Khi bị bỏng phải sơ cứu nhanh và khẩn trương tránh để những hậu quả đáng tiếc xảy ra. Việc sơ cứu này cũng không được làm bừa bãi, mà cần phải có kiến thức cơ bản, nếu không sẽ vô tình dẫn đến những tổn thương khác. Ngay sau đó, cần đưa bệnh nhân đi cấp cứu ngay
* Xin cho biết cách nào tốt nhất để sơ cứu người bị bỏng?
Vũ Minh Huyền, Chợ Mới, Bắc Kạn
Bỏng là tổn thương do tác dụng trực tiếp của các yếu tố vật lý (nhiệt, bức xạ, điện…) hoặc yếu tố hoá học (acid, kiềm…) gây ra trên cơ thể. Da là bộ phận thường bị tổn thương nhất khi bị bỏng, kế đến là các lớp sâu dưới da (gân, cơ, xương, khớp, mạch máu, thần kinh) và một số cơ quan nội tạng (đường hô hấp, ống tiêu hoá, bộ phận sinh dục…).
Khi bị bỏng, việc tự sơ cứu là rất cần thiết. Nhiều trường hợp do xử lý sai nên đã để lại những hậu quả đáng tiếc. Tốt nhất khi bị bỏng nhẹ, cần ngâm ngay vết thương vào nước lạnh, càng sớm càng tốt. Ngâm chỗ bỏng vào nước máy, nước giếng khoan hoặc dùng vòi nước đang chảy xả vào chỗ bỏng trong 15- 20 phút, như vậy sẽ làm giảm nhiệt độ bề mặt của da, có tác dụng giảm độ sâu của bỏng.
Hoặc đắp chỗ bỏng bằng gạc (khăn tay hoặc khăn tắm) thấm nước lạnh cho đến khi bớt đau. Cần tháo hết các đồng hồ, vòng đeo tay, nhẫn, dây thắt lưng hoặc quần áo chật tại vùng bị bỏng trước khi chỗ bỏng sưng lên. Khi bỏng nặng: Nếu quần áo nạn nhân đang cháy, dội nước lên nạn nhân, hoặc trùm khăn lên nạn nhân và đặt nằm dưới đất. Không nên cởi quần áo đã dính vào vết thương, nhưng phải che vùng bỏng lại bằng quần áo sạch, khô, không có bụi, bông để tránh nhiễm trùng.
Cắt lọc bỏ da đã bị nát cho vết bỏng vừa sạch vừa gọn. Cho bệnh nhân bỏng mặc quần áo nhẹ, vô trùng hoặc không mặc gì để vết bỏng dễ khỏi. Cố gắng giữ da sạch sẽ và cách ly bệnh nhân. Tuyệt đối không ngâm đá lạnh mà chỉ dùng nước sạch bình thường làm hạ nhiệt độ bề mặt da, tránh cho vết bỏng khỏi bị rộp.
Không được dùng mỡ trăn hoặc dầu cá để sơ cứu vết bỏng. Nhiều lọ mỡ trăn không được tiệt trùng nên hầu hết bị ôi thiu do nhiễm vi sinh vật. Vì thế mà làm cho vết bỏng bị nhiễm khuẩn rất nhanh. Còn dầu cá có mùi tanh, khi bôi lên sẽ bị hôi tanh và thu hút ruồi nhặng đến. Thực ra mỡ trăn và dầu cá có thể chữa bỏng nhưng phải dùng đúng lúc. Chất Vitamin A trong dầu cá và mỡ trăn có tác dụng kích thích sự tái tạo tế bào biểu mô. Vì vậy, người ta thường sử dụng kết hợp với các thuốc khác tạo thành hợp chất có tác dụng như mỡ, kem, chỉ dùng cho những trường hợp bị bỏng sâu, và vào tuần lễ thứ ba sau khi bỏng.
Không nên dùng các biện pháp phản khoa học khác như bôi nước mắm, bôi tương, nước tiểu, vắt nước củ chuối, củ ráy lên vết thương…Nhiều lương y dởm đã chữa bỏng bằng các biện pháp hay các bài thuốc chưa được xác nhận, gây nên nhiều tình trạng tiền mất, tật mang, có khi nguy hiểm đến cả tính mạng. Nhiều người nghe theo những bài thuốc dân gian “truyền miệng”, sơ cứu vết thương ban đầu bằng cách bôi nước mắm, vôi bột, thuốc đánh răng, xà phòng… vào vết bỏng. Cách sơ cứu này đã khiến không ít người bệnh có nguy cơ nhiễm trùng vết bỏng, việc điều trị càng khó khăn và nguy hiểm hơn.
Anh Nguyễn Văn Quang, ở Chiêm Hóa – Tuyên Quang khi nghe theo lời mách bảo của những người trong làng đi lấy nước mắm và vôi bột bôi, rắc lên vết bỏng hơi nồi áp suất. Kết quả là vết bỏng ở mặt và cánh tay phải của anh Quang bị nhiễm trùng nặng dẫn đến hoại tử và rất nguy kịch phải vào điều trị lâu dài ở Viện Bỏng Quốc gia.
Dùng kem đánh răng: Nhiều người khi bị bỏng bôi kem đánh răng lên vết thương. Họ quan niệm kem đánh răng sẽ làm dịu vết thương. Song, thực chất kem đánh răng có chất kiềm nhẹ, khi bôi lên vết bỏng sẽ làm tăng đau đớn. Trong trường hợp bỏng axít, phải làm loãng nồng độ axít trên da bằng cách ngâm ngay vào nước lạnh. Sau đó, trung hoà axít còn dư trên da bằng xà phòng hoặc kem đánh răng, bằng cách xoa nhẹ xà phòng hoặc kem đánh răng cho sủi bọt và ngấm sâu vào da rồi rửa sạch.
Đối với bỏng nước sôi hay lửa, không được dùng xà phòng, kem đánh răng vì nó chỉ làm tăng thêm sự đau đớn.
