Bệnh basedow

Hoaibui2395 Hoaibui2395 @Hoaibui2395

Bệnh basedow

18/04/2015 03:27 PM
798
Bệnh basedow là gì? Triệu chứng của bệnh basedow. Nguyên nhân gây bệnh basedow. Phòng ngừa và chữa trị bệnh basedow như thế nào?

Bệnh basedow là gì?

Năm 1835, bác sĩ người Mỹ Robert James Graves đã mô tả một loại bệnh bao gồm các triệu chứng tăng chuyển hóa, bướu giáp lan tỏa và lồi mắt. Một thời gian sau, vào năm 1840, Karl Aldoph Von Basedow đã nghiên cứu đầy đủ về bệnh này và từ đó bệnh được mang tên ông. Ở Việt Nam, người ta vẫn quen gọi Basedow là bệnh bướu cổ lồi mắt.

Trong thực tế lâm sàng, bệnh Basedow thường có biểu hiện của hội chứng cường giáp: Bệnh nhân ăn nhiều, tinh thần bất ổn, mất ngủ hoặc khó ngủ, sụt cân rất nhiều, run tay v.v... và kèm theo bướu giáp lan tỏa.

Việc xác định chẩn đoán cần có sự thăm khám của các bác sĩ chuyên khoa Nội tiết và Phẫu thuật Lồng ngực Tim mạch. Ngoài việc khám lâm sàng, cần phải làm thêm một số xét nghiệm chuyên biệt, trong đó quan trọng nhất là các xét nghiệm định lượng hormone tuyến giáp: T3, T4 & TSH. Trong một số trường hợp gặp khó khăn trong chẩn đoán, cần làm thêm xét nghiệm xạ hình và xạ ký tuyến giáp với iode đồng vị phóng xạ

Nhưng ai thường mắc bệnh Basedow

Basedow là một bệnh phổ biến trong các bệnh nội khoa nói chung và các bệnh nội tiết nói riêng. Bệnh thường gặp ở mọi lứa tuổi, song phần lớn là ở độ tuổi lao động, do đó ảnh hưởng rất nhiều đến sức khỏe và năng suất lao động của bệnh nhân.

Ở các nước phương Tây như Mỹ, tỷ lệ người mắc bệnh chiếm từ 0,02-0,4% dân số, còn các vùng miền Bắc nước Anh tỷ lệ này lên đến 1%. Tại Việt Nam, tỷ lệ người mắc bệnh cũng khá cao, chiếm từ 10-39% những người có bướu giáp đến khám tại bệnh viện.

Trong số những người bị bệnh có đến trên 80% là phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ trẻ từ 21-30 tuổi. Ðiều này rất quan trọng trong vấn đề lựa chọn phương pháp điều trị.


Nguy cơ khi mắc bệnh Basedow

Bệnh Basedow rất nguy hiểm cho hệ tim mạch, nếu không được điều trị hoặc điều trị không đúng cách, bệnh nhân sẽ tử vong trong tình trạng suy tim, suy kiệt và đặc biệt là trong tình trạng cơn bão giáp, một biến chứng rất nặng của bệnh.

Khi bị cơn bão giáp, bệnh nhân sẽ sốt cao 40-410C, tinh thần hoảng loạn, lo lắng hoặc kích thích dữ dội, tim đập rất nhanh, có khi lên đến trên 150 lần một phút hoặc bị rung thất.

Cơ chế bệnh sinh.
Từ khi phát hiện ra bệnh Basedow (1840) đến nay đã có nhiều giả thuyết về cơ chế bệnh sinh của bệnh. Hiện nay dưới ánh sáng của miễn dịch học, người ta biết rằng bệnh được sinh ra là do cơ chế tự miễn dịch. Đa số các tác giả cho rằng đây là một rối loạn tự miễn dịch cơ quan đặc hiệu với sự xuất hiện của kháng thể kháng thụ cảm thể tiếp nhận TSH. Kháng thể này có tác dụng kích thích tuyến giáp nên được gọi là kháng thể kích thích tuyến giáp- thyroid stimulating immunoglobulins (TSI) hay thyroid stimulating antibodies (TSAb), kháng thể này tác động như một chủ vận TSH (TSH agonist) làm tăng tổng hợp hormon giáp và làm tăng diễn đạt kháng nguyên tuyến giáp. Về bản chất, các TSI là những globulin miễn dịch G (IgG). Ngoài các kháng thể có tác dụng kích thích tuyến giáp, trong huyết thanh bệnh nhân Basedow còn lưu hành các kháng thể có tác dụng ức chế TSH. Cả hai loại kháng thể kích thích và ức chế tuyến giáp được gọi chung là kháng thể đối với thụ thể TSH-TSH receptor antibodies (TRAb), các kháng thể này có thể định lượng được thông qua sự ức chế gắn kết của TSH với các thụ thể của nó. Cả hai loại kháng thể này đều là các globulin miễn dịch ức chế gắn TSH-TSH binding inhibitory immunoglobulin (TBII). Có thể cho rằng những tình trạng nhiễm độc hormon tuyến giáp trước đây tồn tại nay mất đi đã phản ánh tính vượt trội của các TRAb ức chế so với các TRAb kích thích. Mặt khác sự mất đi các yếu tố kích thích trong huyết thanh ở bệnh nhân nhiễm độc hormon tuyến giáp đã được điều trị cho phép nghĩ đến sự thuyên giảm hoặc ổn định lâu dài của bệnh. Sự diễn đạt lạc chỗ kháng nguyên HLA-DR trên bề mặt màng nền của tế bào tuyến giáp là điều kiện tiên quyết để khởi động bệnh tuyến giáp tự miễn.
Do sự thiếu hụt của cơ quan đặc hiệu về chức năng tế bào lympho T ức chế (T suppressor -Ts), các yếu tố môi trường (stress, nhiễm khuẩn, thuốc, chấn thương...) có thể là nguyên nhân giảm số lượng và chức năng Ts làm thiếu hụt tế bào lympho T ức chế cơ quan đặc hiệu, kết quả là giảm sự ức chế các quần thể của tế bào lympho T hỗ trợ trực tiếp cơ quan tuyến giáp (Th-T helper). Các lympho T hỗ trợ đặc hiệu này khi có mặt các monocyte và kháng nguyên đặc hiệu, thì một mặt sản xuất ra γ-interferon (IFNγ), mặt khác kích thích lymphocyte B đặc hiệu sản xuất ra kháng thể kích thích tuyến giáp (TSAb).
TSAb tăng tổng hợp hormon tuyến giáp và làm tăng khả năng trình diện kháng nguyên tuyến giáp, IFN γ là nguồn gốc của hiện tượng trình diện kháng nguyên HLA- DR trên bề mặt tế bào tuyến giáp, tác dụng này sẽ tăng lên hờ TSAb và TSH. Kết quả là các tế bào tuyến giáp trở thành các tế bào trình diện kháng nguyên, vì vậy sẽ tham gia vào kích thích các tế bào lympho T hỗ trợ đặc hiệu, duy trì mãi quá trình bệnh. Mặt khác, các hormon
giáp tiết quá nhiều sẽ tác động trên tổng thể các tế bào lympho T ức chế cả về số lượng và chức năng của chúng, hơn nữa về sau sẽ kích thích các tế bào lympho T hỗ trợ.
Tuy nhiên nếu không có sự bất thường về các tế bào lympho T ức chế đặc hiệu, vòng luẩn quẩn liên tục sẽ không xảy ra.
Bệnh hay gặp ở nữ tới 80% các trường hợp, tỷ lệ bị bệnh ở nữ và nam là 9/1, thường ở phụ nữ lứa tuổi 20- 50, hiếm gặp ở trẻ em < 10 tuổi

