1.1. Các xét nghiệm thông thường đánh giá chức năng gan
1.1.1. Enzym GOT, GPT huyết thanh
GOT, GPT là 2 enzym trao đổi amin (transaminase), có nhiều ở
các tổ chức của cơ thể. Trong các enzym trao đổi amin, GOT và GPT có hoạt độ
cao hơn cả và có ứng dụng nhiều trong lâm sàng. GOT có nhiều ở tế bào cơ tim,
GPT có nhiều ở tế bào nhu mô gan.
GOT (glutamat Oxaloacetat Transaminase, hoặc AST (Aspartat transaminase), GPT
(Glutamat pyruvat transaminase), hoặc ALT (Alanin transaminase).
Chúng xúc tác các phản ứng trao đổi amin sau:
GOT
Aspartat + (-cetoglutarat Glutamat + Oxaloacetat
GPT
Alanin + (-cetoglutarat Glutamat + Pyruvat
Xác định hoạt độ GOT, GPT cho phép đánh giá mức độ tổn thương (hủy hoại) tế bào
nhu mô gan.
+ Viêm gan virut cấp:
- GOT, GPT đều tăng rất cao so với bình thường (có thể > 1000U/l), nhưng mức
độ tăng của GPT cao hơn so với GOT, tăng sớm trước khi có vàng da, ở tuần đầu
vàng da (tăng kéo dài trong viêm gan mạn tiến triển).
- Hoạt độ GOT, GPT tăng hơn 10 lần, điều đó cho biết tế bào nhu mô gan bị hủy
hoại mạnh. GOT tăng >10 lần bình thường cho biết tế bào nhu mô gan bị tổn
thương cấp tính. Nếu tăng ít hơn thì có thể xảy ra với các dạng chấn thương gan
khác.
GOT, GPT tăng cao nhất ở 2 tuần đầu rồi giảm dần sau 7- 8 tuần.
+ Viêm gan do nhiễm độc: GOT, GPT đều tăng nhưng chủ yếu tăng GPT, có thể tăng
gấp 100 lần vo với bình thường. Đặc biệt tăng rất cao trong nhiễm độc rượu cấp
có mê sảng, nhiễm độc tetrachlorua carbon (CCl4), morphin hoặc nhiễm độc chất
độc hóa học... Mức độ của LDH cao hơn các enzym khác: LDH > GOT > GPT.
Tỷ lệ GOT/GPT > 1, với GOT tăng khoảng 7 - 8 lần so với bình thường, thường
gặp ở người bị bệnh gan và viêm gan do rượu.
+ Viêm gan mạn, xơ gan do rượu và các nguyên nhân khác: GOT tăng từ 2- 5 lần,
GPT tăng ít hơn, mức độ tăng GOT nhiều hơn so với GPT.
+ Tắc mật cấp do sỏi gây tổn thương gan, GOT, GPT có thể tăng tới 10 lần, nếu
sỏi không gây tổn thương gan thì GOT, GPT không tăng.
Vàng da tắc mật thì GOT, GPT tăng nhẹ, mức độ tăng không đáng kể kết hợp với alkaline
phosphatase tăng hơn 3 lần so với bình thường. GOT, GPT tăng chậm đều đến rất
cao (có thể hơn 2000 U/l), sau đó giảm đột ngột trong vòng 12 - 72h thì được
coi như là một tắc nghẽn đường dẫn mật cấp tính.
- GOT còn tăng trong nhồi máu cơ tim cấp và trong các bệnh về cơ, nhưng GPT
bình thường.
- GPT đặc hiệu hơn trong các bệnh gan.
- GOT tăng rất cao, có thể tới 1000 U/l, sau giảm dần đến 50% trong vòng 3 ngày,
giảm xuống dưới 100 U/l trong vòng 1 tuần gợi ý sốc gan với hoại tử tế bào nhu
mô gan. Ví dụ: xơ gan, loạn nhịp, nhiễm khuẩn huyết.
+ Ngoài ra GOT, GPT tăng nhẹ còn gặp trong một số trường hợp có điều trị như
dùng thuốc tránh thai, thuốc chống đông máu.
Trước kia xác định hoạt độ GOT, GPT theo phương pháp Reitman, Frankel do Severa
cải tiến được biểu thị bằng (mol acid pyruvic tạo thành trong 1 giờ dưới tác
dụng xúc tác của enzym có trong 1 ml huyết thanh.
Bình thường: GOT = 1,5(mol acid pyruvic/1ml/1h.
GPT = 1,3(mol acid pyruvic/1ml/1h.
Trong lâm sàng người ta thường sử dụng chỉ số De Ritis (GOT/GPT) để xem xét sự
thay đổi của GOT, GPT và chẩn đoán, tiên lượng các bệnh gan.
Hiện nay, việc xác định GOT, GPT bằng kit và các máy bán tự động hoặc tự động
đã được rút ngắn thời gian rất nhiều (3- 5 phút). Hoạt độ GOT, GPT xác định
(theo khuyến cáo của IFCC- Tổ chức Hóa lâm sàng Quốc tế = International
Federation Clinical Chemitry) dựa trên các phản ứng sau:
GOT
(- cetoglutarat + Aspatat <------> Glutamat + Oxaloacetat
MDH
Oxaloacetat + NADH + H+ <------> Malat + NAD+
MDH là malatdehydrogenase, đo độ giảm NADH ở bước sóng 340 nm, từ đó tính được
hoạt độ enzym.
Do các hãng có các kit thuốc thử, máy khác nhau nên kết quả hoạt độ GOT, GPT (ở
37oC) khác nhau nhưng cũng gần tương tự nhau. Ví dụ như hoạt độ GOT, GPT ở 37OC
có giá trị như bảng dưới đây (bảng 1.1).
Bảng 1.1: Trị số bình thường GOT,GPT huyết tương với kit của một số công ty khác nhau:
Hãng |
GOT (U/l) |
GPT (U/l) |
- Boehringer Mannheim (Đức) |
Nam < 37 |
Nam < 40 |
- Vipharco (Pháp) |
< 46 |
< 49 |
- Roche (Nhật Bản) |
Nam < 38 |
Nam 10 - 50 |
- Human (Đức) |
Nam < 42 |
Nam < 42 |
1.1.2. Bilirubin toàn phần, bilirubin trực tiếp huyết thanh
Bilirubin là sản phẩm thoái hóa của hemoglobin ở lưới nội
mạc võng mô như gan, lách, tuỷ xương.
+ Bình thường:
Bilirubin toàn phần huyết thanh, gồm bilirubin gián tiếp (70%) và bilirubin
trực tiếp (30%), có thể viết như sau:
Bilirubin TP = Bilirubin GT + Bilirubin TT).