Xử trí chung
Khi bị bỏng, nên lập tức ngâm ngay vào nước lạnh sạch nhưng không được dùng nước đá, nếu để lâu sẽ không còn tác dụng vì nước lạnh là giải pháp tối ưu cho tất cả các trường hợp bị bỏng nặng hay nhẹ. Nó làm sạch, mát những hóa chất dính trên vết bỏng, giảm đau, giảm nguy cơ gây sốc cho bệnh nhân.
Những trường hợp bỏng nặng như hóa chất, vôi… thì ngay lập tức cởi bỏ quần áo, đồ trang sức dính những chất này, dùng bàn chải hay chổi lông chà nhẹ cho hết sau đó xả nước lạnh, rồi bọc vùng bị bỏng bằng vải khô nhưng tránh không buộc chặt. Nếu bị bỏng ở mắt do bắn hóa chất thì phải rửa mắt ngay, ngâm mắt trong nước khoảng 20 phút cho sạch hóa chất, sau đó dùng vải mỏng băng mắt lại và đưa đi cấp cứu.
Bỏng điện cũng vô cùng nguy hiểm, khi phát hiện phải dùng vật cách điện (bao tay, que, gậy khô) ngắt điện ngay, bị bỏng điện nhìn bên ngoài có thể là rất nhẹ nhưng nguy cơ thương tổn lại rất cao có thể ăn sâu bên trong lớp biểu bì và ảnh hưởng đến nhịp tim, gây nguy hiểm đến tính mạng. Nhất là đối với trẻ nhỏ, các bậc cha mẹ phải thận trọng hơn với những vật dụng trong nhà như phích nước nóng, ổ điện, bếp… do còn nhỏ trẻ chưa hiểu rõ được mối nguy hiểm.
Tuyệt đối không tưới nước mắm hay dầu ăn lên vết phỏng vì như thế dễ làm vết thương bị nhiễm trùng rất nguy hiểm. Một số người khuyên dùng lòng trắng trứng gà bôi lên vết phỏng, điều này cũng giúp làm mát vùng da và mau lành vết thương nhưng chỉ có thể áp dụng cho vết phỏng nông, kín (da vẫn còn lành).
Xử trí vết phỏng nhẹ, vùng phỏng nhỏ
Với những vết bỏng nhỏ, nhẹ, như phỏng pô xe, phỏng nước sôi… thì sau khi ngâm nước (hoặc dội nước nhiều lần) có thể dùng thuộc mỡ đặc trị phỏng bôi phủ lên vết phỏng.
Băng lại bằng gạc sạch. Thoa thuốc bôi vào bông băng trước khi băng sẽ giúp trẻ đỡ đau hơn.
4. Thay băng sau 24 giờ và sau đó mỗi 2 – 3 ngày: Rửa vết thương bằng nước muối, bôi thuốc mỡ đặc trị (Biafin hoặc Silvirin) phủ kín vết phỏng và băng lại bằng gạc sạch.
Không nên chọc vỡ bóng nước, bôi đắp các loại chất bôi không rõ vì sẽ làm chậm lành vết thương và thêm nguy cơ nhiễm trùng. Đến cơ sở y tế nếu trong quá trình chăm sóc tại nhà có dấu hiệu nghi ngờ nhiễm trùng như da bị đỏ lên hoặc mất màu ở vùng da bình thường quanh vết phỏng, vết phỏng có mùi hôi, vết phỏng sưng nhiều, sốt hoặc kèm ớn lạnh.
Tóm lại: Mức độ tổn thương của bỏng nặng hay nhẹ phụ thuộc vào việc xử lý ban đầu, nếu xử lý sớm và đúng cách sẽ tránh được những hậu quả đáng tiếc xảy ra cho người bệnh.
SƠ CỨU BỎNG
Có nhiều nguyên nhân gây nên bỏng như bỏng do lửa, do hơi nóng, hóa chất và các tia... Vết thương bỏng có thể làm chết người hoặc để lại những di chứng nặng nề như mất chức năng vận động, biến dạng mất thẩm mỹ.
Tình trạng của cơ thể khi bị bỏng phụ thuộc vào 3 yếu tố:
- Độ sâu của bỏng.
- Diện tích của vết bỏng.
- Vị trí vết bỏng trên cơ thể.
1. Độ sâu của vết bỏng
Bỏng được phân loại theo độ sâu thành 3 độ:
1.1 Độ I: Bỏng bề mặt:
Trường hợp này chỉ lớp ngoài cùng da bị tổn thương làm cho da nơi bị bỏng đỏ ửng lên và đau rát do đầu mút đây thần kinh bị kích thích. Loại bỏng này thường lành hẳn sau 3 ngày.
1.2. Độ II: Bỏng một phần da:
Trường hợp này thì lớp biểu bì và một phần của lớp chân bì bị tổn thương, các túi phỏng nước được hình thành, nếu các túi phỏng nước được hìnhthành, nếu các túi phỏng nước vỡ ra sẽ để lộ một bề mặt màu hồng và cũng rất đau. Nếu được giữ sạch vết bỏng sẽ tự lành sau khoảng 1-4 tuần không cần điều trị gì mà cũng không để lại sẹo hoặc sẹo nhưng không đáng kể. Nhưng tổ chức da sau khi lành vết bỏng có thể đỏ trong một thời gian dài hơn. Nếu bỏng độ II bị nhiễm khuẩn thì lớp da dưới sẽ bị phá hủy và bỏng độ II chuyển thành bỏng độ III.
1.3. Ðộ III
Bỏng toàn bộ các lớp da: Toàn bộ các lớp da đều bị tổn thương bao gồm cả lỗ chân lông và tuyến mồ hôi. Vết bỏng trắng nhợt hoặc xám ìại, khô cứng và mất cảm giác (không đau) và các đầu nút dây thần kinh bị phá hủy.
Trong trường hợp bỏng rất nặng toàn bộ các lớp da thì lớp mỡ dưới da cũng có thể bị phá hủy và để lộ phần cơ.