Lâm sàng.


Lâm sàng của bệnh Basedow được biểu hiện bằng sự thay đổi chức năng ở nhiều cơ quan, do hiện tượng dư thừa hocmon tuyến giáp trong đó các cơ quan bị ảnh hưởng rõ nét nhất bao gồm: hệ thần kinh, tim mạch, cơ, quá trình chuyển hoá. Lâm sàng của những thay
đổi trên được biểu hiện bằng tình trạng được gọi là nhiễm độc giáp.


Nhiễm độc hormon tuyến giáp:


+ Rối loạn điều hoà nhiệt: cảm giác sợ nóng, da nóng và sốt nhẹ 37,5 o C- 38oC. Khi khám bàn tay bệnh nhân thấy có các đặc điểm: ấm, ẩm ướt và như mọng nước- bàn tay “Basedow”.
+ Rối loạn chuyển hoá: uống nhiều, khát tăng lên có khi dẫn tới tiểu nhiều ở mức độ nào đó. Bệnh nhân ăn nhiều, mau đói, cũng có thể ăn vẫn bình thường hoặc kém đi. Đa số gầy sút cân nhanh, ở một số ít bệnh nhân nữ trẻ tuổi có khi không sút cân thậm chí tăng cân nghịch thường.
Khoảng 50% bệnh nhân có các triệu chứng rối loạn tiêu hoá: tiêu chảy không kèm đau quặn, 5-10 lần/ngày. Nếu là người bị táo bón thường xuyên thì sự bài tiết phân trở lại bình thường. Khi mới bị bệnh có thể có tăng tiết dịch dạ dày, với thể nặng và bệnh kéo dài có thể vô toan. Các triệu chứng tiêu hoá trên là do tăng nhu động ruột và giảm chức năng tiết của các tuyến thuộc ống tiêu hoá. Tăng tiết hormon tuyến giáp đưa đến loạn dưỡng lipit, protit trong gan, giảm hoạt tính của nhiều men gan. Bệnh nặng có thể gây giảm protein huyết tương, rối loạn tổng hợp và phân hủy cholesterol, điều động axit béo không bão hoà từ các kho dự trữ, rối loạn dinh dưỡng và thiếu oxy trong các tế bào gan. Những rối loạn trên đây cuối cùng đưa đến loạn dưỡng và xơ gan. Vàng da là tiền triệu của tình trạng loạn dưỡng cấp của gan. Các chức năng ngoại tiết của tuyến tụy cũng thường bị rối loạn, có thể gây tăng đường máu.
+ Biểu hiện tim mạch:
- Rối loạn chức năng tim mạch là những thay đổi xuất hiện sớm, rõ nét nhất khi bị Basedow. Hormon tuyến giáp ảnh hưởng đến chức năng tim mạch thông qua 3 cơ chế chủ yếu:
. Hormon tuyến giáp trực tiếp tác động lên tế bào cơ tim.
. Tương tác giữa hormon tuyến giáp và hệ thần kinh giao cảm.
. Tác động gián tiếp lên tim thông qua sự thay đổi tuần hoàn ngoại vi và tăng tiêu thụ ôxy ở ngoại biên.