(<17,1 (mol/l) (<12 (mol/l) (< 5,1 (mol/l)
Bilirubin gián tiếp độc, không tan trong nước, nó liên kết với albumin, hoặc (1-globulin,
là dạng vận chuyển của bilirubin trong máu. Bilirubin trực tiếp còn gọi là
bilirubin liên hợp (liên hợp với acid glucuronic), nó cho phản ứng Diazo nhanh,
tan trong nước và qua được màng lọc cầu thận.
Bilirubin tăng cao trong máu sẽ xâm nhập vào tổ chức và gây nên vàng da.
+ Bệnh lý: Xét nghiệm bilirubin TP, bilirubin TT có ý nghĩa chẩn đoán phân biệt
một số bệnh vàng da. Bilirubin toàn phần tăng hơn 2 lần so với bình thường (>
42,75 (mol/l) gây nên vàng da trên lâm sàng.
- Vàng da do tắc mật:
. Alkaline phosphatase huyết tương là tiêu chuẩn tốt nhất để đánh giá tắc mật.
Nếu nó tăng hơn 5 lần bình thường thì hướng tới tắc nghẽn đường dẫn mật.
. Bilirubin trực tiếp tăng rất cao trong máu, bilirubin TP cũng tăng, có
bilirubin niệu.
. Vàng da do tắc mật gặp trong tắc đường dẫn mật do sỏi, u đầu tụy, giun chui
ống mật. Trong tắc đường mật ngoài gan, bilirubin có thể tăng dần đến tới mức
513 - 684(mol/l (30 - 40 mg/dl).
- Tăng bilirubin huyết thanh và alkaline phosphatase (ALP) có thể gặp trong tan
máu. Ngược lại, bilirubin huyết tương bình thường nhưng tăng ALP gợi ý tắc
nghẽn đường mật trong gan, hay bệnh chuyển hóa hoặc bệnh gan thâm nhiễm. Rối
loạn chuyển hóa của gan gây tăng ALP huyết tương 1,5- 3 lần so với bình thường.
- Vàng da do tan máu (hủy huyết):
Trong tan máu, bilirubin TP huyết tương hiếm khi tăng hơn 5 lần so với bình
thường, trừ khi có kết hợp với bệnh lý của gan.
Trong lâm sàng có thể sử dụng tỷ lệ bilirubin TT/bilirubin TP để chẩn đoán phân
biệt:
. < 20% gặp trong tình trạng huyết tán.
. 20 - 40% bệnh bên trong tế bào gan hơn là tắc nghẽn đường mật ngoài gan.
. 40 - 60% xảy ra ở cả trong và ngoài tế bào gan.
. > 50% tắc nghẽn ở bên ngoài gan hơn là bệnh ở trong tế bào gan.
. Bilirubin gián tiếp tăng rất cao trong máu, bilirubin TP tăng có khi tới
30-40 lần, thậm chí có thể tới 80 lần so với bình thường. Bilirubin niệu âm
tính (có urobilinogen niệu).
Vàng da do tan máu gặp trong vàng da hủy huyết ở trẻ sơ sinh (vàng da sinh lý),
sốt rét ác tính, rắn độc cắn (hổ mang) do nọc rắn có nồng độ enzym
phospholipase A quá cao biến đổi lecithin thành lysolecithin là một chất làm
giảm độ bền của màng, nhất là màng hồng cầu gây tan máu, gây các rối loạn
chuyển hóa, nặng có thể tử vong.
- Vàng da do tổn thương gan:
. Trong viêm gan virut cấp (viêm gan truyền nhiễm điển hình) bilirubin tăng sớm
và xuất hiện ở nước tiểu trước khi có vàng da; Có urobilinogen niệu.
. Do gan tổn thương làm giảm chuyển hóa bilirubin thành bilirubin LH (TT) nên
bilirubin TP tăng cao trong máu nhưng bilirubin TT giảm.
. Trong suy gan, xơ gan nặng bilirubin LH giảm do chức năng gan giảm, làm giảm
quá trình liên hợp bilirubin với acid glucuronic tạo bilirubin liên hợp ở gan.
. Trong ung thư gan bilirubin TP huyết thanh tăng rất cao có thể từ 10 đến 20
lần so với bình thường (171- 342 (mol/l).
1.1.3. Định lượng protein toàn phần, albumin huyết tương
+ Bình thường: Protein huyết tương = 60 - 80 g/l, trong đó
albumin = 38 - 54 g/l, globulin = 26 - 42 g/l. Người ta có thể dùng phương pháp
điện di để phân tích và định lượng các thành phần protein huyết tương.
Xét nghiệm định lượng protein toàn phần, albumin huyết tương có ý nghĩa để đánh
giá chức năng tổng hợp của gan.
Suy gan nặng, xơ gan làm giảm tổng hợp albumin, từ đó làm giảm protein huyết
tương, giảm áp lực thẩm thấu ảnh hưởng đến trao đổi nước, muối giữa huyết tương
và dịch gian bào.
+ Chú ý:
Để có kết quả chính xác cần xét nghiệm huyết thanh không bị hủy huyết, vì nếu
bị hủy huyết thì GOT, bilirubin tăng cao sẽ cho kết quả sai, ví dụ GOT có thể
tăng tới 10 lần so với bình thường.
Có thể tham khảo thêm trị số hoạt độ enzym ở trẻ em và nam, nữ thanh niên theo
bảng 1.2.
Bảng 1.2: Trị số bình thường GOT, GPT huyết thanh trẻ em (Theo Jacques Wallach M.D, 1994).
Enzym gan |
Tuổi |
Giá trị bình thường (U/l, 37OC) |
+ SGPT |
||
Trẻ em |
1 - 3 |
5 - 45 |
Nam |
10 - 11 |
10 - 35 |
Nữ |
10 - 13 |
10 - 30 |
+ SGOT |
||
Trẻ em |
1 - 3 |
20 - 60 |
Nam |
10 - 11 |
10 - 60 |
Nữ |
10 - 11 |
10 - 40 |
1.1.4. Xét nghiệm định lượng amoniac (NH3) máu
Bình thường, amoniac sinh ra từ các chuyển hóa, cùng với
CO2, ATP tổng hợp nên urê ở gan, urê theo máu qua thận và đào thải qua nước
tiểu.
Bình thường: Nồng độ NH3 máu = 6 - 30 (mol/l.
NH3 máu tăng cao gặp trong một số bệnh gan như:
- Suy gan.
- Xơ gan nặng.
- Hôn mê gan.
Xét nghiệm NH3 máu động mạch chính xác hơn máu tĩnh mạch, vì nó phản ánh đúng
nồng độ NH3 trong máu đưa tới các tổ chức, mô gây nhiễm độc, đặc biệt gây nhiễm
độc hệ thống thần kinh (não).
* Hiện nay, các xét nghiệm thường làm về enzym để đánh giá chức năng gan là:
(1). GPT (Glutamat pyruvat transaminase): Đánh giá tình trạng tổn thương tế
bào nhu mô gan.