Khi bị bỏng toàn bộ các lớp của da thì vết bỏng chỉ được lành dần từ phía bờ các vết bỏng và các vết bỏng rất dễ bị nhiễm khuẩn do vậy thời gian lành vết bỏng thường kéo dài rất lâu.
Ðộ sâu của một vết bỏng nhiều khi không đều nhau vì độ sâu của các vết bỏng phụ thuộc vào nhiệt độ, nồng độ hóa chất... và thời gian mà nhiệt độ hoặc hóa chất tác động lên da. Da có xu hướng giữ nhiệt và quần áo bị đốt cháy thành than làm cho vết thương trở nên nặng nề hơn, do đó việc sử dụng quá nhiều nước để rửa vết bỏng khi mà vết bỏng vừa mới xảy ra (trong vòng 30 phút khi xảy ra tai nạn) sẽ có tác dụng làm giảm độ sâu của bỏng.
2. Diện tích vết bỏng.
Có nhiều cách để ước tính diện tích vết bỏng nhưng thông thường diện tích vết bỏng được tính toán bằng cách sử dụng quy tắc số 9 của vết bỏng với các dịch của cơ thể phục thuộc vào phần trăm.
Ảnh hưởng của vết bỏng với các dịch của cơ thể phụ thuộc vào phần trăm diện tích bỏng so với diện tích cơ thể. Bỏng càng rộng thì càng nguy hiểm hơn vì bỏng càng rộng càng gây mất nhiều dịch của cơ thể, gây đau nhiều hơn, dễ bị sốc và nhiễm khuẩn. Ðối với người lớn nếu bỏng từ 15% trở lên và trẻ em từ 10% trở lên phải được coi là bỏng nặng và phải được chuyển tới bệnh viện.
3. Vị trí vết bỏng trên cơ thể
Bỏng ở những vùng khác nhau cũng có ý nghĩa rất lớn đối với tính mạng và quá trình hồi phục.
Ví dụ:
- Bỏng ở vùng mặt, cổ có thể gây phù nề chèn ép đường thở dễ bị sẹo xấu và sự biến dạng
- Bỏng ở mắt có thể dẫn đến mù
- Bỏng ở bàn tay hoặc vùng các khớp có thể dẫn đến co cứng, mất hoặc giảm chức năng hoạt động...
- Bỏng vùng lưng, vùng hậu môn sinh dục và những vùng gần hậu môn sinh dục thường có nguy cơ nhiễm khuẩn cao, kéo dài thời gian lành vết bỏng.
- Nếu nạn nhân hít phải khói, hơi nóng thì có thể gây bỏng đường hô hấp làm phù nề đường hô hấp, gây tắc nghẽn dẫn đến suy hô hấp và rất dễ dẫn đến viêm phổi...
4. Nguyên tắc chung cấp cứu chăm sóc bỏng
4.1. Dập tắt lửa đang cháy trên quần áo và làm mát vết bỏng.
Ðây là việc làm trước hết để tránh cho nạn nhân bị bỏng sâu và rộng thêm.
- Dùng nước hoặc cát để dập tắt lửa, hoặc có thể dùng áo khoác, chăn, vải bọc kín chỗ đang cháy để dập lửa (không dùng vải nhựa, ni lông để dập lửa).
- Xé bỏ phần quần áo đang cháy âm ỉ hoặc bị thấm đẫm nước nóng, dầu hay các dung dịch hóa chất nếu ngay sau đó không có nước lạnh để dội vào vùng bỏng.
- Bọc vùng bỏng chắc chắn rồi đổ nước lạnh lên. Với những vết bỏng ở táy có thể để cho nước từ vòi nước máy chảy trực tiếp lên vùng bỏng hoặc ngâm phần chi bị bỏng trong nước lạnh lên vùng bỏng nhưng phải thay thường xuyên 3-4 phút một lần cho đến khi nào nạn nhân thấy đỡ đau rát.
- Tháo bỏ những vật cứng trên vùng bỏng như giầy, ủng, vòng nhẫn trước khi vết bỏng sưng nề.
- Che phủ vùng bỏng bằng gạc, vải vô khuẩn nếu có hoặc bằng gạc hoặc vải sạch.
Chú ý: Ðừng bao giờ:
- Dùng nước đá để làm mát vết bỏng hoặc ngâm toàn bộ cơ thể vào trong nước.
- Tháo bỏ quần áo bị cháy đã được làm mát
- Sờ mó vào vết bỏng
4.2. Phòng chống sốc.
- Đặt nạn nhân ở tư thế nằm
- Ðộng viên an ủi nạn nhân
- Cho nạn nhân uống nước vì nạn nhân rất khát nhất là khi phải chuyển nạn nhân đi xa.
Chú ý:
- Chỉ cho nạn nhân uống nước khi nạn nhân tỉnh táo, không bị nôn và không có những chấn thương khác.
- Dung dịch cho uống: Nếu có điều kiện nên pha dung dịch sau để cho nạn nhân uông.
Pha vào 1 lít nước:
+ 1/2 thìa cà phê muối ăn
+ 1/2 thìa cả phê muối na tri bicarbonat
2-3 thìa cà phê đường hoặc mật ong, nước cam, chanh ép.
Nếu không có điều kiện để pha dung dịch trên thì có thể cho nạn nhân uống nước chè đường, nước trái muối, đường hoặc oreson.
- Dùng thuốc giảm đau cho nạn nhân. Dùng aspirin
Khi dùng thuốc giảm đau phải chú ý nếu nghi ngờ nạn nhân có chấn thương bên trong thì không được dùng thuốc giảm đau, an thần mạnh.
- Nhanh chóng chuyển nạn nhân tới cơ sở điều trị càng sớm càng tốt.