- Các biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng tim mạch có thể chia thành các hội chứng sau:
. Hội chứng tim tăng động: đó là các biểu hiện hồi hộp đánh trống ngực, cảm giác nặng ngực. Nhịp tim nhanh là triệu chứng sớm nhất và hầu như bao giờ cũng có, mạch nhanh thường xuyên, kể cả lúc nghỉ và khi ngủ. Nếu mức độ nặng, mạch có thể lên tới 140 lần/phút hoặc hơn nữa. Các cơn nhịp nhanh tiến triển kiểu Bouveret, nhịp nhanh trên thất có thể gặp. Đa số là nhịp nhanh xoang nhưng có thể có loạn nhịp dưới dạng ngoại tâm thu nhĩ hoặc thất.
Tình trạng tim tăng động được biểu hiện bằng mạch căng và nảy giống như trong hở van động mạch chủ, rõ nhất là đối với động mạch cảnh và động mạch chủ bụng, mỏm tim thường đập mạnh và rất dễ nhìn thấy.
Huyết áp tâm thu có thể tăng, huyết áp tâm trương bình thường hoặc giảm làm hiệu số huyết áp rộng ra.
Nghe tim có thể thấy tiếng T1 đanh ở mỏm tim, T2 đanh tách đôi ở nền tim, đôi khi có tiếng thổi tâm thu cơ năng ở mỏm tim hoặc liên sườn III- IV cạnh ức trái do tăng cung lượng tim và tăng tốc độ dòng máu.
Biểu hiện tình trạng tim tăng động trên điện tim thường là : tăng biên độ của các sóng P,R,T; đoạn PQ ngắn lại có thể xuất hiện hội chứng Wolf-Parkinson-White, tăng chỉ số Sokolow- Lyon thất trái mà không có dày thất trái.
. Hội chứng suy tim:
Rối loạn huyết động là biểu hiện thường gặp và xuất hiện sớm, nếu rối loạn huyết động nặng và kéo dài sẽ dẫn đến suy tim. Trong suy tim do bệnh Basedow cung lượng tim tăng có thể lên tới 8-16 lít/phút. Suy tim thường hay xuất hiện ở bệnh nhân cao tuổi hoặc đã bị bệnh tim trước khi nhiễm độc giáp. Tim to chủ yếu thất trái, tăng tỷ lệ trọng lượng tim/ trọng lượng cơ thể do cơ tim phì đại. Tuy vậy do có tăng cung lượng tim nên triệu chứng
suy tim trên lâm sàng thường nghèo nàn, không điển hình. ở bệnh nhân suy tim do Basedow vẫn còn biểu hiện của hội chứng tim tăng động.
. Rung nhĩ: là một biến chứng hay gặp trong nhiễm độc giáp. Khác với rung nhĩ có nguyên nhân do các bệnh tim mạch, rung nhĩ do cường chức năng tuyến giáp có một số đặc điểm sau:
Lúc đầu chỉ là kịch phát trong thời gian ngắn sau đó tái phát nhiều lần trở nên thường xuyên.
Nếu như trước đây cho rằng rung nhĩ trong Basedow không gây huyết khối thì những nghiên cứu gần đây cho thấy không hẳn như vậy, huyết khối vẫn có thể xảy ra và có thể gây tắc mạch.
Rung nhĩ do Basedow thường gặp ở bệnh nhân cao tuổi hoặc trên nền vữa xơ động mạch, bệnh van tim, tăng huyết áp. Rung nhĩ có thể hết khi bình giáp, tuy vậy một số bệnh nhân rung nhĩ còn tồn tại cả khi đã bình giáp, nếu sau 4 tháng bình giáp mà rung nhĩ còn tồn tại thì rất khó có khả năng điều trị trở về nhịp xoang được.
. Hội chứng suy vành:
Tăng cung lượng tim lâu ngày sẽ làm cho tim phì đại, nhất là đối với thất trái và làm cho công của cơ tim tăng lên, dẫn đến tăng nhu cầu về ôxy đối với cơ tim. Dự trữ cơ tim thường là hạn hẹp vì hiệu số động-tĩnh mạch về ôxy nói chung thấp hơn nhiều so với các cơ vân khác. Tăng công của cơ tim sẽ làm cho dự trữ vành giảm, đặc biệt trên những bệnh nhân lớn tuổi đã có xơ vữa động mạch vành, làm hẹp lòng động mạch có thể gây cơn đau thắt ngực. Cơn đau thắt ngực có thể gặp kể cả khi nghỉ và gắng sức. Cơn đau thắt ngực sẽ giảm đi hoặc khỏi hẳn sau khi bệnh nhân trở về trạng thái bình giáp. Nhồi máu cơ tim trong bệnh Basedow rất hiếm gặp.
+ Thần kinh- tinh thần- cơ:
Triệu chứng thần kinh- tinh thần là những biểu hiện sớm và dễ nhận biết.
Bệnh nhân bồn chồn, tính tình hay thay đổi dễ nổi nóng, giận dữ song có thể cũng dễ xúc động. Tổn thương thần kinh trung ương được xem như một bệnh lý não do nhiễm độc hormon tuyến giáp, bệnh nhân thường đau đầu, chóng mặt, sợ ánh sáng, rối loạn giấc ngủ, tăng phản xạ gân xương, xuất hiện các phản xạ dị thường, đôi khi có liệt và teo cơ.
Bệnh nhân thường mệt mỏi cả về thể lực lẫn trí lực, khả năng lao động giảm sút, có thể kèm theo các rối loạn vận mạch: đỏ mặt từng lúc, toát mồ hôi.
Run tay tần số cao, biên độ nhỏ, thường run đầu ngón, có thể run cả lưỡi, môi, đầu, chân. Run thường xuyên không thuyên giảm khi tập trung vào một việc khác, mức độ run phụ thuộc vào mức độ của bệnh.
Biểu hiện tổn thương cơ có thể ở các mức độ khác nhau. Có thể mỏi cơ, yếu cơ, đau cơ, nhược cơ và liệt cơ. Tổn thương cơ hay gặp ở bệnh nhân nam giới, có đặc điểm tiến triển từ từ, ngày càng nặng. Có thể teo cơ đặc biệt ở các vùng cơ gốc chi (vai, đùi). Khi có nhược cơ có kết hợp với bệnh Basedow yếu cơ chủ yếu là các cơ tham gia vận động nhãn cầu, cơ nhai, nuốt và nói.Trường hợp nặng có thể liệt cơ hô hấp và là nguyên nhân gây tử vong.
Liệt cơ chu kỳ do nhiễm độc giáp thường gặp ở những thể Basedow nặng, bệnh kéo dài. Liệt thường xuất hiện đột ngột biểu hiện bằng triệu chứng mệt lả khi đi lại hoặc đứng lâu. Một số trường hợp liệt nhẹ ở chân, tay hoặc thận, mất phản xạ hoặc mất hoàn toàn kích thích điện. Nếu mức độ nặng có thể liệt hoàn toàn tất cả các cơ, thời gian kéo dài cơn liệt từ một vài giờ tới vài ngày và sẽ hết đi nhờ tác dụng của các thuốc kháng giáp tổng hợp. Có những cơn liệt do não, tủy bị nhiễm độc hormon tuyến giáp hoặc do giảm nồng độ kali huyết tương, có thể cắt cơn bằng phương pháp dùng kali.
Rối loạn tâm thần có thể xảy ra nhưng rất hiếm. Có thể có cơn kích động hoặc tình trạng lú lẫn hay hoang tưởng.
3.2. Bướu tuyến giáp:
Tuyến giáp to ở các mức độ khác nhau, thường độ II hoặc III, to ở phía trước, mật độ mềm, bướu lan toả hoặc hỗn hợp. Thông thường thùy phải to hơn thùy trái. Không có biểu hiện của viêm, bướu có tính chất của bướu mạch: có rung miu khi sờ, khi nghe có tiếng thổi tâm thu hoặc tiếng thổi liên tục, hay gặp ở các cực trên của mỗi thùy. Bướu có thể to vòng quanh khí quản (bướu hình nhẫn) dễ chèn ép gây khó thở; có thể nằm sau xương ức, cá biệt có trường hợp nằm ở gốc lưỡi. 


