối.
Thuyên tắc ối, không thể biết trước và không phòng ngừa được. Ảnh: DUY TÍNH
80% tử vong
ThS-BS Lê Quang Thanh, Phó Giám đốc BV Từ Dũ, cho biết thuyên tắc ối là tình trạng nước ối và các chất trong thai đi vào hệ tuần hoàn của bà mẹ gây suy hô hấp, trụy tim mạch và thường gây tử vong. Theo thống kê của Mỹ, tỉ lệ gặp là 1/30.000 trường hợp sinh hoặc 1/8.000 thai kỳ. Còn theo thống kê của nhiều tác giả khác thì khoảng 7.7/100.000 trường hợp sinh. Có đến 61%-80% bà mẹ tử vong. Số còn lại sống thực vật, không có khả năng hòa nhập cuộc sống. Tỉ lệ trẻ sơ sinh sống sót là gần 80%.
“Thuyên tắc ối có thể xuất hiện trong lúc chuyển dạ, mổ lấy thai, phá thai, chấn thương ở bụng, truyền dịch vào buồng ối, kể cả trường hợp em bé đã ra rồi. Các yếu tố nguy cơ gây thuyên tắc ối: mẹ lớn tuổi, đa sản, tổn thương cổ tử cung, thai chết lưu, chuyển dạ nhanh, thai co, thai nhi nam…” - ThS-BS Lê Quang Thanh cho biết thêm.
Cũng theo vị này, khi bị thuyên tắc ối, thai phụ đột ngột khó thở, hạ huyết áp, co giật, ngừng tim, xuất huyết do rối loạn đông máu và tử vong, diễn biến rất nhanh. Giải phẫu tử thi thường thấy có đến 80% nước ối hay mảnh vụn của thai nhi ở trong tuần hoàn mẹ.
Người nhiều kinh nghiệm như PGS Vũ Thị Nhung, nguyên Giám đốc BV Hùng Vương, cũng cho biết cá nhân bà đã gặp năm ca bị thuyên tắc ối. Tuy nhiên, bà chỉ cứu được một em bé (nhưng ca cứu sống này cũng chưa khẳng định là có bị thuyên tắc ối hay không mà chỉ có những triệu chứng giống mà thôi).
Năm ca tử vong trong vòng nửa tháng
Ngoài trường hợp mẹ con sản phụNgô Thị Thu Hồng (Hóc Môn) được kết luận tử vong do thuyên tắc ối. Trong vòng nửa tháng qua cũng có bốn ca sản phụ tử vong. Trong đó có hai ca liên quan đến bệnh lý thuyên tắc ối:
- Mẹ con sản phụ Đào Thị Hạnh (31 tuổi, Hưng Yên) tử vong tại BV Đa khoa Hưng Yên ngày 20-4. Nguyên nhân ban đầu được BV cho biết có thể do thuyên tắc ối.
- Ngày6-5, sản phụ Lê Thị Nguyệt (33 tuổi, Quế Sơn, Quảng Nam) cũng đã tử vong tại BV Đa khoa Vĩnh Đức (thị trấn Vĩnh Điện, Quảng Nam). Nguyên nhân dẫn tới cái chết sản phụ Nguyệt sau khi mổ là do bị thuyên tắc ối.
l Năm 2011, các BV của TP báo về có 154.000 ca sinh ra, trong đó có bảy ca mẹ tử vong. Trong số các ca tử vong có hai ca rối loạn đông máu, sốc… nghi thuyên tắc ối (do không giải phẫu tử thi nên không xác định).
BS NGUYỄN NGỌC THÔNG,
Giám đốc Trung tâm Chăm sóc
sức khỏe sinh sản TP.HCM
Theo các chuyên gia, những trường hợp thuyên tắc ối nếu hồi sức cấp cứu không thành công sẽ mổ lấy thai. Tuy nhiên, nếu đưa vào phòng mổ cũng mất 10-15 phút mà thai nhi cũng sẽ tử vong chỉ khoảng 4-5 phút sau khi mẹ bị ngưng tim, ngưng thở. Nếu đứa bé được đưa ra kịp thời, chưa chắc đã sống được, tuy nhiên nếu hồi sức tốt thì cũng có thể sống.