4.3. Duy trì đường hô hấp.
Nạn nhân bị bỏng vùng mặt cổ, nhất là khi bị kẹt trong nhà bị cháy mà ở đó có dầu, đồ đạc, bàn ghế, đang bốc cháy... thì sẽ nhanh chóng bị phù mặt và cổ và các biến chứng của đường hô hấp do hít phải khói hơi. Những trường hợp này phải ưu tiên số 1 và phải được chuyển tới bệnh viện ngay. Nhưng trong khi chờ đợi phải theo dõi sát nạn nhân và phải đảm bảo sự thông thoát đường hô hấp (giữ tư thế đúng hoặc có thể đặt một canul vào mũi hoặc miệng nạn nhân, có trường hợp phải mở khí quản...)
4.4. Phòng chống nhiễm khuẩn.
Bản thân vết bỏng là vô khuẩn. Do vậy khi cấp cứu bỏng phải rất thận trọng để tránh vết bỏng bị nhiễm bẩn: không dùng nước không sạch để dội hoặc đắp vào vết bỏng và có điều kiện người cấp cứu nên rửa tay sạch và tránh động chạm vào vết bỏng.
4.5. Băng vết bỏng.
- Không dược bôi dầu mỡ, dung dịch cồn ngay cả kem kháng sinh vào vết bỏng.
- Không được chọc phá các túi phỏng nước
- Không được bóc da hoặc mảnh quần áo dính vào vết bỏng
- Nếu có điều kiện thì phủ vết bỏng bằng gạc vô khuẩn nếu không thì dùng vải càng sạch càng tốt.
- Vết bỏng sẽ chảy rất nhiều dịch nên trước khi dùng băng co giãn để băng vết bỏng lại thì phải đệm một lớp bông thấm nước lên trên gạc hoặc vải phủ vết bỏng.
Chú ý: Nếu không có băng co giãn thì chỉ được băng lỏng vùng bỏng để đề phòng khi vết bỏng sưng nề gây chèn ép.
- Nếu bỏng bàn tay thì có thể cho bàn tay vào một túi nhựa rồi băng lỏng cổ tay, làm như vậy sẽ cho phép nạn nhàn vẫn cử động được các ngón tay một cách dễ dàng vừa tránh làm bẩn vết bỏng.
- Nếu vết bỏng ở cổ tay hoặc chân thì trước hết phủ vết bỏng bằng gạc vô khuẩn hoặc vải sạch sau đó cho vào một túi nhựa. Có thể đặt nẹp cố định chi bị bỏng, nhưng trong bất kỳ trường hợp nào cũng phải nâng cao chi bị bỏng để chống sưng nề các ngón chân, ngón tay và phải khuyên nạn nhân vận động sớm các ngón chân, ngón tay nếu có thể được.
5. Cấp cứu một số trường hợp bỏng đặc biệt
5.1. Bỏng điện
Ðiện giật hoặc sét đánh có thể gây bỏng rất sâu, một số bệnh nhân bị bỏng điện thì cơ thể cũng bị ngừng tim do dòng diện đánh vào tim do vậy phải tiến hành cấp cứu ngừng tim ngay nếu nạn nhân bị ngừng tim rồi mới sơ cứu vết bỏng sau. Nhưng trước khi tiến hành vết bỏng phải:
- Ngắt điện
- Nếu không thể ngắt điện được thì phải gỡ nạn nhân ra khỏi sự tiếp xúc với điện (phải dùng vật cách điện: Cao su, gậy gỗ khô để gỡ hoặc kéo nạn nhân).
- Khi sơ cứu vết bỏng xong phải nhanh chóng chuyển nạn nhân tới ngay bệnh viện vì những bệnh nhân bị điện giật rất dễ có rối loạn về tim mạch.
5.2. Bỏng hóa chất
Một số loại hóa chất như acid, kiềm mạnh hoặc iod, phospho dùng trong công nghiệp hoặc vôi mới tôi có thể gây nên tổn thương bỏng nặng và làm nạn nhân rất đau đớn; với những loại bỏng nặng và làm nạn nhân rất đau đớn với những loại bỏng do hóa chất phải:
- Rửa ngay, rửa liên tục bằng nước càng nhiều càng tốt, nếu không các tổ chức ở vùng bỏng sẽ bị hoại tử hoàn toàn.
Nếu xác định được nguyên nhân gây bỏng là do acid thì rửa vết bỏng bằng nước có pha bicarbonat. Nếu bỏng là do kiềm thì rửa bằng nước có pha giấm, chanh. Nhưng nếu bỏng mắt do hóa chất chỉ được rửa bầng nước bình thường. Nếu trong mắt vẫn còn những hạt vôi nhỏ thì phải rửa mạnh để làm bật những hạt vôi đó ra.
- Phải tháo bỏ ngay quần áo bị dính hóa chất. Khi tháo phải lưu ý bảo vệ tay của người làm động tác đó (không dùng tay trần để tháo).
- Nếu vết bỏng chảy nhiều máu thì phải xử trí như một vết thương chảy máu.
- Chuyển ngay nạn nhân tới cơ sở điều trị.
Cấp cứu bỏng thì đơn giản không rắc rối phức tạp nhưng đòi hỏi phải cấp cứu khẩn trương, linh hoạt. Người cấp cứu thành thạo có thể tránh được nhiều biến chứng nguy hiểm cho nạn nhân. 70% số ca bỏng mà được giữ sạch thì sẽ lành tự nhiên. Nhiều ca bỏng nặng, bỏng rộng nhưng được cứu sống và để lại di chứng không đáng kể nhờ có sự cấp cứu và chăm sóc cấp cứu ban đầu tốt.
Khi bị bỏng cần phải sơ cứu nhanh chóng và khẩn trương, tránh những hậu quả đáng tiếc. Tuy nhiên, việc sơ cứu cần phải được thực hiện rất cẩn thận và đúng cách.
Những kiến thức cơ bản sau sẽ giúp bạn xử trí nhanh chóng và đem lại hiệu quả khi sơ cứu bỏng.
Các cấp độ bỏng
Bỏng cấp 1 (bỏng bề mặt): Bỏng cấp 1 là dạng nhẹ nhất trong các cấp độ bỏng. Bỏng bề mặt thường chỉ là bỏng ngoài da, hay còn gọi là bỏng biểu bì.