  Bệnh lý mắt do Basedow(ophthalmopathy):


Có khoảng trên 50% bệnh nhân Basedow có biểu hiện bệnh lý mắt trên lâm sàng. Tổn thương mắt thường ở cả hai bên, đôi khi rõ rệt hơn ở một bên so với bên kia.
+ Triệu chứng cơ năng: chói mắt, chảy nước mắt, cộm như có bụi hay vào mắt, hoặc nóng rát.
+ Triệu chứng thực thể:
- Lồi mắt: lồi mắt ở bệnh nhân Basedow có thể gặp ở bất kỳ lứa tuổi nào, thường cả hai bên, 10-20% trường hợp lồi mắt chỉ có một bên. Lồi mắt có thể xuất hiện ở những bệnh nhân Basedow đang có nhiễm độc hormon tuyến giáp, ở những bệnh nhân bình giáp sau
điều trị bằng các thuốc kháng giáp tổng hợp, phóng xạ hoặc bằng phẫu thuật thậm chí ở cả những bệnh nhân Basedow đã suy giáp sau điều trị. Theo thống kê có khoảng 20% bệnh nhân Basedow xuất hiện bệnh lý mắt trước khi có biểu hiện cường giáp trên lâm sàng; 40% xuất hiện đồng thời và 40% xuất hiện sau khi đã bình giáp. Về tiến triển, lồi mắt có khi duy trì rất lâu ở mức độ nhẹ hoặc có thể tiến triển nặng lên nhanh, mức độ của bệnh và mức độ của lồi mắt không song song với nhau. Độ lồi mắt phụ thuộc vào yếu tố chủng tộc và dân tộc. Độ lồi mắt sinh lý của người da vàng có thể tới 17 mm, của người da trắng: 20 mm,
của người da đen : 22 mm. Độ lồi mắt trung bình của người Việt Nam là 12 ±1,7 mm (Mai Thế Trạch- 1996). Lồi mắt kèm theo phù mi mắt, phù giác mạc, xung huyết giác mạc. Càng phù nhiều thì mắt càng không ấn vào được nữa.


Bảng 4.8. Đặc điểm tổn th ương bệnh lý mắt do Basedow.


+ Bộ phận mắt bị tổn thương.
- Mi mắt.
- Giác mạc.
- Cơ ngoại nhãn.
- Chứng lồi mắt.
- Dây thần kinh thị giác.
+ Dấu hiệu hoạt động của bệnh lý mắt:
- Đau ở sau nhãn cầu
- Đau khi liếc mắt
- Mẩn đỏ ở mi.
- Phù mi.
- Phù kết mạc
- Nề nổi cục
Để đánh giá mức độ tổn thương của mắt trong bệnh Basedow, người ta dùng xếp loại của Werner (American Thyroid association):


Bảng 4.9. Mức độ tổn th ương mắt trong bệnh Basedow.

Độ

Biểu hiện

0

Không có biểu hiện

1

Co cơ mi trên (dấu hiệu Dalrymple, Von Graefe).

2

Tổn thương phần mềm ở hốc mắt (phù mi mắt)