THUYÊN TẮC ỐI
Nguyễn Duy Tài *
TÓM TẮT
Khi vận động sinh đẻ kế hoạch, người ta thường nghĩ đến khía cạnh xã hội của vấn đề sinh đẻ kế hoạch như để phát triển kinh tế của quốc gia, khả năng gia đình chỉ có thể nuôi dạy tốt nếu có ít con, tuy nhiên vấn đề quan trọng hơn nữa là để bảo đảm sức khỏe và tính mạng bà mẹ đôi khi ít được nhắc đến. Thật vậy tỷ lệ tử vong mẹ liên quan đến thai nghén và sinh nở ở các nước đang phát triển cao gấn hàng chục lần ở các nước phát triển. Tuy vậy ngay ở những nước phát triển cũng có những trường hợp đột tử trong chuyển dạ mà ngay cả nền y học tiên tiến cũng đành bó tay và biện pháp dự phòng duy nhất là tránh sinh đẻ. Ðó là trường hợp của thuyên tắc ối. Tần suất rất thấp, nhưng tỷ lệ tử vong rất cao, thường trên 90%. Biến cố xảy ra thường trong giai đoạn cuối của chuyển dạ, với cơn co tử cung mạnh và ố vỡ, trên một sản phụ hoàn toàn khỏe mạnh và chuyển dạ bình thường. Nước ối với các thành phần của nó nhưphâ su, lông tóc, các chất gây và tế bào được bơm vào tuần hoàn của mẹ do cơn co tử cung dễ dàng gây thuyên tắc mạch phổi. Bệnh nhân đột ngột tím tái, truỵ tim mạch và tử vong nhanh chóng. Nhẹ hơn, sẽ có hiện tượng rối loạn đông máu và tử vong trong vàigiờ. Chẩn đoán xác định nhờ vào quan sát vi thể giải phẫu bệnh tìm thấy các thành phần của nước ối trong mạch máu phổi của và mẹ.
ÐẠI CƯƠNG
Thuyêntắt ối là một nguyên nhân gây đột tử cho sản phụ trong chuyển dạ, là nỗi kinh hoàng cho nhà làm công tắc sản khoa mà hầu như phương pháp dự phòng duy nhứt là tránh sanh đẻ . Theo nhiều tác giả , tần suất thuyên tắt ối rất hiếm, tuy nhiên với số lượng sanh hằng năm từ 10.000-30.000 ca tại các bệnh viện lớn như Từ Dũ và Hùng Vương , thì khó mà tránh được những trường hợp tử vong gây đau đớn cho mọi người và đôi khi là cả một hàm oan cho nhà sản khoa, vì độ nữa giỡ trườc khi sảy ra biến cố sản phụ là một gười khoẻ mạnh . Hơn nữa, tử vong trong sản khoa khó chấp nhận được vì nạn nhân thường là những phụ nữ trẻ và là linh hồn của gia đình.
Thuyên tắc ối là bệnh lý nước ối đi vào tuần hoàn của mẹ .Thuyên tắc ối phát triển trên nền tảng (1) có lổ rách màng ối và màng đệm (2) các tĩnh mạch tử cung hay cổ tử cung hở ra (3) áp lực buồng tử cung đủ mạnh để đẩy nước ối vào tĩnh mạch . Nhau bong ở bờ , tổn thương tử cung hy cổ tử cung tạo nên ngỏvào tuần hoàn của mẹ . Thường gặp trong các trường hợp chuyển dạ nhanh . Cơn gò tử cung nhiều cũng có thể suy thai dẩn đến thoát phân su vào nước ối hơn khi đi vào tuần hoàn của mẹ.
Trong trường hợp điền hình , sản phụ đang chuyển dạ khi xuất hiện các triệu chứng suy hô hấp và truỵ tuần hoàn. Nếu bà ta không chết ngay , sự chảy máu trầm trọng kèm theo rối loạn đông máu nặng sẽ xuất hiện sớm sau đó , máu chảy từ đường sinh dục và các vị trí chấn thương khác. Trong một số trường hợp , truỵ tuần hoàn và những dấu hiệu khác của thuyên tắc ối có thề xuất hiện sau 48 giờ sau sanh .