(2). GGT (Gamma glutamyl transferase): GGT là enzym màng tế bào, có nhiều ở thận,
tụy, gan, lách, ruột non. Hoạt độ GGT ở tế bào ống thận lớn gấp 12 lần ở tụy,
25 lần ở gan, và có ở huyết tương.
+ Vai trò:
- Có giá trị đánh giá tình trạng ứ mật ở gan vì nó rất nhạy cảm với tình trạng
ứ mật.
- Vận chuyển aminoacid qua màng tế bào (tốn 3 ATP để vận chuyển 1 aminoacid với
cường độ cao, đặc biệt là acid glutamic và cystein).
Hiện nay, nhiều nghiên cứu đã chứng minh GGT cùng với GOT, GPT còn có tác dụng
chẩn đoán sớm, theo dõi điều trị bệnh gan-mật, đánh giá mức độ tổn thương tế
bào nhu mô gan.
+ GGT tăng cao trong bệnh gan-mật, mức độ tăng cao hơn so với GOT, GPT. Trong
viêm gan mạn tiến triển, GGT tăng cao, GOT và GPT cũng tăng nhưng mức độ tăng
của GGT cao hơn với GOT, GPT.
+ Trong viêm gan, xơ gan do nhiễm độc rượu, GPT và alkaline phosphatase tăng
rất cao và là chỉ số cho biết trình trạng tổn thương tế bào nhu mô gan, tình
trạng nhiễm độc do rượu.
+ Tỷ lệ GGT/ALP > 5, thường gặp ở những người bị bệnh gan do rượu. GGT tăng
cao, độc lập là một xét nghiệm nhạy, thường được dùng để kiểm tra nhiễm độc
rượu.(3). CHE (Cholinesterase) huyết thanh: đánh giá chức năng tổng hợp của
gan.
Cholinesterase (CHE) xúc tác phản ứng thủy phân acetylcholin tạo cholin và acid
acetic
+ Trong các bệnh gan (như suy gan, xơ gan) hoạt độ CHE giảm nhiều so với bình
thường.
+ Ngoài đánh giá chức năng tổng hợp của gan, người ta còn thấy CHE thay đổi
trong một số bệnh khác như:
- CHE tăng cao trong một số bệnh thần kinh (như trầm uất, tâm thần phân liệt).
- Giảm mạnh trong ngộ độc cấp và mạn các chất độc thần kinh như Tabun, Sarin,
Soman (chất độc hóa học quân sự )…
Nếu hoạt độ của 3 enzym GPT, GGT và CHE bình thường thì có thể khẳng định trên
98% không mắc bệnh gan.
Nếu có một loại enzym trong 3 enzym trên không bình thường thì làm thêm 3 xét
nghiệm enzym sau: GOT, GLDH, ALP.
(4). GOT: đánh giá mức độ tổn thương ở ty thể tế bào nhu mô gan. Tăng cao trong
viêm gan mạn tiến triển, nhiễm độc hóa chất.
(5). GLDH (Glutamat dehydrogenase):
Nó là enzym hoạt động mạnh, xúc tác phản ứng khử amin-oxy hóa trực tiếp của
acid glutamic tạo NH3 và (-cetoglutarat.
GLDH khu trú ở ty thể của tế bào nhu mô gan.
Kết quả về hoạt độ GLDH đánh giá mức độ tổn thương nặng, hủy hoại lớn tế bào
nhu mô gan.
(6). ALP (Alkaline phosphatase): đánh giá mức độ ứ mật ở gan. Trong ứ mật, ALP
tăng cao hơn so với bình thường.
Bình thường: Hoạt độ ALP < 280 U/l (37OC).
(7). Ngoài ra còn làm một số xét nghiệm khác như:
- Bilirubin TP, trực tiếp huyết tương.
- 10 chỉ tiêu nước tiểu.
- Định lượng amoniac, fibrinogen.
- Định lượng HBsAg , anti HBV, anti HCV...
1.2. Một số bệnh gan và các xét nghiệm sinh hoá
1.2.1. Viêm gan cấp
* Viêm gan virut cấp:Viêm gan do virut là một bệnh truyền
nhiễm khá phổ biến, nhiều khi để lại hậu quả nặng trong đó có ung thư gan.
+ Các xét nghiệm sinh hóa cần làm gồm:
- GOT, GPT huyết tương tăng nhanh, GPT tăng sớm trước khi có vàng da, mức tăng
có thể tới 2000- 3000 U/l.
GOT, GPT giảm nhanh trong vài ngày sau khi vàng da xuất hiện và trở về bình thường
khoảng 2 - 5 tuần sau đó. Trong viêm gan kết hợp với nhiễm khuẩn (bạch cầu
tăng), GOT và GPT tăng cao thường < 200 U/l, đạt cực đại sau 2 - 3 tuần từ
lúc bệnh khởi phát và trở về bình thường ở tuần thứ 5.
- GGT cũng tăng cao, nhiều khi mức tăng cao hơn cả GPT. Điều đó nói lên GGT có
ý nghĩa chẩn đoán sớm trong bệnh gan, mật.
- Trong viêm gan virut cấp, hoạt độ GPT > GOT > LDH.
- ALP và GGT tăng ít, chúng phản ánh tình trạng ứ mật nhẹ ở gan.
- CHE giảm từ tuần thứ 2 đến tuần thứ 4.
- Bilirubin tăng: ở giai đoạn vàng da cấp, bilirubin trực tiếp tăng, chiếm 50 -
70% (bình thường 25 - 30%), sau đó bilirubin gián tiếp tăng một cách tương
xứng.
- Sắt huyết tương tăng.
- Điện di protein huyết tương, kết quả thay đổi như sau (Hình 1.1):
. Albumin giảm.
. (1, (2- globulin tăng trong giai đoạn đầu, sau giảm dần.
. (-globulin tăng kéo dài.
. (-globulin tăng thường xuyên.
Sau 1 - 2 tuần điều trị, GOT và GPT trở về bình thường, GGT trở về bình thường
chậm nhất, nhưng khi GGT trở về bình thường sẽ cho biết tế bào nhu mô gan đã ổn
định - điều đó có gợi ý là xét nghiệm GGT còn có ý nghĩa tiên lượng, điều trị
bệnh viêm gan virut.
Sau giai đoạn vàng da của bệnh viêm gan virut cấp, nếu điều trị tốt thì sẽ chuyển
sang giai đoạn lui bệnh. Đây là giai đoạn khởi đầu cho sự hồi phục. Các biểu
hiện của giai đoạn này là:
- Tăng bài niệu.
- Bilirubin niệu giảm dần và biến mất trong khi bilirubin huyết tương vẫn còn
cao so với bình thường.
- Urobilinogen nước tiểu tăng.
- Bilirubin huyết tương tăng.
Nếu theo dõi và điều trị không tốt, viêm gan virut cấp dễ chuyển sang viêm gan
mạn.
* Viêm gan do rượu:
- Tăng GGT kết hợp với MCV (thể tích trung bình hồng cầu) > 100 hoặc
tăng riêng lẻ có giá trị chẩn đoán viêm gan do rượu.
