Đánh giá ung thư vú

seminoon seminoon @seminoon

Đánh giá ung thư vú

18/04/2015 10:39 AM
270

 Một trong những mục đích chính yếu của các bác sĩ là làm sao xác định được độ “hung hãn” của bệnh ung thư. Để làm điều này, các bác sĩ dùng một chuỗi các xét nghiệm để định cách điều trị và đánh giá tiên lượng lâu dài. Các xét nghiệm nhằm xác định mức độ của khối u, tức là sự xâm lấn của các tế bào ung thư, và xác định giai đoạn hiện tại của bệnh. Biện pháp này nhằm đánh giá bệnh đã tiến triển tới đâu và nó đã lây lan tới những chỗ nào ngoài vị trí khởi đầu ở vú.

Phân độ ung thư

Kiểm tra tế bào ung thư dưới kính hiển vi để phân độ tuỳ theo hình dạng hoặc chủng loại. Hình dáng của tế bào phản ánh mức ác tính của ung thư. Nói chung, các tế bào càng trẻ thì ung thư càng ác tính.

Mức độ biệt hoá tế bào quy định sự phân độ của khối u và có thể cho ta chỉ dẫn đủ tin cậy để tiên lượng lâu dài. Các khối u có những tế bào có thể nhận diện được, nhìn y như những tế bào u vú bình thường, thì được gọi là “biệt hoá rõ” hoặc Độ 1 và mang một tiên lượng lạc quan. Những khối u chứa các tế bào trở nên ngày càng khó nhận diện là mô vú thì gọi là “ít biệt hoá” hay “không biệt hoá” và chuyển sang Độ 2 và 3 với tiên lượng bệnh xấu hơn.

Chia giai đoạn

Một khi ung thư vú đã được chẩn đoán và phân độ thì bệnh nhân sẽ được xếp theo giai đoạn bệnh. Để xếp từng bệnh nhân theo giai đoạn bệnh, phải xét dến ba yếu tố: kích cỡ của khối u; các hạch bạch huyết nách có bị ảnh hưởng không; và có các di căn (các u thứ phát) ở nơi khác trên cơ thể không.

Mặc dầu kích cỡ là dấu hiệu dự đoán sơ khởi về tiềm năng di căn của một khối u nhưng nói chung khối u càng lớn thì khả năng đã lan tới các hạch bạch huyết càng lớn. Tuy nhiên, ngay một cục u nhỏ cũng có thể xâm lấn . Hầu hết những phụ nữ có khối u nhỏ hơn 1cm và có các hạch bạch huyết không bị bệnh thì có tiên lượng tốt.

Trong việc đánh giá tiên lượng của một bệnh nhân thì yếu tố cốt lõi, cần phải cân nhắc kỹ lưỡng giữa nó với tất cả các yếu tố khác, chính là sự lan bệnh đến các hạch bạch huyết nách; càng nhiều hạch bạch huyết bị ảnh hưởng thì tiên lượng bệnh càng xấu. Với ung thư hạch âm tính thì có 7 phụ nữ trong số 10 người sẽ sống thêm 10 năm nữa; với ung thư hạch dương tính thì trong số 10 người chỉ được 5 người hoặc ít hơn. Ngày nay phuơng pháp hoá trị liệu bổ sung thường được áp dụng cho những phụ nữ tiền mãn kinh có các hạch bị ảnh hưởng. Đối với hầu hết những phụ nữ khác có hoặc không có các hạch nhiễm ung thư thì phương pháp điều trị bổ sung có hệ thống, thường là Tamoxifen, cũng có ích.

Sự hiện diện của di căn ở chỗ khác trên cơ thể có thể được phát hiện nhờ xét nghiệm (xem phần chẩn đoán di căn). Nếu các hạch bạch huyết phía trên xương đòn bị bệnh thì chúng được coi là di căn. Những di căn xa đến hai phổi, gan hay xương cho biết ung thư đã đi vào giai đoạn IV, do đó sự hiện diện của chúng là dấu hiệu rất nghiêm trọng.

Hoạch định điều trị: Một khi bệnh của bạn đã xếp theo giai đoạn, các quyết định điều trị có thể được đưa ra. Bạn có quyền bàn bạc về tất cả những chọn lựa để nhờ đó mà bạn cùng gia đình mình tham gia vào mọi quyết định.

Sống sót: Các bác sĩ thích nói về khả năng sống sót hơn là nói về “cách chữa trị”. Người ta thường hay tính tỉ lệ sống sót bẳng 5 năm hay 10 năm và sau đó biểu diễn bằng %. Nếu bạn được bác sĩ cho biết rằng ung thư của bạn có tỉ lệ sống sót 5 năm là 80% thì tức là trong số 10 phụ nữ mắc bệnh như bạn – có một khối u với cùng mức độ và giai đoạn, tấn công ở mức độ như nhau thì có 8 người có thể hy vọng sống trong khoảng thời gian 5 năm.