ÐỘC TÍNH CỦA NƯỚC ỐI
Khả năng gây tử vong của việc truyền nước ối vào tĩnh mạch thay đổi rất đáng kể , phụ thuộc vào các thành phần chứa trong nước ối . Khả năng gây tử vong cao nhứt khi trong nước ối có nhiều bả thai và nhứt là phân su sệt. Biến chứng hô hấp tuần hoàn nặng nề và đột ngột kèm với hình ảnhvi thể các mạch máu phổi lúc tử thiết là biểu hiện thuyên tắc ối.
Schneider (1955) chứng minh khả năng gây tử vong cao khi truyền nươc ối vào tĩnh mạch chó nhất là nước ối có phân su . người ta hình dung những thành phần của nước ối bao gồm tế bào da thai nhi bị bong ra, lông, óc, chất gây, và chất nhầy được các cơn co tử cung mạch bơm tứ túi ối bị vỡ vào tĩnh mạch tử cung . sự tắc nghẻn trầm trọngmạch máu phổi do các thành phần trên hoặc từ fibrin được thành lập trong mạch máu sẽ dẫn đến suy tim cấp do tắc nghẽn phỗi . Bị thiếu oxy và cung lượng tim giảm đột ngột , nếu không tử vong ngay , thì chẳng bao lâu sau sẽ thấy chảy máu từ các mạch máu bị vỡ do rối lọan đông máu. Tiểu cầu giảm nặng , máu đông kém, các cục máu đông nhỏ, mềm và dể tan. Nếu trộn huyết tương với thrombine để hình thành cục máu đông sẽ thấy cục máu tan nhanh chóng. Hơn nữa khitiêm fibrinogen vào hệ tuần hoàn , ta thấy protein có thể làm đông thrombin ( thrombin- clottable protein ) cũng biến mất ngay . Nhũng hiện tượng này thể hiện hiện tượng tiêu sợi huyết dữ dội , ngay cả tiêu fibrinogen .
ÐÔNG MÁÚÐƯỢC KHỞI PHÁT TỪ NƯỚC ỐI
Khả năng làm tăng hoạt động đông máu của nước ối cao nhứt khi thai nhi đủ tháng. Tuy nhiên ngay cả vào lúc này , bình thường hoạt động đông máu cũng không lớn lắm . Nguyên tắc làm đông máu hoạt động giống nộc rắn hơn là thromboplastine của mô . Nước ối đôi khi chứa rất nhiều chất nhày trong trượng hợp thuyên tắc ối có thể kích thích hay gia tăng đông máu nội mạc rải rác , bằng cách hoạt hoá yếu tố X. lockwoodvà cộng sự (1991 ) đã tìm được các yếu tố mô (tissue factor) hoạt động giúp tăng đông máu trong nước ối.
Nước ối khi nhiễm trùng nhất là nội độc tố chắc chắn là độc khi đi vào tuần hoàn của mẹ . Nước ối cũng độc khi có những chất gây tiêu tế bào (cytolytic products) từ một thai chết.
THỰC NGHIỆM THUYÊN TẮC ỐI
Clark (1990) và Hanskins đã nghiên cứu chi tiết các biến chứng của thuyên tắc ối trên thực nghiệm . Trong thực nghiệm, Halmagyi và cộngsự (1962) sau khi tiêm cho cừu nước ối người ta đã ghi nhận các hiện tượng tăng huyết áp phổi , hiếu oxy động mạch , và giảm mạch dung lượng phổi. Tuy nhiên những hiện tượng này cũng giống như thuyên tắc phổi do các nguyên nhân khác . Ðiểm quan trọng là các hiện tượng này không xaỷ ra khi nước ối được lọc , và người ta không thể phòng ngừa chúng bằng Heparin. Adamsons và cộng sự (1971) cũng như những ngưỡi khác không tạo được hội chứng này trên thõ. Attwood (1964) gây tử vong 5 trong số 15 con chó khi truyền tĩnh mạch 50ml nước ối và schneider (1955) đã gây tử vong cao cho chó khi truyền hỗn hợpnước ối và phân su cho người.