- GOT tăng (<300U/l), nhưng GPT bình thường hoặc tăng nhẹ. Xét nghiệm GOT,
GPT có độ đặc hiệu cao hơn nhưng độ nhạy thấp hơn so với GGT. Tỷ số GOT/GPT
>1 kết hợp với GOT tăng (<300U/l) cho biết có khoảng 90% bệnh nhân bị
bệnh gan do rượu. Điều này phân biệt với viêm gan virut có sự tăng đồng đều GOT
và GPT.
- Trong viêm gan do rượu cấp, GGT thường tăng cao nhanh, mức tăng GGT > GOT.
GGT thay đổi bất thường trong viêm gan do rượu, thậm chí cả ở người có tiền sử
bệnh gan bình thường.
- Alkaline phosphatase, bilirubin huyết tương có thể bình thường hoặc tăng nhẹ
nhưng không có giá trị chẩn đoán. Tuy nhiên, nếu bilirubin tiếp tục tăng trong
suốt 1 tuần điều trị thì cần xem xét lại chẩn đoán.
1.2.2. Viêm gan mạn
Trong viêm gan mạn có 5 - 10% nguyên nhân là do có viêm gan
virut B cấp. Nhìn chung viêm gan virut B cấp có thể chia làm 3 giai đoạn:
+ Giai đoạn viêm gan cấp:
Thường kéo dài 1 - 6 tháng với các triệu chứng:
- GOT, GPT tăng hơn 10 lần so với bình thường.
- Bilirubin bình thường hoặc tăng nhẹ.
+ Giai đoạn viêm gan mạn:
Enzym gan tăng hơn 50% kéo dài cho đến trên 6 tháng, có thể đến 1 năm hoặc nhiều
hơn. Đa số các trường hợp bệnh được điều trị không tốt sẽ dẫn đến xơ gan và suy
gan.
Hoạt độ GOT, GPT tăng 2-10 lần so với mức bình thường.
+ Giai đoạn hồi phục:
- Bệnh nhân ổn định, khoẻ mạnh và hết các triệu chứng.
- GOT, GPT huyết tương giảm về bình thường hoặc giảm đến giới hạn thấp.
* Viêm gan mạn ổn định:
Các enzym thường được định lượng để theo dõi viêm gan mạn là GOT, GPT, GGT và
CHE. Các xét nghiệm về enzym cho biết sự diễn biến, mức độ tổn thương tế bao
nhu mô gan.
- GOT, GPT và GGT tăng vừa phải (vì nhu mô gan tổn thương nhẹ).
- ALP, GLDH, CHE ở giá trị bình thường.
- Bilirubin TP tăng nhẹ, có thể lớn hơn 17,1 (mol/l.
Nếu không uống rượu, bia và chế độ làm việc nhẹ nhàng thì bệnh có tiên lượng
tốt.
* Viêm gan mạn tiến triển (hoạt động):
+ GOT và GPT tăng nhẹ; GGT và GLDH tăng mạnh phản ánh sự tổn thương nặng tế
bào nhu mô gan.
+ CHE và các enzym đông máu giảm.
+ Bilirubin máu tăng.
Nếu điều trị không tốt, viêm gan mạn tiến triển dễ chuyển thành xơ gan; tiên
lượng bệnh xấu hơn.
1.2.3. Xơ gan
- Bilirubin thường tăng, có thể tăng dài trong nhiều năm,
chủ yếu là tăng bilirubin tự do (trừ trường hợp xơ gan do tắc mật thì tăng
bilirubin liên hợp). Sự dao động tăng, nhiều hay ít của bilirubin phản ánh tình
trạng chức năng của gan. Nồng độ bilirubin tăng cao hơn gặp ở xơ gan sau hoại
tử.
- Hoạt độ GOT tăng cao (( 300 u/l) ở 65- 75% số bệnh nhân xơ gan. GPT tăng, mức
tăng thấp hơn (< 200 u/l) trong 50% số bệnh nhân. Mức độ thay đổi GOT và GPT
phản ánh sự hủy hoại tế bào nhu mô gan.
- ALP tăng ở 40- 50% số bệnh nhân.
- Protein huyết tương bình thường hoặc giảm nhẹ. Albumin huyết tương có thể
bình thường khi có sự hủy hoại nhẹ tế bào gan. Sự giảm albumin huyết tương phản
ánh sự tiến triển của cổ trướng hay xuất huyết.
- Cholesterol TP huyết tương bình thường hoặc giảm nhẹ. Giảm cholesterol este
phản ánh tình trạng giảm chức năng gan do tế bào nhu mô gan bị hủy hoại nhiều
hơn.
- Bilirubin niệu tăng, urobilinogen bình thường hoặc tăng.
- Acid uric huyết tương thường tăng.
- Cân bằng điện giải và cân ằng acid-base phản ánh sự rối loạn kết hợp khác
nhau vào một thời điểm như suy dinh dưỡng, mất nước, xuất huyết, nhiễm toan
chuyển hóa, nhiễm toan hô hấp.
* Xơ gan do rượu:
- GOT, GPT tăng có thể tới 4 - 5 lần bình thường, mức độ tăng GOT > GPT.
- GGT tăng cao.
- GLDH tăng nhẹ.
- ALP, bilirubin có thể bình thường.
- CHE giảm.
Trong các xét nghiệm trên, chú ý xét nghiệm GGT, GLDH vì chúng phản ánh mức độ
nhiễm độc rượu và mức độ tổn thương tế bào gan. * Xơ gan sau viêm gan:
Tiên lượng bệnh nặng hơn so với xơ gan do rượu. Các xét nghiệm sinh hóa
thường thấy kết quả sau:
+ GOT và GPT tăng, mức tăng GPT > GOT.
+ GGT tăng, mức tăng ít hơn so với xơ gan do rượu.
+ ALP tăng.
+ CHE giảm.
+ Có thể có vàng da do bilirubin máu tăng.
+ GLDH tăng mạnh phản ánh sự hủy hoại mạnh tế bào nhu mô gan.
+ Nghiệm pháp galactose niệu: dương tính.
+ Bilirubin có thể giảm trong một số trường hợp viêm gan hay xơ gan.
Đối với xơ gan sau viêm gan cần phải kiểm tra và theo dõi 6 tháng/1 lần các enzym
ALP, GLDH, LDH, GGT. Nếu bệnh tiến triển xấu thì 3 - 4 tháng cần kiểm tra 1
lần.
* Xơ gan mật:
Xơ gan mật có 2 loại: xơ gan mật nguyên phát và xơ gan mật thứ phát.
+ Xơ gan mật nguyên phát:
- Các triệu chứng lâm sàng của ứ mật điển hình trong khoảng thời gian dài (có
thể kéo dài vài năm) kết hợp với tăng kháng thể IgM. Người ta dựa vào kháng thể
(của IgM) để phân biệt xơ gan mật nguyên phát và xơ gan thứ phát.