3

Lồi mắt >3mm so với bình thường

4

Tổn thương cơ vận nhãn: cơ thẳng dưới và giữa

5

Tổn thương giác mac

6

Tổn thương dây thần kinh thị giác

Không nhất thiết phải có sự chuyển từ độ 1 sang độ 2 rối mới sang độ 3, 4. Các biểu hiện có thể thay đổi cùng với tiến triển của bệnh sau điều trị. Trong xếp loại này: độ 1 liên quan trực tiếp đến cường giáp, khi cường giáp đã kiểm soát được thì nó có thể mất, từ độ 2 đến độ 6 là do sự thâm nhiễm các tế bào lympho và dịch phù của các mô, cơ ở hốc mắt và sau nhãn cầu gây ra. Nếu các cơ sau nhãn cầu bị phù nề, chúng có thể bị chèn ép vào dây thần kinh thị giác gây ra mù loà.
Sự phù nề các cơ hốc mắt có thể chứng minh được bằng xạ hình cắt lớp điện toán (CT- Scanner).
- Rối loạn trương lực thần kinh của các cơ vận nhãn: Do co cơ mi trên (cơ Muller):
. Dấu hiệu Dalrymple: hở khe mi còn gọi là “lồi mắt giả”.
. Dấu hiệu Von. Graefe: mất đồng tác giữa nhãn cầu và mi mắt.
. Dấu hiệu Stellwag: mi mắt nhắm không kín.
. Dấu hiệu Joffroy: mất đồng tác giữa nhãn cầu và cơ trán.
. Có thể có dấu Jellinek: viền sậm màu ở quanh mi mắt.
. Dấu hiệu Moebius: liệt cơ vận nhãn gây song thị, hội tụ của 2 mắt không đều.
+ Cơ chế sinh bệnh học bệnh lý mắt do Basedow:
Cơ chế bệnh sinh của lồi mắt trong bệnh Basedow chưa hoàn toàn được sáng tỏ. Yếu tố quyết định trong cơ chế bệnh sinh của triệu chứng này là vai trò của chất kích thích tuyến giáp kéo dài (long acting thyroid stimulator- LATS) và yếu tố gây lồi mắt (exophthalmos producing substance-EPS) được tiết ra từ tuyến yên với một lượng khá lớn.
Những rối loạn bệnh lý trong lồi mắt là phù, tăng thể tích sau nhãn cầu và tổ chức liên kết của cơ ngoài nhãn cầu, ứ đọng trong các tổ chức này các mucopolysacharit và các axit có tính hút nước mạnh (axit hyaluronic và axit chondrohytinsulfuric). Cản trở lưu thông tĩnh mạch, tăng sinh tổ chức liên kết của nhãn cầu, thâm nhiễm các tế bào lympho và tương bào (plasmocyte).
Trong tổ chức liên kết của nhãn cầu, tăng số lượng các tế bào mỡ sản xuất ra lipit dự trữ, song nếu bệnh nặng có thể giảm số lượng tế bào mỡ. Nguyên nhân cơ bản của lồi mắt là tăng sinh thâm nhiễm, phù tổ chức sau nhãn cầu, tăng lực đẩy nhãn cầu ra phía trước và xơ hoá các cơ quan ngoài nhãn cầu (giảm lực giữ nhãn cầu ở vị trí sinh lý). Do vậy lồi mắt trở thành khó hồi phục.
Các tự kháng thể (TRAb) sau khi hình thành sẽ kết hợp với thyroglobulin tạo nên phức hợp kháng nguyên-kháng thể. Phức hợp này tới hốc mắt qua đường máu hoặc các ống bạch mạch cổ trên. Tại đó phức hợp này kết hợp với các cơ hốc mắt gây ra viêm cơ, làm cơ sở cho biểu hiện mắt của bệnh Basedow. Các lympho T hỗ trợ cũng có thể làm các kháng nguyên ở hốc mắt trở nên nhạy cảm và duy trì các triệu chứng ở mắt.
Cần phải lưu ý triệu chứng lồi mắt giả ở bệnh Basedow do khe mắt rộng, mắt sáng long lanh, nhưng độ lồi mắt bình thường. Lồi mắt có thể gặp ở người cận thị nặng, thiên đầu thống, lồi mắt bẩm sinh hoặc gia đình, lồi mắt do não úng thủy, u mắt, do các khối u của não.
Lồi mắt 1 bên ngoài bệnh Basedow có thể gặp do bệnh lý gây chèn ép hoặc viêm một bên nhãn cầu: u máu nhãn cầu, u tuyến lệ, viêm tổ chức nhãn cầu.


  Các biểu hiện khác:


+ Phù niêm khu trú (localized myxedema):
Hiện tượng lắng đọng glycosaminoglycans gọi là phù niêm khu trú, nó tương phản lại so với sự lắng đọng lan toả xuất hiện trong suy giáp. Sự lắng đọng này thường xuất hiện trên da ở mặt trước từ đầu gối trở xuống. Vì vậy thường gọi là phù niêm trước xương chày. Năm 1840, Von Basedow là người đầu tiên mô tả bệnh nhân nhiễm độc giáp trong đó thấy: chân to lên ở 1/3 dưới, rất nhiều mỡ tuy vậy không phải phù, các mô tế bào dường như bị nở ra, xanh lướt, ấn vào không lõm, chọc vào không có dịch chảy ra. Hình ảnh trên gọi là thể chân voi của phù niêm khu trú hay gọi là bệnh lý da do tuyến giáp.
Theo Cairns có 3 type phù niêm khu trú bao gồm:
- Phù to lan toả trước xương chày, sờ vào rắn, ấn không lõm.
- Tổn thương có mấu hoặc nhân.
- Thể chân voi có cả lõm và nhân.
Vùng thâm nhiễm có màu vàng hoặc tím đỏ với các lỗ chân lông giãn ra tạo nên dạng “da cam”, đôi khi có rậm lông. Trường hợp rất hiếm có thể thấy ở ngực hoặc cánh tay. Phù niêm khu trú rất hiếm, chỉ gặp ở 2-3% bệnh nhân Basedow, đặc biệt hiếm gặp ở bệnh nhân Basedow là người châu á trong đó có Việt Nam.
+ Bệnh to đầu chi do tuyến giáp (thyroid acropathy): đây là tình trạng phì đại chân tay, một biểu hiện lâm sàng rất hiếm gặp. Đó là hiện tượng các tổ chức lỏng lẻo bị nề lên giống như phù niêm khu trú, thường tổn thương ngón chân tay và biến dạng lớp dưới màng xương. Da trên bề mặt nơi bị tổn thương bị rối loạn sắc tố và tăng sừng hoá. Đa số bệnh nhân to đầu chi do tuyến giáp có ý nghĩa về lâm sàng giống như lồi mắt hoặc phù niêm trước xương chày. Ngón tay dùi trống khi phối hợp với phù niêm trước xương chày và lồi mắt gọi là hội chứng Diamond.
Thứ tự xuất hiện thường đầu tiên là lồi mắt, thứ đến là phù niêm trước xương chày và sau cùng là to đầu chi.
+ Có vết bạch biến (vitiligo).
+ Viêm quanh khớp vai.
+ Vú to hoặc chảy sữa ở nam giới.
+ Suy tuyến sinh dục: ở phụ nữ nhiễm độc giáp mức độ trung bình và nặng có rối loạn chu kỳ kinh nguyệt, giảm ham muốn sinh dục. Bệnh nặng và kéo dài có thể teo tử cung, buồng trứng hoặc tuyến sữa, có thể xảy thai hoặc vô sinh. Nếu bệnh xuất hiện ở tuổi dậy thì sinh dục thường chậm xuất hiện kinh nguyệt và các biểu hiện sinh dục thứ phát.
+ Suy tuyến thượng thận: bệnh nặng và kéo dài dẫn đến suy giảm chức năng tuyến thượng thận. Lâm sàng biểu hiện bằng các triệu chứng vô lực, xạm da, huyết áp thấp, tăng bạch cầu lympho và mono, nồng độ androgen và glucocorticoid trong nước tiểu thấp.
+ Cường sản tuyến ức và hệ thống lympho (lách, hạch) gọi chung là “thymico- lymphatic status”, hay gặp ở bệnh nhân tuổi thiếu niên, tuổi dậy thì hoặc bệnh nhân Basedow mức độ nặng.