Trong những nghiên cứu được thực hiện cẩn thận , Hankins và cộng sự đã đo được dòng chảy trung âm trong những con dê được truyền nhiều loại dịch ối của bản thân nó . Có những đáp ứng áp lực đối với loại nước ối nguyên trạng , hay đã được lọc hay đun sôi , những thay đổi lớn nhứt được ghi nhận ở những động vật được truyền nước ối có phân su đặc . Nước ối có phân su sệt làm tăng cấp tính nhưng thoáng qua kháng lực mạch máu phổi và toàn thân đi kèm với cao huyết áp , giảm cung lượng tim , tăng áp lực mao quảnphổi cũng như thiếu oxy , mất bảo hoà oxy động mạch và rối loạn oxy
CHẨN ÐOÁN
Thuyên tắc ối gây tử vong được xác định bởi sự hiện diệ của những thành phần ối như tế bào da bong ra , chất gây , dịch nhầy, lông trong các mạch máu nhỏ cùa phổi. Thuyên tắc ốirất hiếm gặp. Mốt trường hợp thuyên tắc ối khá điền hình như sau:
Một sản phụ con so , trẻ , thai đủ tháng không thấy thai máy 12 giở trước khi chuyển dạ . Hai giờ sau sản phụ được khám lần đầu tiên , không nghe tim thai , cơn co tử cung đều,không bị co cứng hay ấn đau . Cổ tử cung mở 2 cm và xoá 90%. Cho đến khi bấm ối không thấy máu hay nước ối chảy ra từ cổ tử cung . Khi bấm ối , nước ối có phân su sệt màu nâu chảy ra. Sản phụ có trị số huyết áp cao vừa phải và được điều trị dự phòng với sulfate magnesium. Hematocrite là 34% và có cục máu động lớn được thành lập trong ống thrombin. Tiểu cầu, thời gian prothrombinvà thời thromboplastine bình thường. Hai giờ sau khi nhập viện, huyết áp bắt đầu dao động giữa 135/105 và 90/60mmHg. Hematocrite lúc đó là 29%. Sản phụ được truyền 2 đơn vị máu toàn phần vì nghi ngờ nhau bong non mặc dầu không có triệu chứng tử cung co cứng, không có xuất huyết âm đạo và nước tiểu giờ trước là 60ml.Sản phụ đột nhiên rất yên lặng và sau đó không đáp ứng ; huyết áp không đo được và mạch giảm còn 60 và sau đó bằng 0. Ðặt nội khí quản và hồi sức tim phổi được bắt đầu khi một đứa trẻ chết dầm có nhuộm phân su được sanh ra. Nhau phẳng, trên bề mặt nhau về phía mẹ có cục máu. Nhau bong ngay sau đó. Tử cung gò kém và những cố gắng thông khí bị cản trở do thiếu dung lượng phổi. Xoa bóp tim ngoài lồng ngực để duy trì chức năng tim và xuất huyết từ tử cung mềm nhão được chống đỡ bằng cách truyền máu. Tuy nhiên trao đổi oxy vẫn không đủ mặc dù có trợ giúp hô hấp và sản phụ tử vong. Về vi thể, những mách máu nhỏ trong phổibị tắc bởi những mãnh vụn bao gồm các vẩy,chất nhày, chất gây làm cho mất khả năng thông khí cho bệnh nhân. Tiểu cầu, fibrinogen và hematocrit máu giảm trong khi các sản phẩm chuyển hóa của fibin và fibrinogen tăng. Khi nhập viện có thể thấy rối loạn đông máu nhẹ. Những biến đổi này sẽ trở nên trầm trọng khi bệnh nhân mấy ý thức, hạ huyết áp, tim chậm kéo dài đến khi tử vong.
Chắc chắn có những bệnh nhân sống sót sau thuyên tắc ối mặc dầu chẩn đoán chỉ là nghi vấn vì không thể xác định thành phần nước ối trong mạch máu phổiquan sát vi thể phổi. Tuy nhiên người ta cũng có thể thấy được những tế bào da của thai nhi trong máu mẹ lấy được qua một catheter động mạch phổi được đặt vì những biến chứng nội khoa khác không liên hệ.