- Bilirubin bình thường ở giai đoạn sớm của ứ mật nhưng tăng ở 60% bệnh nhân
trong quá trình của bệnh và là một dấu hiệu cho chẩn đoán chắc chắn.
. Bilirubin trực tiếp tăng: 80% bệnh nhân có mức tăng cao hơn 85,5 (mol/l
(5mg/dl) và 20% bệnh nhân có tăng cao hơn 171 (mol/l (>10 mg/dl).
. Bilirubin gián tiếp bình thường hoặc tăng nhẹ.
- ALP huyết tương tăng rõ rệt ở 50% trường hợp, mức tăng > 5 lần so với bình
thường.
- ALP, GGT tăng rất mạnh phản ánh tình trạng ứ mật ở gan.
- GLDH, GOT, GPT tăng cao.
- 5’-nucleotidase, GGT tăng song song với ALP. (5’-nucleotidase bình thường:
2-15 U/l); ngoài ra còn tăng trong tắc đường dẫn mật trong và ngoài gan, tăng
trong viêm gan, chủ yếu là tăng trong trường hợp có ứ mật trong gan.
- CHE giảm ở giai đoạn muộn của bệnh.
- Cholesterol tăng rõ rệt.
+ Xơ gan mật thứ phát:
Xơ gan mật thứ phát có kết hợp với viêm đường mật và ứ mật, các xét nghiệm sinh
hóa thường có kết quả như sau:
- GOT, GPT, GLDH tăng cao so với bình thường.
- ALP, GGT tăng cao.
- CHE giảm ít và có thể bình thường. + Hội chứng tắc mật:
- Bilirubin TT tăng cao, bilirubin TP máu tăng.
- Phosphatase kiềm tăng.
- Cholesterol TP tăng.
- Bilirubin niệu dương tính, urobilinogen giảm, stercobilinogen giảm.
Xét nghiệm chức năng gan ( LFTs) dùng để phản ánh tình trạng hoạt động của gan.. Tuy nhiên ngoài ý nghĩa, lợi ích cũng có hạn chế của xét nghiệm chức năng gan (LFTs). LFTs không thể xác định được những bệnh cụ thể của gan. Để xác định cần có xét nghiệm chuyên sâu và đặc biệt hơn. Ngoài ra, để chẩn đoán bệnh gan cần có kết quả chẩn đoán hình ảnh, như siêu âm gan, chụp cắt lớp và cộng hưởng từ thường dùng để quan sát hình ảnh gan.
I.Tìm hiểu về xét nghiệm chức năng gan (LFTs)
Xét nghiệm chức năng gan để giúp bác sĩ đưa ra một vài nhận
định rằng đang có vấn đề gì đó với gan. Nhưng đừng hiểu sai về xét nghiệm này.
Trong khi LFTs thường được dùng để phản ánh tình trạng gan đang hoạt động tốt
không, xét nghiệm này có thể bị sai vì không phải bất kỳ xét nghiệm máu nào
cũng đánh giá chính xác tất cả các chức năng khác nhau của gan. Vì vậy, chỉ
giống như đèn pha và thiết bị đo trong ô tô, LFTs không phải là dấu hiệu hoàn
hảo để xác định chính xác bệnh. Tuy nhiên nó giúp cảnh báo cho bác sĩ rằng có
điều gì đó bất ổn với gan. Hơn nữa nó giúp cho bác sĩ xác định sự cần thiết
tiến hành thêm các xét nghiệm khác. Và khi kết hợp các kết quả xét nghiệm thêm này
với LFTs, bác sĩ sẽ có cơ sở tốt hơn để chẩn đoán liệu gan bị bệnh gì và có
đang hoạt động tốt không. Bằng việc lưu giữ một loạt kết quả LFTs từ những
tháng và năm trước đó, trong một số trường hợp cả bác sĩ và bệnh nhân có thể dự
đoán liệu tình trạng gan có ổn định không, có đư��c cải thiện không, có hồi phục
không hoặc xấu đi; biện pháp điều trị có đáp ứng không hoặc có cần thử biện
pháp khác không; và liệu đã đến lúc bệnh nhân cần phải cấy phép gan chưa.
LFTs bao gồm nhiều xét nghiệm máu khác nhau để kiểm tra nồng độ men gan;
bilirubin; và protein gan. Sau đây là các xét nghiệm này.
1.Men gan
Có 4 men gan khác nhau được đưa vào trong các xét nghiệm thông thường. Đó là aspartate aminotransferase (AST hoặc SGOT) và alanine aminotransferase (ALT hoặc SGPT) được biết đến như transaminase; và phosphate kiềm (AP) và gamma-glutamyl transferase (GGTP), được biết như men gan mật. Khi các men này tăng lên có thể biểu hiện của bệnh gan.
a.AST và ALT (transaminase)
AST và ALT thường liên quan đến viêm và/hoặc tổn thương tế bào
gan, một tình trạng được coi là tổn thương tế bào gan. Tổn thương gan điển hình
dẫn đến tình trạng rò gỉ men AST và ALT vào dòng máu.
Do AST được tìm thấy trong nhiều cơ quan khác ngoài gan bao gồm thận, cơ và
tim, việc tăng mức AST không phải luôn luôn (nhưng thường) cho thấy có vấn đề
về gan. Khi hoạt động thể lực mạnh cũng làm tăng nồng độ AST. Mặt khác, do ALT
chủ yếu có ở gan nên nồng độ ALT cao hầu như luôn phản ánh tình trạng gan có
vấn đề (tuy nhiên thì mức ALT bình thường không nhất thiết có nghĩa rằng gan
bình thường. Điều này được đề cập ở phần sau).
Mặc dù có thể dự đoán được nhưng mức transaminase máu cao không phải luôn luôn
biết mức độ viêm hoặc tổn thương gan. Đây là điểm quan trọng cần phải nhớ.
Khoảng trung bình của AST và ALT tương ứng là 0-40 IU/l và 0-45 IU/l. (IU/l là
đơn vị quốc tế trên lít và là cách thường được dùng nhiều nhất để định lượng
những men đặc biệt này). Nhưng nếu một người có mức ALT là 50 IU/l không phải
lúc nào cũng tốt hơn so với người có mức ALT 250 IU/l! Điều này do những xét
nghiệm máu đánh giá sự tổn thương hoặc viêm gan được lấy mẫu vào những thời
điểm đặc biệt. Ví dụ, nếu bị viêm gan và lấy mẫu vào thời điểm bệnh nhân mới
uống rượu vài giờ trước khi lấy máu thì mức transaminase cao hơn nhiều lần so
với những người không uống rượu. Cũng lý do tương tự, nếu gan đã bị tổn thương
từ nhiều năm trước do uống rượu nhiều – kết quả xét nghiệm máu ngày hôm nay cho
thấy bình thường có thể vẫn bị tổn thương gan.