Tiên lượng và dự báo

Giai đoạn của một khối u mang tính quyết định trong việc đánh giá tỉ lệ sống sót 5 năm đối với ung thư vú: tỉ lệ sống sót 5 năm chiếm 85% đối với những phụ nữ phải chịu đựng những khối u giai đoạn I và rớt xuống còn dưới 10% cho những phụ nữ chịu đựng những khối u giai đoạn IV.

Cứ 3 người bị ung thư mới phát hiện và được điều trị thì có khoảng 1 người sẽ tiếp tục có cuộc sống bình thường như mong đợi. Trong số những người còn lại, những người bị tái phát tại chỗ, có thể thường xuyên được điều trị thoả đáng bằng phương pháp xạ trị. Chỉ khoảng một nửa số phụ nữ bị ung thư tới gặp bác sĩ phẫu thuật đủ sớm khi mà bệnh của họ rõ ràng có thể điều trị được và có thể cứu được; một nửa còn lại thì để cho bệnh kéo dài quá lâu trước khi tìm sự giúp đỡ của y tế.

Hầu hết những phụ nữ bị ung thư vú vẫn có tuổi thọ vừa phải khi so sánh với ung thư phổi, dạ dày hay tử cung. Rất nhiều phụ nữ có thể mong đợi sống thoải mái trong nhiều năm sau khi điều trị, ngay cả khi bệnh của họ không thể xếp vào loại có thể cứu chữa được. Vì ung thư vú là bệnh chủ yếu của những phụ nữ lớn tuổi nên số phụ nữ chết vì những nguyên nhân khác thường vẫn nhiều hơn so với chết vì ung thư vú

Các xét nghiệm nghiên cứu đặc biệt

Trong nhiều năm qua, các nhà nghiên cứu đã nỗ lực để phát triển các xét nghiệm đặc biệt có thể cung cấp cho các bác sĩ ý tưởng tốt hơn về sự xâm lấn của các khối u ở vú, về tiên lượng tương lai và về khả năng sống sót. Các xét nghiệm này đòi hỏi kĩ thuật rất tân tiến và chưa được thực hiện ở tất cả các trung tâm, nhưng người ta hi vọng rằng việc sử dụng chúng trong tương lai sẽ giúp xác định các nhóm bệnh nhân đáp ứng tốt với một phương pháp điều trị nào đó.

Các thụ thể oestrogen (Ers): Có thể phát hiện đựơc những thụ thể oestrogen trong xấp xỉ 60% các ca ung thư. Một cục u thụ thể oestrogen thì nhạy cảm với oestrogen và có tiên lượng bệnh tốt hơn một chút so với một cục u không có thụ thể oestrogen.

Các thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu mô (EGFr): Tất cả các tế bào có các thụ thể được “kích thích” bởi các yếu tố tăng trưởng - yếu tố báo cho tế bào biết để nhân lên. Trong các tế bào hư hỏng thì các thụ thể không chờ tín hiệu, khiến cho các tế bào nhân lên một cách không kiểm soát nổi. Khoảng một nửa trong số tất cả các trường hợp ung thư có chứa các thụ thể bị hư. Nói chung, các cục u có thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu mô (EGFr) âm tính thì có tiên lượng hồi phục tốt hơn so với các cục u có sthụ thể yếu tố tăng trưởng biểu mô dương tính.

Ki-67: Nói một cách đơn giản. Ki-67 giúp đo tốc độ tăng trưởng và sự phân chia tế bào. Nhìn chung, các tế bào phân chia càng nhanh thì khối u có sức xâm lấn càng mạnh. Kết quả của điều này là dường như ung thư di căn khắp cơ thể sớm hơn và nhanh hơn. Trong trường hợp như thế, khả năng di căn cao và tiên lượng xấu hơn só với khi sự thay đổi tế bào chậm hơn.

ErbB-2: Nghiên cứu đã cho thấy những phụ nữ mà tái phát bệnh thì có sự sao chép đặc biệt dạng gien này; và mức độ protein nó sản xuất ra cao hơn. erbB-2 hiện diện càng nhiều thì tiên lượng bệnh càng xấu hơn.

Cathepsin D: Những bệnh nhân có mức enzyme thấp và các hạch nách dương tính thì thường sống lâu hơn so với những người có mức enzyme cao và các hạch âm tính. Vì vậy, nó là một yếu tố dự báo kết quả tốt.

P53: Sự đột biến gien này hiện diện trong khoảng một nửa tất cả các trường hợp ung thư vú. Sự bất thường của p53 cũng làm tăng nguy cơ ung thư buồng trứng và ung thư ruột.

ST

Hỏi đáp, bình luận, trả bài:
Tol vao hoa tri da du toa hien nay taÿ chan va mieng toi bi tham den xin cho biet la toi song duoc bao lau va dang o thoi ky may
hơn 1 tháng trước - Thích (2) - Trả lời
*địa chỉ email của bạn được bảo mật

Hot nhất
Top xink
Bộ sưu tập
Chợ xink
Thanh lý