BỆNH CẢNH LÂM SÀNG VÀ THÁI ÐỘ XỬ TRÍ
Sự thành công trong điều trị thuyên tắc ối phụ thuộc vào mức độtrầm trọng của bệnh. Biểu hiện lâm sàng của thuyên tắc ối thay đổi và tần suất có lẽ là được đánh giá thấp hơn thực tế. Nếu có phân su sệt, thuyên tắc ối gây thiếu oxy cấp, dung lượng phổi giảm và tử vong nhanh chóng. Bắc buộc điều trị tích cực và nhanh chóng bằng cách trợ giúp hô hấp và truyền máu (theo Claek 1990, Dashow và cộng sự 1989, Price và cộng sự 1985). Tuy nhiên bệnh nhân chịu đựng kém với bất kỳ tình trạng thiếu hay quá tải tuần hoàn. Trong một trường hợp ngoại lệ, Esposito và các cộng sự (1990) đã mô tả điều trị thành công một bệnh nhân được điều trị bằng thông tim phổi và mở động mạch phổi để lấy cục máu có chứa nhiều tế bào vẩy thai nhi.
Khi nước ối có ít hay không có phân su, nước ối có một lượng lớn chất nhày nhưng nước ối vẫn trong, tổn thương phổi có thể ít trầm trọng, sự mất bảo hòa oxy có thể điều trị được. Ðồng thời, xuất hiện đông máu nội mạc và có thể tử vong do xuất huyết, nhưng cũng có thể sống sót nếu cầm máu được. Quance (1988) đã mô tả một trường hợp tử vong ở một sản phụ có triệu chứng đầu tiên là mất bảo hòa oxy trong lúc phẫu thuật được phát hiện bởi hệ thống đooxy tự động. Phù phổi âm thầm sau đóvà tử vong 3 giờ sau sanh. Theo Clark (1990)xuất huyết đơn độc là biểu hiện của thuyên tắc ối trong 10 đến 15% các trường hợp.
Ðiều trị nhằm 3 mục tiêu : cung cấp oxy, duy trì cung lương tim và huyết áp và điều trị rối loạn đông máu. Khi rất nghi ngờ thuyên tắc ối, dùng catheter động mạch phổi, một đường động mạch để dễ dàng đo huyết áp và lấy máu, hệ thống ghi huyết áp động mạch phổi, toàn thân, cung lượng tim và nồng độ oxy máu đem lại nhiều lợi ích. Clark và cộng sự (1988) đã dùng những phương tiện trên và kết luận rằng có bằng chứng nhỏ về sự tắc nghẽn tuần hoàn phổi. Thật ra trong những trường hợp này và những trường hợp khác, cần nhấn mạnh đến sự quan trọng của suy thất trái và cần phải điều chỉnh để phục hồi huyết áp. Cũng có thể những khám phá suy thất trái là muộn vì những nghiên cứu này được thực hiện sau khi giải quyết những biến cố cấp tính.
Máu toàn phần hay hồng cầu đậm đặc và huyết tương đông được dùng. Thường chảy máu rất dữ dội do đờ tử cung chảy máu vị trí phẫu thuật do máu không đông. Dùng fibrinogen hay cryoprecipitate, các thành phần khác của máu, heparin, chất tiêu sợi huyết và các chất chống tiêu sợi huyết được mô tả tuỳ trường hợp nhưng hiệu quả của nó khó đánh giá.
Kết thúc bài này, ngoài một số thông tin về căn bệnh hiểm nghèo này, xin chúng ta hãy cùng nghiền ngẫm câu ca dao xưa :
"Ðàn ông đi biển có đôi
Ðàn bà đi biển mồ côi một mình "
HAI TRƯỜNG HỢP TỬ VONG ÐƯỢC CHẨN ÐOÁN DO THUYÊN TẮC ỐI TẠI BV. HÙNG VƯƠNG NĂM 1994 - 1995
1. Lê Thị H S. , 38 tuổi, para 2012
Nhập viên vì thai gần ngày sanh + ra nước âm đạo, lúc 18 giờ 30 ngày 14/4/1994 .
Tiền căn :
Mổ sanh năm 1988 vì nhiễm trùng ối, con nặng 3800g.
Lần 2, sanh ngả âm đạo, năm 1990, con nặng 3800g.
Ngừa thai bằng DCTC, sau đó tháo DCTC vì rong huyết.
Bệnh sử : KC 15/7/94, khám thai 3 lần trong thai kỳ, diễn tiến thai kỳ bình thường, siêu âm một lần lúc thai 38 tuần, chẩn đoán nhau bám mặt trước, type I, trưởng thành. Lúc 17 giờ, nhập viện vì ra nước âm đạo.