Đi sâu hơn về vấn đề này, có nhiều yếu tố khác ngoài tổn thương gan có thể ảnh
hưởng tới nồng độ AST và ALT. Ví dụ transaminase ở nam cao hơn nữ, nam giới Mỹ
gôc Phi có mức AST cao hơn nam giới da trắng. Thậm chí thời điểm lấy máu trong
ngày cũng ảnh hưởng tới mức transaminase; dường như mức transaminase vào buổi
sáng và trưa cao hơn vào buổi tối. Thức ăn hầu như không ảnh hưởng rõ rệt tới
mức transaminase. Vì vậy, không khác biệt rõ rệt giữa lúc đói và lúc bình
thường. Transaminase cũng có thể thay đổi theo ngày.
Đôi điều về
khoảng tham khảo bình thường
Khi kết quả xét nghiệm được đưa cho bác sĩ, họ thường so sánh với giá trị thu
được từ một nhóm người khỏe mạnh. Khoảng của giá trị này được gọi là “giá trị
bình thường” được gọi là giới hạn tham khảo hoặc khoảng tham khảo. Giá trị cao
nhất và thấp nhất của khoảng này thường được gọi là giới hạn bình thường trên
và giới hạn bình thường dưới. Khoảng tham khảo này có thể khác nhau chút ít tùy
theo từng thời điểm và tùy vào từng phòng xét nghiệm. Bác sĩ sẽ chú ý đến giới
hạn này khi đọc từng kết quả xét nghiệm cụ thể.
Tỷ lệ ALT và AST cũng có thể mang lại thông tin có giá trị liên
quan đến mức độ và nguyên nhân bệnh gan. Hầu hết các bệnh gan thì mức tăng ALT
cao hơn mức tăng AST nhưng có 2 trường hợp ngoại lệ. Xơ gan và nghiện rượu thì
mức tăng AST cao hơn mức tăng ALT, thường tỷ lệ này là 2:1.
Mức tăng transaminase xảy ra do quá nhiều nguyên nhân nên chỉ giúp bác sĩ đưa
ra một nhận định không rõ ràng. Cần phải làm thêm các xét nghiệm khác để xác
định chính xác hơn xem gan bị bệnh gì. Những nguyên nhân sau có thể làm tăng
mức transaminase:
- Viêm gan do virus.
- Gan nhiễm mỡ.
- Bệnh gan do rượu.
- Bệnh gan do thuốc.
- Viêm gan tự miễn.
- Nhiễm độc thảo mộc.
- Bênh gan di truyền.
- U gan.
- Suy gan.
- Luyện tập gắng sức.
b.GGT và AP (Men gan mật)
Mức GGT và AP tăng có thể là biểu hiện của tắc mật hoặc tổn
thương, hoặc viêm đường mật. Những bệnh này thường có đặc điểm là giảm hoặc
không lưu thông đường mật, được gọi là ứ mật. Loại tổn thương gan kiểu này được
gọi là tổn thương gan mật, bệnh gan được gọi là bệnh gan mật (xơ gan mật tiên
phát là một ví dụ của bệnh gan mật). Ứ mật trong gan nói đến tình trạng tắc
đường mật hoặc tổn thương bên trong gan. Ứ mật trong gan có thể gặp ở người bị
xơ gan mật tiên phát hoặc ung thư gan . Ứ mật ngoài gan nói đến tình trạng ứ
mật hoặc tổn thương ngoài gan. Ứ mật ngoài gan có thể xảy ra ở bệnh nhân bị sỏi
mật.
Khi bị viêm hoặc tắc đường mật, GGT và AP có thể bị tràn ra như mở kho dự trữ
và đi vào dòng máu. Những men này tăng lên rõ rệt – gấp gần 10 lần giá trị bình
thường ở giới hạn trên.
GGT được tìm thấy chủ yếu trong gan. AP được tìm thấy chủ yếu trong xương và
gan nhưng cũng có thể ở nhiều cơ quan khác như ruột, thận và nhau thai. Vì vậy,
mức AP tăng chỉ phản ánh có vấn đề về gan nếu có kèm theo tăng GGT. Nên nhớ
rằng GGT có thể tăng và không kèm theo tăng AP, vì GGT dễ bị ảnh hưởng bởi rượu
và những thuốc có độc tính với gan. Lưu ý rằng, những người hút thuốc thường có
mức AP và GGT cao hơn những người khác với những lý do chưa biết rõ. Tương tự,
nồng độ AP và GGT gần như phản ánh chính xác sau khi nhịn đói 12 giờ. Bắt đầu
có sự phức tạp khi đánh giá xét nghiệm chức năng gan bất thường!
Nồng độ AP bình thường vào khoảng 35-115 IU/l, và nồng độ GGTP bình thường vào
khoảng 3-60 IU/L. Một số nguyên nhân sau có thể làm tăng nồng độ AP và GGTP:
- Xơ gan mật tiên phát.
- Bệnh gan nhiễm mỡ ở người không nghiện rượu.
- Viêm đường mật xơ hóa tiên phát
- Bệnh gan do rượu
- U gan
- Bệnh gan do thuốc
- Sỏi mật.
2.Bilirubin
Bilirubin là một chất có màu vàng do gan sản xuất ra khi nó
tham gia vào quá trình tái tạo hồng cầu già. Khi chất này tăng lên, mắt và da
cũng có màu vàng (vàng da), nước tiểu sẫm màu như trà đặc, phân có màu đất sét
nhạt. Khi có tăng bilirubin, trong khi không có sự bất thường trong các xét
nghiệm liên quan đến gan, thấy rõ khi thăm khám thực thể, thường đây là những
bất thường liên quan tới gan với phần lớn dân số.
Một cụm từ mà bác sĩ thường được nghe từ bệnh nhân là “tôi không thể bị bệnh
gan vì tôi không bị vàng da”. Mọi người thường ngạc nhiên khi biết rằng hầu hết
những người bị bệnh gan không bao giờ bị vàng da. Thực tế là mức tăng bilirubin
thậm chí không liên quan chút nào tới bệnh gan. Sự chuyển hóa của bilirubin
phức tạp và trải qua nhiều bước. Nếu trục trặc ở một trong số những bước này sẽ
làm tăng nồng độ bilirubin. Vì nó có liên quan tới gan, nên mức tăng bilirubin
thường đi kèm với tình trạng gan kém hoặc tắc mật. Một số nguyên nhân sau có
thể gẫn đến tăng bilirubin:
- Xơ gan mật tiên phát
- Viêm đường mật xơ hóa tiên phát
- Viêm gan do rượu
- Tan máu – Hồng cầu bị vỡ
- Bệnh gan do thuốc
- Sỏi mật
- Suy gan hoặc tình trạng gan kém nói chung
- Những khối u có ảnh hưởng đến gan, đường mật hoặc túi mật.
- Viêm gan do virus.
- Rối loạn chuyển hóa bilirubin lành tính mang tính gia đình, như hội chứng Gibert.