 Cận lâm sàng.


+ Chuyển hoá cơ sở (CHCS) tăng > 20% so với bình thường. Phải đo đúng kỹ thuật kết quả mới đáng tin cậy.
+ Phản xạ đồ (PXĐ) gân gót: thời gian phản xạ ngắn < 240 ms (trung bình 196 ± 25 ms), ở bệnh nhân Basedow thường trong khoảng 140- 240 ms).
+ Giảm cholesterol, tăng glucose huyết.
+ 30% trường hợp có tăng canxi huyết.
+ Định lượng hormon giáp lưu hành:
- Nồng độ iod liên kết protein tăng (PBI): > 7 mcg/100 ml (bình thường 4-7 mcg/100ml).

- T4 tăng (bình thường 60-155 nmol/l) (chú ý T4 có thể cao nếu dùng thuốc ngừa thai).
- T3 tăng (bình thường 1,0-3,0 nmol/l).
- T4 tự do (FT4) và T3 tự do (FT3) đều tăng: (bình thường FT3: 3,5- 6,5pmol/l; FT4: 11- 22 pmol/l).
+ Độ tập trung iod phóng xạ tại tuyến giáp (131I hay 123I) trừ những ca đặc biệt còn lại độ tập trung các chất đồng vị phóng xạ có các đặc điểm:
- Chỉ số hấp thu ở các thời điểm đều tăng.
- Tốc độ tăng nhanh, sớm ở các giờ đầu (2-6 giờ).
- Sau đó giảm nhanh tạo ra “góc thoát”.
Tuy nhiên ở một số ca độ tập trung tăng và giữ nguyên hình cao nguyên. Hiện nay độ tập trung 131I là xét nghiệm phản ánh không khách quan chức năng của tuyến giáp do ảnh hưởng việc sử dụng trên phạm vi toàn quốc muối iod của chương trình quốc gia phòng chống thiếu hụt iod.
+ Mất điều chỉnh trục hạ khâu não- tuyến yên- tuyến giáp. TSH hạ rất thấp trừ trường hợp adenoma hướng giáp, bởi có sự ức chế do lượng hormon giáp quá nhiều (bình thường TSH: 0,3 - 3,5 àIU/ml).
+ Thử nghiệm Werner âm tính.
+ Thử nghiệm TRH âm tính: TSH không tăng sau khi tiêm tĩnh mạch 200 µg TRH vì
tình trạng ức chế do quá nhiều hormon.
+ Xạ hình và siêu âm: chủ yếu dùng để khảo sát hình dạng tuyến giáp cho các hình ảnh khác nhau.
+ Ngày nay bằng phương pháp miễn dịch phóng xạ có thể định lượng nồng độ các tự kháng thể kháng thụ thể TSH (TRAb) trong huyết thanh thông qua sự ức chế gắn kết của TSH với các thụ thể của nó. Nồng độ TRAb (+) ở 80-90%; (-) ở 10-20% bệnh nhân bị bệnh Basedow.


Một số thể bệnh lâm sàng.


Bệnh Basedow ở trẻ em và tuổi trưởng thành:


Tuyến giáp thường to. Triệu chứng sớm của bệnh: hay quên, nhức đầu, trẻ phát triển nhanh về chiều cao và xương nhanh cốt hoá. Các triệu chứng sinh dục kém phát triển, trẻ em ít có suy tim, loạn nhịp hoàn toàn, rối loạn tiêu hoá, ít có cơn nhiễm độc giáp kịch phát, thường gặp “thymico-lymphatic status”, run tay biên độ lớn.


  Bệnh Basedow ở người cao tuổi:


Trước hết là những rối loạn tim mạch do tổn thương vữa xơ động mạch có trước khi bị bệnh Basedow. Bệnh nhân thường có suy tim, loạn nhịp hoàn toàn, đau ngực do thiểu năng mạch vành. Tuyến giáp to vừa phải, các triệu chứng về mắt không rõ, run tay biên độ lớn.


  Bệnh Basedow ở người có thai:


Hay bị xảy thai, đẻ non hoặc thai chết ngay sau sinh. Thời gian đầu của thai các triệu chứng bệnh nặng lên, nửa phần sau các triệu chứng giảm đi. Sau khi sinh con và trong thời gian cho con bú bệnh có thể nặng lên.