Tình trạng lúc vào :
M : 92l/p ; HA 12/8,5cmHg ; NÐ : 370C ; Phù (-).
Tim không phát hiện bệnh lý.
BCTC : 34cm, TT : 140 l/p, cơn gò thưa.
CTC mở một ngón tay rộng, xóa 30%, đầu cao, ối rỉ còn màng, nước ối trắng đục, khung chậu bình thường, thai ước lượng 3400g.
Lúc 20 giờ 50 : cơn gò 50" nghĩ 1 15" ; 55" nghĩ 215" ; 50" gnhĩ 130" cường độ mạnh.
Lúc 1 giờ ngày 15/4/1994 : Cơn gò 35" nghĩ 245" ; 30 nghĩ 230".
Lúc 1 giờ 45 : đột ngột vả mồ hôi, thở co kéo, tim tái, tim không nghe được, không đo được huyết áp, CTC mở 8cm.
Xử trí đặt nội khí quản, xoa bóp tim ngoài lồng ngực không hiệu quả sau 20 phút.
Mổ lấy thai dau khi sản phụ chết đem ra một bé gái nặng 3200g, apgar 2-4-5, tử cung không vỡ, không có máu tụ sau nhau.
2.Nguyễn Thị B. N. , 29 tuổi, para 0010
Nhập viện : vì đau bụng sanh lúc 10 giờ 25.
Tiền căn : đặt vòng năm 1992, sẩy thai một lần.
Bệnh sử : KC quên, khám thai tại trạm y tế xã, diễn tiến thai kỳ bình thường.
Khám lúc vào :
M : 92 l/phút ; HA : 12/7cmHg ; NÐ : 370C ; Phù (-).
Tim phổi bình thường BCTC : 32 cm, TT khó nghe vì bụng gò nhiều.
CTC mở một ngón tay, ối căng, ngôi đầu.
Theo dõi tại phòng sanh :
- 10 giờ 50 : TT 140 l/p ; cơn gò 50" nghĩ 1 ; 45" nghĩ 145".
CTC một ngón tay, đầu cao, ối phồng.
XT : Spasmavérine 1 ống.
- 12 giờ 30 : ối vỡ tự nhiên, nước ối trắng trong có bả thai.
TT 148 l/p ; cơn gò 30" nghĩ 130" ; 35" nghĩ 130".
CTC mở 4cm, xóa 70%, có viền chắc, đầu - 2 ối vỡ hoàn toàn.
- 12 giờ 50 : đột ngột tím tái, mất ý thức, HA không đo được, M : 120 l/p nhẹ. TC có cơn gò cường tính. TT : 96 l/p.
CTC mở trọn, ối vỡ hoàn toàn, đầu vị trí 0 chẩm vệ.
Chẩn đoán : nghi thuyên tắc ối, chưa loại trừ nhau bong non.
Xử trí : Gíup thở, gắn monitor theo dõi.
Ðộ bảo hòa oxy đạt 80%, HA có lúc tăng nhẹ.
Gíup sanh bằng giác hút trong 20 phút ra một bé gái nặng 2500g, apgar 0-1, nhau bong tự nhiên, không có máu tụ sau nhau, tử cung nguyên vẹn, tuy nhiên máu chảy rỉ rả, không đông, có hiện tượng rối loạn đông máu trên lâm sàng và cận lậm sàng, nước tiểu không có.
- Từ 13 giờ 30 : vẫn giúp thở bằng máy, tình huống tạm ổn định với M:100l/p, HA : 12/7mmHg ; nhịp thở 26 l/p ; độ bảo hòa oxy hơn 90%, CVP từ 12-17cm nước. TC gò, máu vẫn tiếp tục chảy không đông, truyền máu.
- 14 giờ 12 phút : M : 109 l/p ; HA không đo được, XT dopamine.
- 15 giờ 16 : HA không đo được, M : 157 l/p, đặt nội khí quản.
- 15 giờ 30 : tim chậm, HA không đo được, đồng tử giản, xoabóp tim ngoài lồng ngực.
- 15 giờ 40 : bệnh nhân ngưng tim (3 giờ sau tai biến).(ST)