Khi bị bỏng, sẽ làm cho vùng da nơi đây trở nên sưng phồng, mọng đỏ. Nhìn chung bỏng cấp 1 không mấy nguy hiểm, chỉ xảy ra trên phạm vi nhỏ và có thể tự điều trị tại nhà.
Bỏng cấp 2 (bỏng một phần da): Đây là loại bỏng thường xảy ra ở lớp dưới da. Vùng da bị bỏng sẽ đỏ lựng và phồng giộp lên với những vết loang hay hình thành các túi phỏng nước. Khi bị bỏng bạn có cảm giác đau rát.
Bỏng cấp 2, nếu ở thể nhẹ cũng có thể điều trị tại nhà. Tuy nhiên, nếu vết bỏng xảy ra ở mặt, tay chân, vùng háng, mông hay giữa các khớp tốt nhất bạn nên đến bác sĩ để được chăm sóc cẩn thận.
Bỏng cấp 3: Bỏng cấp 3 rất nguy hiểm, bao gồm toàn bộ các lớp bên dưới da. Cả lỗ chân lông, tuyến mồ hôi hay thậm chí các lớp mỡ dưới da đều bị phá huỷ.
Bỏng cấp 3 cần được sơ cứu và điều trị bởi các bác sĩ chuyên khoa.
Cách sơ cứu và điều trị tại nhà
Đầu tiên bạn phải nhanh chóng, dội nước lạnh hay cho nước chảy qua vết bỏng khoảng 10 đến 15 phút. Ngâm vết bỏng trong nước lạnh hoặc dùng gạc lạnh băng lại.
Đặc biệt không dùng đá để chườm trực tiếp lên vết bỏng, sẽ gây nên những hậu quả khó lường.
Không bôi mỡ hay dầu lên vết bỏng. Bôi mỡ hay dầu cá sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn sinh sôi, gây nhiễm trùng.
Sau khi đã làm nguội da bằng nước lạnh hay gạc lạnh, bạn hãy bôi kem chữa bỏng lên vùng da bỏng. Thuốc có tác dụng làm dịu mát vùng da bị bỏng.
Sau đó băng nó lại với một miếng gạc khô. Không nên buộc gạc quá chặt để tránh sức ép lên vết thương.
Ở chỗ da bị bỏng thường xuất hiện túi phỏng có chứa dịch lỏng bên trong. Bạn không nên chọc vỡ nó mà hãy để nó tự vỡ, để tránh nguy cơ bị nhiễm trùng.
Khi nó tự vỡ có thể nước và xà phòng diệt khuẩn để rửa, lau khô và sau đó bôi thuốc kháng sinh và băng lại với gạc mềm.
Nếu cần bạn có thể sử dụng thuốc giảm đau như acetaminophen cho đến khi vết thương khỏi hẳn.
Sơ cứu và điều trị bỏng nặng
Bỏng hoá chất: Dùng nước lạnh để dội sạch các hoá chất dính trên cơ thể nạn nhân. Nếu như đó là loại hoá chất quá mạnh như bỏng vôi, có thể dùng bàn chải hay chổi lông để loại bỏ nó sau đó mới xả nước.
Cởi bỏ quần áo, đồ trang sức bị dính hoá chất.
Bọc vùng bị bỏng bằng vải khô hay gạc khô để tránh nhiễm trùng.
Nếu vết bỏng xảy ra ở mắt, cần phải nhanh chóng rửa mắt ngay với nước, rửa nhiều lần để loại bỏ hết hoá chất trong mắt. Ngâm mắt trong nước ít nhất 20 phút. Sau khi rửa xong, nhắm mắt và băng lại bằng gạc mỏng.
Bỏng điện: Khi phát hiện nạn nhân bị bỏng điện cần khẩn trương ngắt nguồn điện ra khỏi người nạn nhân. Cần thận trọng trong quá trình ngắt điện, cần dùng vật cách điện như bao tay, que gậy khô.
Bỏng điện rất nguy hiểm có thể gây ảnh hưởng đến nhịp tim.
Vết bỏng có thể chỉ biểu lộ ra bên ngoài dưới dạng bỏng nhẹ, nhưng nguy cơ phá huỷ khi bị bỏng điện là rất cao, thậm chí nó sẽ ăn sâu vào bên trong dưới lớp biểu bì. Vì thế sau khi sơ cứu cần nhanh chóng đưa nạn nhân đến cơ sở y tế gần nhất.
thường thì khi bị bỏng thì mọi người hay nhúng ngay chỗ bị bỏng vào nước mát như 1 phản xạ,thậm chí càng lạnh càng tốt,NHƯNG ĐÂY LÀ 1 SAI LẦM ĐÁNG TIẾC khiến bạn có 1 vết sẹo khá "ấn tượng"!
khi biij bỏng, chỗ bị bỏng bị nhiệt độ cao làm cho khu da,thịt ở đó bị "chín tái", lợt lạt.nếu bạn nhúng ngay vào nước/chườm đá thì bạn chỉ giảm cảm giác đau rát ngay tức thời thôi. nhưng sau đó, chính sự thay đổi đột ngột về nhiệt độ này làm cho khu vực bị bỏng, nhất là phần da sẽ trở nên nghiêm trọng hơn: da lập tức bị lợt,bong ra; thịt bị tím bầm. sau đó là cảm giác RÁT GHÊ GỚM!
Cách tốt nhất và hữu hiệu để SƠ CỨU NGAY SAU KHI BỊ BỎNG là bạn phải giảm nhiệt độ ở chỗ biij bỏng từ từ.không được cho ngay vào nước mát lạnh,bôi kem đánh răng lên khu vực đó là tốt nhất(kem đánh răng có glyxerin giúp giữ nước ẩm và giảm được nhiệt độ từ từ), hoặc là bạn cho tay/chân vào thùng gạo cũng được. 2 cách này đều hiệu quả lắm.