  Cơn nhiễm độc hormon giáp kịch phát
  Thể bệnh theo triệu chứng lâm sàng:


+ Thể tim: thực ra đây là những thể phức tạp của tình trạng tim mạch trong cường giáp (cardiothyrotoxicosis).
+ Thể tăng trọng lượng: gặp ở bệnh nhân nữ trẻ, với biểu hiện mất kinh nguyệt (5% các trường hợp).
+ Thể suy mòn: còn gọi là “vô cảm” hay gặp ở người già, triệu chứng lâm sàng hầu như duy nhất là gầy nhiều.
+ Thể tiêu hoá: tiêu chảy nhiều, gầy nhanh.
+ Thể thần kinh và tâm thần.
+ Giả liệt chu kỳ liên quan tới giảm kali máu.
+ Rối loạn tâm thần: biểu hiện bằng cơn kích động hoặc bằng tình trạng lú lẫn hay hoang tưởng.
+ Thể theo triệu chứng sinh hoá đặc biệt:
- Cường giáp do tăng T3: chỉ tăng T3, còn T4 vẫn bình thường, chiếm 5- 10% các trường hợp.
- Cường giáp do tăng T4 mà T3 vẫn bình thường, ít gặp hơn. Trong cả 2 thể này thử nghiệm TRH đều âm tính.


Tiến triển và biến chứng.


Nếu được chẩn đoán sớm, điều trị đúng diễn biến của bệnh thường khả quan. Tuy nhiên vẫn có trường hợp diễn biến phức tạp, hay tái phát.
Mức độ nhiễm độc hormon tuyến giáp:
Baranov V.G (1977) chia bệnh Basedow thành 3 mức độ:
+ Mức độ nhẹ: nhịp tim nhanh <100 ck/ phút, không có triệu chứng suy tim, sút cân <10% trọng lượng cơ thể; CHCS < 30%.
+ Mức độ trung bình:
Nhịp tim nhanh 100 ữ 120 ck/ phút, có thể có suy tim độ II, sút cân < 20% trọng lượng cơ thể; CHCS < 60%.
+ Mức độ nặng:
Các triệu chứng lâm sàng rầm rộ có thể có triệu chứng không hồi phục ở các cơ quan nội tạng, nhịp tim ≥ 120 ck/ phút, loạn nhịp tim và suy tim độ III, IV, sút cân tới 30% trọng lượng cơ thể; CHCS ≥ 60%. Có thể có cơn nhiễm độc hormon giáp kịch phát.

Các phương pháp điều trị

Mặc dù đến nay, những hiểu biết về cơ chế bệnh sinh của Basedow đã tương đối rõ ràng, nhưng vẫn chưa có một loại thuốc hay phương pháp điều trị nào giải quyết được nguyên nhân sinh bệnh.

Trong điều trị Basedow, chủ yếu vẫn là điều trị cường năng tuyến giáp bằng một trong ba phương pháp căn bản: Ðiều trị nội khoa với thuốc kháng giáp tổng hợp, điều trị bằng phẫu thuật và điều trị bằng iode đồng vị phóng xạ. Mỗi phương pháp điều trị đều có ưu và nhược điểm khác nhau. Việc lựa chọn phương pháp nào sẽ tùy thuộc vào tình hình bệnh tật, điều kiện xã hội, hoàn cảnh cụ thể của mỗi bệnh nhân cũng như kinh nghiệm của người thầy thuốc.

Ðiều trị bằng thuốc

Trong điều trị Basedow, dù lựa chọn phương pháp nào thì điều trị nội khoa vẫn là một phương pháp hữu hiệu để đưa bệnh nhân về tình trạng bình giáp và là cơ sở để giúp các phương pháp điều trị khác đạt kết quả tốt hơn. Trong điều trị nội khoa, thuốc kháng giáp tổng hợp vẫn là loại thuốc căn bản hàng đầu, các thuốc khác chỉ có vai trò hỗ trợ cho điều trị đạt kết quả tốt hơn. Mỗi loại thuốc sẽ tác dụng theo một cơ chế khác nhau. Việc điều trị thường chia làm hai giai đoạn: Tấn công và duy trì. Thời gian điều trị thường khá dài, từ 6-18 tháng, nếu điều trị càng lâu tỷ lệ tái phát càng thấp. Ðiều trị nội khoa đem lại một số ích lợi cho bệnh nhân như: ít biến chứng, không phải trải qua một cuộc phẫu thuật (là điều mà hầu hết người bệnh nước ta rất sợ). Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có những điểm bất lợi như tỷ lệ tái phát rất cao (lên đến 75%), bệnh nhân bị một số biến chứng của việc dùng thuốc kháng giáp tổng hợp lâu dài và nhất là việc tồn tại của bướu giáp (gây mất thẩm mỹ và là nguyên nhân chính khiến nhiều bệnh nhân phải đi điều trị).

Ðiều trị bằng iode đồng vị phóng xạ

Ðược áp dụng trên thế giới từ năm 1948 và ở Việt Nam năm 1978. Bệnh nhân sau khi được khám lâm sàng và làm một số xét nghiệm đánh giá chức năng tuyến giáp sẽ uống một liều chất iode phóng xạ. Trong cơ thể, chất này sẽ phá hủy các tế bào tuyến giáp và làm giảm khả năng tổng hợp các hormone của tuyến giáp là chất gây ra bệnh. Phương pháp này có ưu điểm là bệnh nhân có thể khỏi bệnh sau khi sử dụng một liều thuốc, tránh được các biến chứng của phẫu thuật. Tuy nhiên, nó cũng có những nhược điểm quan trọng như: Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy việc dùng iode đồng vị phóng xạ không điều trị khỏi bệnh hoàn toàn, bướu giáp vẫn còn ảnh hưởng đến mặt thẩm mỹ và đôi khi làm suy giáp rất trầm trọng, làm nặng thêm các biến chứng về mắt (đặc biệt là làm mắt lồi hơn). Chính vì vậy, trong thực hành bệnh viện, chỉ nên sử dụng phương pháp này cho những bệnh nhân có thể bệnh nặng, trên 40 tuổi, bệnh kháng với thuốc kháng giáp tổng hợp, bị biến chứng nặng nề về tim mạch không thể tiến hành phẫu thuật, những bệnh nhân không muốn mổ v.v...