Tăng bilirubin thường đi kèm với tăng AP và GGT. Khi tăng đồng thời bilirubin, AP và GGT có thể bị ứ mật. Tuy nhiên nếu mức bilirubin vẫn bình thường nhưng GGT và AP cao, thì có thể bị ứ mật không vàng da. Những bệnh có đặc điểm bilirubin cao, GGT và AP cao thường là bệnh gan mật.
3.Protein gan
Albumin, prothrobin (yếu tố II) và globulin miễn dịch là những protein được sản xuất chủ yếu bởi gan. Khi có bất thường về mức protein này có thể giúp xác định liệu có bị bệnh gan trầm trọng hay không.
4.Albumin
Mức albumin bình thường trong máu khoảng 4g/dl. Khi gan bị tổn thương nghiêm trọng, nó mất khả năng sản xuất albumin. Những người bị bệnh gan mãn tính đi kèm với tình trạng xơ gan thường có mức albumin dưới 3 g/dl. Mức albumin thấp nói chung chỉ tình trạng sức khỏe và dinh dưỡng kém và không chỉ có riêng ở bệnh gan.
Đôi điều về hội chứng Gilbert
Đôi điều về hội chứng Gilbert là một rối loạn chuyển hóa bilirubin di truyền,
rất phổ biến và lành tính. Nó xuất hiện ở khoảng 4-9% dân số. Chúng có đặc điểm
là tăng mức bilirubin không liên tục. Hội chứng này thường được phát hiện khi
xét nghiệm máu thường xuyên, khi xét nghiệm này được tiến hành để đánh giá
những bệnh khác, hoặc trước khi tuyển dụng hoặc trước khi tham gia bảo hiểm.
Mức bilirubin thường tăng tới 3 mg/dl nhưng hiếm khi vượt quá mức 5 mg/dl. Mức
tăng thường rõ rệt khi đói, stress, kỳ kinh nguyệt, hoặc khi bị ốm không phải
do gan hoặc khi bị nhiễm khuẩn. Vàng da là bất thường duy nhất phát hiện thấy
khi khám thực thể. Một số người có những triệu chứng thông thường như khó chịu vùng
bụng, buồn nôn hoặc mệt mỏi; tuy nhiên một số chuyên gia lại cho rằng những
triệu chứng này là do lo lắng. Tất cả các xét nghiệm chức năng gan đều bình
thường. Không khuyến cáo làm chẩn đoán hình ảnh như siêu âm gan và sinh thiết
gan, nhưng nếu làm thì sẽ bình thường. Không có biến chứng lâu dài từ hội chứng
vô hại này và không cần điều trị.
5.Thời gian prothrombin
Gan sản xuất ra phần lớn các yếu tố tạo ra cục máu đông mà cơ thể dùng để ngăn chặn sự chảy máu. Thời gian để tạo ra một cục máu đông này gọi là thời gian prothrombin (PT), thông thường khoảng từ 9-11 giây. Vitamin K là một thành phần quan trọng của quá trình tạo cục máu đông. Nếu gan bị tổn thương nghiêm trọng hoặc bị thiếu vitamin K (đôi khi xảy ra ở bệnh gan mật như xơ gan mật tiên phát), PT sẽ kéo dài hơn nhiều so với bình thường, do vậy làm tăng nguy cơ chảy máu quá mức. Trong một vài trường hợp, tiêm vitamin K giúp PT trở về bình thường. Khi tiêm vitamin K mà có cải thiện được PT cho thấy rằng gan vẫn còn chức năng. Khi PT không bình thường hóa được khi tiêm vitamin K, tình trạng đó gọi là bệnh chảy máu (có xu hướng xảy máu quá mức), tổn thương gan nặng và/ hoặc có suy gan. Để điều chỉnh sự khác nhau trong các phòng thí nghiệm cách đo PT, thường dùng tỷ lệ quốc tế (INR).
6.Globulin miễn dịch
Globulin miễn dịch là những protein liên quan đến hệ miễn dịch, một vài trong số này được được tạo ra ở gan và một số được tạo ra từ bạch cầu – tế bào máu trắng. Một vài loại globulin miễn dịch tăng lên ở nhiều người bị bệnh gan mãn tính. Mức tăng globulin miễn dịch A, G và M (IgA, IgG, IgM) có thể là biểu hiện của bệnh gan nào đó (xem bảng 3.1)
7.Tiểu cầu
Tiểu cầu là tế bào máu giúp hình thành cục máu đông. Lá lách đóng vai trò như một kho dự trữ tiểu cầu. Ở những người xơ gan, lá lách thường phải làm việc nhiều để bù lại chức năng bị suy giảm do tổn thương gan. Điều này thường làm cho lách to và số lượng tiểu cầu giảm, được gọi là giảm tiểu cầu. Bình thường tiểu cầu có số lượng từ 150-400 x 103/ microlit. Nếu bệnh nhân thấp hơn 150 x 103/ microlit được coi là giảm tiểu cầu, và nên nghĩ đến khả năng bị xơ gan.
8.Amoniac (NH3)
Amoniac là một sản phẩm phân hủy của amino acid. Tăng mức ammoniac trong máu có thể là một dấu hiệu của bệnh não. Một số bác sĩ dựa vào mức ammoniac để theo dõi bệnh nhân bị bệnh não, nhưng có một vài nghiên cứu cho thấy ít có mối tương quan giữa nồng độ ammoniac và mức độ của bệnh não, và việc sử dụng nó vào mục đích này còn đang còn gây tranh cãi. Không khuyến cáo xác định nồng độ ammoniac cho bệnh nhân bị bệnh gan, vì bất kỳ bệnh gan nào cũng có thể làm tăng nhẹ thông số này và không phải là chẩn đoán của bệnh não. Cuối cùng, có nhiều yếu tố làm tăng giả mức ammoniac mà có thể biết được sự sai số bao gồm hút thuốc, dùng một vài thuốc nhất định (như acid valproic), tình cờ bị lẫn mồ hôi vào mẫu máu trong quá trình lấy máu và phòng thí nghiệm chậm làm phân tích máu.
9.Một vài lưu ý cuối cùng về xét nghiệm máu
Nên nhớ một số loại xét nghiệm máu riêng biệt không thể dùng để
dự đoán sự tiển triển của bệnh gan. Bản thân những xét nghiệm này ít khi biểu
hiện rõ rệt. Chúng chỉ có ý nghĩa khi kết hợp với một số các yếu tố khác, chúng
phải được đánh giá kỹ lưỡng bởi bác sĩ. Nói cách khác, không nên quá đề cao
những xét nghiệm riêng lẻ này. Mỗi xét nghiệm chỉ là một phần của sự phức tạp.
Trong hầu hết các trường hợp, các xét nghiệm này chỉ đưa ra nhận định rằng có
vấn đề gì bất ổn – chỉ là bước đầu tiên để đi đến sự chẩn đoán chính xác.