Sau khi sơ cứu tại chỗ xong, nếu bị nặng thì bạn phải nhờ bác sĩ hỗ trợ đấy, còn nếu không đáng ngại lắm thì tại gia cũng được. bạn dùng á Lô hội(Nha đam) để chườm lên chỗ bỏng hàng ngày. Lô hội có tác dụng kháng khuẩn và hỗ trọ tái tạo da rất tốt bạn àh.
Đây là kinh nghiệm mình có được sau 1 lần bị nồi canh sôi ùng ục đổ vào chân, mình lại cho luôn vào nước, đến viện bác sĩ mói cho biết thế,hixhix=>giờ chân có cái sẹo dài+to=>không mặc được quần sooc!hix. Mọi người trong nhà và bạn bè mình đều sơ cứu khi bị bỏng giống như cách mà mình chia sẻ với bạn, rất tốt đấy.
Chúc bạn có sức khỏe tốt và hy vọng không mắc sai lầm nhu mình nhá!
Cách sơ cứu khi bị bỏng
Có nhiều nguyên nhân gây nên bỏng như bỏng do lửa, do hơi nóng, hóa chất và các tia... Vết thương bỏng có thể làm chết người hoặc để lại những di chứng nặng nề như mất chức nǎng vận động, biến dạng mất thẩm mỹ.
Tình trạng của cơ thể khi bị bỏng phụ thuộc vào 3 yếu tố:
- Độ sâu của bỏng
- Diện tích của vết bỏng.
- Vị trí của vết bỏng trên cơ thể
1. Độ sâu của vết bỏng
Bỏng được phân loại theo độ sâu thành 3 độ:
1.1 Độ I: Bỏng bề mặt:
Trường hợp này chỉ lớp ngoài cùng da bị tổn thương làm cho da nơi bị bỏng đỏ ửng lên và đau rát do đầu mút đây thần kinh bị kích thích. Loại bỏng này thường lành hẳn sau 3 ngày.
1.2. Độ II: Bỏng một phần da:
Trường hợp này thì lớp biểu bì và một phần của lớp chân bì bị tổn thương, các túi phỏng nước được hình thành, nếu các túi phỏng nước được hìnhthành, nếu các túi phỏng nước vỡ ra sẽ để lộ một bề mặt màu hồng và cũng rất đau. Nếu được giữ sạch vết bỏng sẽ tự lành sau khoảng 1-4 tuần không cần điều trị gì mà cũng không để lại sẹo hoặc sẹo nhưng không đáng kể. Nhưng tổ chức da sau khi lành vết bỏng có thể đỏ trong một thời gian dài hơn. Nếu bỏng độ II bị nhiễm khuẩn thì lớp da dưới sẽ bị phá hủy và bỏng độ II chuyển thành bỏng độ III.
1.3. Độ III
Bỏng toàn bộ các lớp da: Toàn bộ các lớp da đều bị tổn thương bao gồm cả lỗ chân lông và tuyến mồ hôi. Vết bỏng trắng nhợt hoặc xám ìại, khô cứng và mất cảm giác (không đau) và các đầu nút dây thần kinh bị phá hủy.
Trong trường hợp bỏng rất nặng toàn bộ các lớp da thì lớp mỡ dưới da cũng có thể bị phá hủy và để lộ phần cơ.
Khi bị bỏng toàn bộ các lớp của da thì vết bỏng chỉ được lành dần từ phía bờ các vết bỏng và các vết bỏng rất dễ bị nhiễm khuẩn do vậy thời gian lành vết bỏng thường kéo dài rất lâu.
Độ sâu của một vết bỏng nhiều khi không đều nhau vì độ sâu của các vết bỏng phụ thuộc vào nhiệt độ, nồng độ hóa chất... và thời gian mà nhiệt độ hoặc hóa chất tác động lên da. Da có xu hướng giữ nhiệt và quần áo bị đốt cháy thành than làm cho vết thương trở nên nặng nề hơn, do đó việc sử dụng quá nhiều nước để rửa vết bỏng khi mà vết bỏng vừa mới xảy ra (trong vòng 30 phút khi xảy ra tai nạn) sẽ có tác dụng làm giảm độ sâu của bỏng.
2. Diện tích vết bỏng
Có nhiều cách để ước tính diện tích vết bỏng nhưng thông thường diện tích vết bỏng được tính toán bằng cách sử dụng quy tắc số 9.
Bỏng càng rộng thì càng nguy hiểm hơn vì bỏng càng rộng càng gây mất nhiều dịch của cơ thể, gây đau nhiều hơn, dễ bị sốc và nhiễm khuẩn. Đối với người lớn nếu bỏng từ 15% trở lên và trẻ em từ 10% trở lên phải được coi là bỏng nặng và phải được chuyển tới bệnh viện.
3. Vị trí vết bỏng trên cơ thể
Bỏng ở những vùng khác nhau cũng có ý nghĩa rất lớn đối với tính mạng và quá trình hồi phục.
Ví dụ:
- Bỏng ở vùng mặt, cổ có thể gây phù nề chèn ép đường thở dễ bị sẹo xấu và sự biến dạng
- Bỏng ở mắt có thể dẫn đến mù
- Bỏng ở bàn tay hoặc vùng các khớp có thể dẫn đến co cứng, mất hoặc giảm chức nǎng hoạt động...
- Bỏng vùng lưng, vùng hậu môn sinh dục và những vùng gần hậu môn sinh dục thường có nguy cơ nhiễm khuẩn cao, kéo dài thời gian lành vết bỏng.
- Nếu nạn nhân hít phải khói, hơi nóng thì có thể gây bỏng đường hô hấp làm phù nề đường hô hấp, gây tắc nghẽn dẫn đến suy hô hấp và rất dễ dẫn đến viêm phổi...
4. Chăm sóc cấp cứu bỏng nói chung
4.1. Dập tắt lửa đang cháy trên quần áo và làm mát vết bỏng.
Đây là việc làm trước hết để tránh cho nạn nhân bị bỏng sâu và rộng thêm.
- Dùng nước hoặc cát để dập tắt lửa, hoặc có thể dùng áo khoác, chǎn, vải bọc kín chỗ đang cháy để dập lửa (không dùng vải nhựa, ni lông để dập lửa).