Ðiều trị bằng phẫu thuật

Mục đích của điều trị Basedow bằng phẫu thuật là cắt gần hoàn toàn tuyến giáp, chỉ giữ lại một phần nhỏ để duy trì chức năng tạo hormone bình thường. Mặc dù cuộc mổ có thể gây ra một số tai biến và biến chứng ngoài mong muốn như: khàn tiếng, hạ calci máu, nhiễm trùng vết mổ..., nhưng ngày nay với sự tiến bộ vượt bậc của y học và kỹ thuật mổ, tỷ lệ biến chứng trong các ca mổ tuyến giáp còn rất thấp, dưới 1%. Nhiều trung tâm và bệnh viện đã đạt đến trình độ nghệ thuật trong mổ bướu giáp - như lời của tác giả Pemberton.

Hiện ở nước ta, việc điều trị Basedow bằng phẫu thuật đang được nhiều bác sĩ và bệnh nhân chọn lựa vì giá thành của cuộc mổ khá rẻ so với các phương pháp điều trị khác, giải quyết nhanh tình trạng bệnh tật cho bệnh nhân và nhất là giải quyết được bướu giáp (hợp với quan điểm thẩm mỹ và là mối lo lắng, nguyên nhân hàng đầu khiến người bệnh tìm gặp thầy thuốc).

BỆNH BASEDOW - BAO GIỜ CẦN MỔ?

Hiện nay, theo những tài liệu và kinh nghiệm của các thầy thuốc ngoại khoa, người ta thường mổ cho những bệnh nhân thuộc bốn nhóm sau:

1. Những bệnh nhân đã được điều trị bằng thuốc ít nhất 3-6 tháng, nhưng nếu ngừng điều trị bệnh sẽ tái phát, tình trạng cường giáp tuy ổn định nhưng bướu giáp không nhỏ lại, thậm chí còn to ra thêm.

2. Bệnh Basedow với bướu giáp to, có các biểu hiện chèn ép gây khó thở hoặc ảnh hưởng xấu đến thẩm mỹ của bệnh nhân.

3. Bệnh nhân có bướu giáp thòng, không bị dị ứng hay phản ứng với các loại thuốc dùng để chuẩn bị phẫu thuật, bệnh nhân Basedow nhưng không trong tình trạng thai nghén.

4. Những bệnh nhân tuy đáp ứng tốt với điều trị nội khoa, nhưng cần phải phẫu thuật để tránh bệnh tái phát và vì những lý do rất tế nhị nhưng thực tế như kinh tế, nghề nghiệp, xã hội và thẩm mỹ. Theo một số chuyên gia hàng đầu về Basedow thì những lý do này chiếm một tỷ lệ rất lớn trong số những bệnh nhân đến khám và yêu cầu phẫu thuật.

Chú thích ảnh:

- Lồi mắt là dấu hiệu điển hình trong bệnh Basedow.

(ST)

Hỏi đáp, bình luận, trả bài:
Tôi bị basedow 10 năm,đã phâu thuât 3 năm. Sau phâu thuât tôi vẫn thường xuyên uống thuốc. Vào dầu mùa rét tôi thường bị ngứa ở cánh tay cẳng chân. Bác sĩ xét nghiệm cho kết quả tôi bị kháng thuốc. vậy tôi có thể tiếp tục dùng thuốc không?
hơn 1 tháng trước - Thích (2) - Trả lời
giải thích bệnh basedow
hơn 1 tháng trước - Thích (17) - Trả lời
giải thích hội chứng cushing
hơn 1 tháng trước - Thích (2) - Trả lời
giai thich cac bieu hien cua benh nhan mac benh basedow
hơn 1 tháng trước - Thích (18) - Trả lời
Bạn hãy xem nguyên nhân gây bệnh
e xet nghiệm FT3 : 4.15PG/mL VÀ FT4: 1.08ng/dL thi như này cí bình thường không hay là e bị basedow không ạ
hơn 1 tháng trước - Thích (7) - Trả lời
năm nay e 24 tuổi e bị basedow thì liệu e co thể chữa bệnh này khỏi rứt điểm không ạ. nếu em muốn chữa bệnh thì chữa ở đâu ạ. bác sĩ cho em lời khuyên để em đi chữa ạ. cảm ơn bác sĩ rất nhiều
hơn 1 tháng trước - Thích (22) - Trả lời
bi basedow dieu tri chuyen sang suy giap vay la bi nang hon khong
hơn 1 tháng trước - Thích (14) - Trả lời
phan do cua buou co:hinh dang cua benh basodaw
hơn 1 tháng trước - Thích (13) - Trả lời
mình bị basedow sau khi uống thuốc thì không thấy mắt lồi nữa?không thấy bị mệt mỏi khó thở và cân nặng thì không giảm tăng theo kiểu mọng nước như vậy thì bệnh của mình có phải là đang thuyên giảm dần không?
hơn 1 tháng trước - Thích (5) - Trả lời
tôi đã bị bênh Basedow, điều trị bằng thuốc được 6 năm và đã dừng thuốc, để sinh con, hiện tôi đã ngưng dùng thuốc được 5 năm,hiện tại tôi có cảm giác bị tức ngực,còn việc ăn, uống và ngủ thì vẫn bình thường và không bị sút cân, liệu bệnh của tôi có phải đang tái phát không?
hơn 1 tháng trước - Thích (19) - Trả lời
tôi bị bệnh basedow đã phẩu thuật 17 năm rồi sau đó bị lại uống thuốc 2 năm rồi sau đó ngưng thuốc 6 tháng đi khám lại bác sĩ chỉ cho thuốc bổ không có thuốc bệnh nữa hiện trong người lúc mệt lúc khỏe, liệu bệnh tôi có sao không?
hơn 1 tháng trước - Thích (5) - Trả lời
Bạn tái khám và xin ý kiến của bác sĩ về tình hình sức khỏe hiện tại nhé!
*địa chỉ email của bạn được bảo mật

Hot nhất
Top xink
Bộ sưu tập
Chợ xink
Thanh lý