Sau khi đánh giá các kết quả xét nghiệm thông thường, thường yêu cầu làm thêm
xét nghiệm máu cụ thể để tìm ra nguyên nhân chính xác của các bất thường về
gan. Bảng 3.1 liệt kê các xét nghiệm máu được dùng để chẩn đoán những bệnh
gan cụ thể. Nói chung, khoa xét nghiệm đưa cho bác sĩ kết quả xét nghiệm
máu thông thường trong vòng 1 hoặc 2 ngày; nhưng kết quả xét nghiệm máu riêng
biệt hơn có thể cần tới 2 tuần, phụ thuộc vào từng khoa xét nghiệm. Thời gian
chờ đợi này thật không dễ dàng gì (bệnh nhân cần phải kiên nhẫn).
Bảng 3.1 Xét nghiệm máu được dùng để chẩn đoán những bệnh cụ thể của gan
Bệnh gan |
Xét nghiệm máu |
Đường lây |
Viêm gan A |
Kháng thể viêm gan A IgM và IgG |
Đường ăn uống |
Viêm gan B |
Kháng thể nhân viêm gan B (HbcAb) |
Đường máu, sinh dục, mẹ mang thai lây con |
Viêm gan C |
Kháng thể virus viêm gan C (HCVAb) |
Đường máu, sinh dục, mẹ mang thai lây con. |
Viêm gan tự miễn |
Kháng thể kháng nhân (ANA) |
Không lây |
Xơ gan mật tiên phát |
Kháng thể kháng (AMA) |
Không lây |
Bệnh gan do rượu |
Tăng nồng độ cồn trong máu |
Không lây, do uống nhiều rượu |
Nhiễm sắc tố sắt mô |
Sắt |
Không lây |
Ung thư gan |
Alpha-Fetoprotein (AFP) > 400 ng/dl |
Không lây |
II.Tìm hiểu về chẩn đoán hình ảnh
Sau khi tiến hành xét nghiệm máu, bác sĩ sẽ muốn xem hình ảnh
tổng thể của gan. Vì vậy, bước tiếp theo là đi đến phòng X quang để có được một
hoặc hơn hình ảnh của gan.
Có một số phương pháp được dùng để thu được hình ảnh của gan bao gồm siêu âm,
chụp cắt lớp vi tính hoặc còn gọi là CT hoặc chụp cắt lớp CAT hoặc chụp cộng
hưởng từ. Tất cả phương pháp này không cần phải can thiệp ngoại khoa, nó không
làm đau và có thể tiến hành khi bệnh nhân đang tỉnh và được nằm xuống. Một hoặc
hơn biện pháp này được thực hiện để định vị gan chính xác khi nó bị nghi ngờ có
liên quan tới cơ quan khác; để xác định xem có những khối bất thường trong gan
hay không; để đánh giá xem gan có bị to hoặc bị teo hay không; và/hoặc xem có
sỏi mật trong túi mật hay không.
1.Siêu âm
Siêu âm được cho là phương pháp chẩn đoán hình ảnh được dùng
nhiều nhất để xem hình ảnh thai nhi ở phụ nữ mang thai, thực tế nó là phương
pháp chẩn đoán hình ảnh được dùng nhiều nhất để xem hình ảnh gan. Đây là phương
pháp nhanh và ít tốn kém để quan sát hình ảnh của cơ quan này. Mặt dù được thực
hiện tại phòng X quang nhưng thực tế không sử dụng tia X – sóng âm để thu được
hình ảnh.
Siêu âm thường được tiến hành vào lúc đói. Khi đó túi mật chứa đầy mật và dễ
dàng nhìn thấy sỏi mật. Thực tế có tới 95% số sỏi mật được phát hiện ra nhờ
siêu âm. Siêu âm cũng dùng để phát hiện những khối u trong gan có thể lành tính
(không ung thư) hoặc ác tính (ung thư), nhưng nó không thể phân biệt được 2
loại này. Hơn nữa siêu âm có thể ước lượng được kích thước khối u. Tuy nhiên
ngay cả khi siêu âm cho kết quả bình thường, điều này không có nghĩa là gan
không có vấn đề. Thực tế, có nhiều người bị bệnh gan nhưng kết quả siêu âm vẫn
thấy bình thường. Vì vậy đừng ngạc nhiên nếu bác sĩ yêu cầu làm thêm các xét
nghiệm sau khi siêu âm.
2.Chụp cắt lớp và cộng hưởng từ
Chụp cắt lớp và cộng hưởng từ đưa ra hình ảnh toàn diện hơn của gan liên quan đến các cơ quan liền kề. Nó thường được sử dụng để đánh giá sâu hơn về khối u phát hiện được bằng siêu âm. Chụp cắt lớp sử dụng bức xạ gamma bằng cách cho tia X đi qua gan. Bất kỳ khối u nào đều cản tia X trên đường đi và lưu lại 1 hình ảnh. Với cộng hưởng từ, bức xạ từ sẽ tạo ra hình ảnh của gan. Cộng hưởng từ hữu ích trong việc phát hiện ra gan nhiễm mỡ, quá tải sắt, và u mạch máu – một khối u máu lành tính.
3.Một vài điều kết luận về chẩn đoán hình ảnh
Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh đem lại nhiều kết quả có ích làm tăng sự chính xác trong chẩn đoán. Tuy nhiên, ngay cả các kỹ thuật tiên tiến này cũng không thể biết được toàn bộ quá trình đang diễn ra trong gan. Điều quan trọng là phải hiểu rằng gan được ngụy trang rất tốt. Ngay cả những người bị bệnh gan nặng và xơ gan có thể cho kết quả chẩn đoán hình ảnh bình thường. Đây là điều quan trọng cần nhớ và được lặp đi lặp lại. Siêu âm, chụp cắt lớp và cộng hưởng từ có thể cho kết quả hoàn toàn bình thường tại bất kỳ giai đoạn nào của bệnh gan. Điều này giải thích tại sao bác sĩ phải dựa vào sinh thiết gan, như một tiêu chuẩn vàng để đánh giá bệnh gan.
III.Kết luận
Sau khi xem xong phần trên bạn đã có thể hiểu rằng xét nghiệm máu và chẩn đoán hình ảnh có thể đưa ra một vài nhận định quan trọng, nhưng không phải lúc nào cũng xác định chính xác đang có bệnh gì với gan. Nó cũng không giúp đánh giá được mức độ viêm hoặc tổn thương gan. Sinh thiết gan là xét nghiệm duy nhất có thể cung cấp chính xác thông tin này. . Nhưng trước hết, điều quan trọng là phải gặp bác sĩ chuyên khoa có kinh nghiệm để xác định khi nào cần làm sinh thiết gan và có kỹ năng để đọc kết quả và sử dụng nó một cách hiệu quả nhất phục vụ cho việc điều trị. Điều này cũng lý giải những kỹ năng gì mà bác sĩ chuyên khoa cần có và có thể thu thập được thông tin này ở đâu và khi nào
(ST)