- Xé bỏ phần quần áo đang cháy âm ỉ hoặc bị thấm đẫm nước nóng, dầu hay các dung dịch hóa chất nếu ngay sau đó không có nước lạnh để dội vào vùng bỏng.
- Bọc vùng bỏng chắc chắn rồi đổ nước lạnh lên. Với những vết bỏng ở táy có thể để cho nước từ vòi nước máy chảy trực tiếp lên vùng bỏng hoặc ngâm phần chi bị bỏng trong nước lạnh lên vùng bỏng nhưng phải thay thường xuyên 3-4 phút một lần cho đến khi nào nạn nhân thấy đỡ đau rát.
- Tháo bỏ những vật cứng trên vùng bỏng như giầy, ủng, vòng nhẫn trước khi vết bỏng sưng nề.
- Che phủ vùng bỏng bằng gạc, vải vô khuẩn nếu có hoặc bằng gạc hoặc vải sạch.
Chú ý: Đừng bao giờ:
- Dùng nước đá để làm mát vết bỏng hoặc ngâm toàn bộ cơ thể vào trong nước.
- Tháo bỏ quần áo bị cháy đã được làm mát
- Sờ mó vào vết bỏng
4.2. Phòng chống sốc.
- Đặt nạn nhân ở tư thế nằm
- Động viên an ủi nạn nhân
- Cho nạn nhân uống nước vì nạn nhân rất khát nhất là khi phải chuyển nạn nhân đi xa.
Chú ý:
- Chỉ cho nạn nhân uống nước khi nạn nhân tỉnh táo, không bị nôn và không có những chấn thương khác.
- Dung dịch cho uống: Nếu có điều kiện nên pha dung dịch sau để cho nạn nhân uông.
Pha vào 1 lít nước:
+ 1/2 thìa cà phê muối ǎn
+ 1/2 thìa cả phê muối na tri bicarbonat
2-3 thìa cà phê đường hoặc mật ong, nước cam, chanh ép.
Nếu không có điều kiện để pha dung dịch trên thì có thể cho nạn nhân uống nước chè đường, nước trái muối, đường hoặc oreson.
- Dùng thuốc giảm đau cho nạn nhân. Dùng aspirin
Khi dùng thuốc giảm đau phải chú ý nếu nghi ngờ nạn nhân có chấn thương bên trong thì không được dùng thuốc giảm đau, an thần mạnh.
- Nhanh chóng chuyển nạn nhân tới cơ sở điều trị càng sớm càng tốt.
4.3. Duy trì đường hô hấp.
Nạn nhân bị bỏng vùng mặt cổ, nhất là khi bị kẹt trong nhà bị cháy mà ở đó có dầu, đồ đạc, bàn ghế, đang bốc cháy... thì sẽ nhanh chóng bị phù mặt và cổ và các biến chứng của đường hô hấp do hít phải khói hơi. Những trường hợp này phải ưu tiên số 1 và phải được chuyển tới bệnh viện ngay. Nhưng trong khi chờ đợi phải theo dõi sát nạn nhân và phải đảm bảo sự thông thoát đường hô hấp (giữ tư thế đúng hoặc có thể đặt một canul vào mũi hoặc miệng nạn nhân, có trường hợp phải mở khí quản...)
4.4. Phòng chống nhiễm khuẩn.
Bản thân vết bỏng là vô khuẩn. Do vậy khi cấp cứu bỏng phải rất thận trọng để tránh vết bỏng bị nhiễm bẩn: không dùng nước không sạch để dội hoặc đắp vào vết bỏng và có điều kiện người cấp cứu nên rửa tay sạch và tránh động chạm vào vết bỏng.
4.5. Bǎng vết bỏng.
- Không dược bôi dầu mỡ, dung dịch cồn ngay cả kem kháng sinh vào vết bỏng.
- Không được chọc phá các túi phỏng nước
- Không được bóc da hoặc mảnh quần áo dính vào vết bỏng
- Nếu có điều kiện thì phủ vết bỏng bằng gạc vô khuẩn nếu không thì dùng vải càng sạch càng tốt.
- Vết bỏng sẽ chảy rất nhiều dịch nên trước khi dùng bǎng co giãn để bǎng vết bỏng lại thì phải đệm một lớp bông thấm nước lên trên gạc hoặc vải phủ vết bỏng.
Chú ý: Nếu không có bǎng co giãn thì chỉ được bǎng lỏng vùng bỏng để đề phòng khi vết bỏng sưng nề gây chèn ép.
- Nếu bỏng bàn tay thì có thể cho bàn tay vào một túi nhựa rồi bǎng lỏng cổ tay, làm như vậy sẽ cho phép nạn nhàn vẫn cử động được các ngón tay một cách dễ dàng vừa tránh làm bẩn vết bỏng.
- Nếu vết bỏng ở cổ tay hoặc chân thì trước hết phủ vết bỏng bằng gạc vô khuẩn hoặc vải sạch sau đó cho vào một túi nhựa. Có thể đặt nẹp cố định chi bị bỏng, nhưng trong bất kỳ trường hợp nào cũng phải nâng cao chi bị bỏng để chống sưng nề các ngón chân, ngón tay và phải khuyên nạn nhân vận động sớm các ngón chân, ngón tay nếu có thể được.
5. Cấp cứu một số trường hợp bỏng đặc biệt
5.1. Bỏng điện
Điện giật hoặc sét đánh có thể gây bỏng rất sâu, một số bệnh nhân bị bỏng điện thì cơ thể cũng bị ngừng tim do dòng diện đánh vào tim do vậy phải tiến hành cấp cứu ngừng tim ngay nếu nạn nhân bị ngừng tim rồi mới sơ cứu vết bỏng sau. Nhưng trước khi tiến hành vết bỏng phải:
- Ngắt điện
- Nếu không thể ngắt điện được thì phải gỡ nạn nhân ra khỏi sự tiếp xúc với điện (phải dùng vật cách điện: Cao su, gậy gỗ khô để gỡ hoặc kéo nạn nhân).
- Khi sơ cứu vết bỏng xong phải nhanh chóng chuyển nạn nhân tới ngay bệnh viện vì những bệnh nhân bị điện giật rất dễ có rối loạn về tim mạch.
5.2. Bỏng hóa chất
Một số loại hóa chất như acid, kiềm mạnh hoặc iod, phospho dùng trong công nghiệp hoặc vôi mới tôi có thể gây nên tổn thương bỏng nặng và làm nạn nhân rất đau đớn; với những loại bỏng nặng và làm nạn nhân rất đau đớn với những loại bỏng do hóa chất phải:
- Rửa ngay, rửa liên tục bằng nước càng nhiều càng tốt, nếu không các tổ chức ở vùng bỏng sẽ bị hoại tử hoàn toàn.
Nếu xác định được nguyên nhân gây bỏng là do acid thì rửa vết bỏng bằng nước :ó pha bicarbonat. Nếu bỏng là do kiềm thì rửa bằng nước có pha giấm, chanh. Nhưng nếu bỏng mắt do hóa chất chỉ được rửa bầng nước bình thường. Nếu trong mắt vẫn còn những hạt vôi nhỏ thì phải rửa mạnh để làm bật những hạt vôi đó ra.
- Phải tháo bỏ ngay quần áo bị dính hóa chất. Khi tháo phải lưu ý bảo vệ tay của người làm động tác đó (không dùng tay trần để tháo).
- Nếu vết bỏng chảy nhiều máu thì phải xử trí như một vết thương chảy máu.
- Chuyển ngay nạn nhân tới cơ sở điều trị.
Cấp cứu bỏng thì đơn giản không rắc rối phức tạp nhưng đòi hỏi phải cấp cứu khẩn trương, linh hoạt. Người cấp cứu thành thạo có thể tránh được nhiều biến chứng nguy hiểm cho nạn nhân. 70% số ca bỏng mà được giữ sạch thì sẽ lành tự nhiên. Nhiều ca bỏng nặng, bỏng rộng nhưng được cứu sống và để lại di chứng không đáng kể nhờ có sự cấp cứu và chǎm sóc cấp cứu ban đầu tốt.
Điều trị bỏng hiệu quả bằng cách nào?
Việc điều trị bỏng bao gồm điều trị toàn thân và điều trị tại chỗ vết bỏng.
Điều trị toàn thân nhằm mục đích dự phòng hay điều trị các biến chứng toàn thân do bỏng gây nên (ví dụ như biến chứng sốc bỏng, nhiễm khuẩn, nhiễm độc, suy thận cấp, chảy máu tiêu hóa, suy nhiều tạng do bỏng...). Ngoài ra, việc điều trị toàn thân còn được hiểu là những biện pháp nhằm cung cấp cho bệnh nhân chế độ dinh dưỡng tốt hơn, nâng đỡ thể lực, tinh thần của bệnh nhân để giúp họ vượt qua bệnh tật.
Điều trị tại chỗ vết bỏng là những biện pháp dùng thuốc hay không dùng thuốc nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi nhất để vết bỏng tự khỏi (trong trường hợp bỏng nông) hoặc can thiệp bằng phẫu thuật (trong trường hợp bỏng sâu) để làm liền vết bỏng.
Đối với bỏng nông, thuốc điều trị vết bỏng có các nhóm như nhóm chống nhiễm khuẩn vết bỏng, nhóm tạo môi trường thuận lợi (độ ẩm, cung cấp các yếu tố phát triển...) cho việc tái biểu mô của vết bỏng. Cần phải hiểu rằng thuốc tại chỗ chỉ có tác dụng thúc đẩy quá trình liền vết bỏng nông chứ không quyết định việc khỏi hay không khỏi vết bỏng nông, bởi bỏng nông là bỏng tự khỏi cho dù có thuốc hay không có thuốc.
Đối với bỏng sâu, thuốc tại chỗ có tác dụng thúc đẩy tan rữa hoại tử bỏng và chống nhiễm khuẩn, thuốc không làm vết bỏng sâu tự liền được mà cần phải can thiệp phẫu thuật. Hiện nay trong dân gian có khá nhiều bài thuốc chữa bỏng, tuy nhiên chưa có bài thuốc nào chính thức được hội đồng khoa học thẩm định và công nhận.
Lời khuyên tốt nhất với bệnh nhân bỏng là không nên tự ý dùng các thuốc điều trị vết bỏng khi chưa rõ nguồn gốc, chưa xác định được tính chất của vết bỏng nông hay sâu. Càng không có một loại thuốc nào giúp tránh được sẹo bỏng. Có sẹo hay không có sẹo, sẹo tốt hay xấu phụ thuộc rất nhiều yếu tố mà trước hết có tính chất quyết định đó là tính chất bỏng nông hay sâu, sau đó là các yếu tố liên quan đến cơ địa, điều trị và chăm sóc sau khi khỏi... Tất cả những quảng cáo nói rằng thuốc làm vết bỏng không có sẹo đều không có căn cứ khoa học.
Xử trí ngay sau khi bị bỏng
Cho đến nay, cách xử lý tốt nhất, hiệu quả nhất vẫn là việc ngâm, rửa vết bỏng vào nước lạnh sạch (nước từ 10-20o C, không dùng nước đá, đá lạnh). Việc ngâm rửa càng sớm càng tốt, thời gian ngâm rửa khoảng từ 15-20 phút.
Sau khi ngâm rửa, nên sử dụng băng vải sạch để băng ép nhẹ vùng bị bỏng rồi chuyển nạn nhân đến cơ sở y tế gần nhất. Không nên bôi bất cứ thứ gì theo kinh nghiệm lên vết bỏng lúc đó vì sẽ làm bệnh nhân thêm đau đớn hoặc nhiễm khuẩn. Mọi cố gắng để tìm được các loại thuốc bôi tại chỗ đều không phải là cách tốt nhất vì sẽ làm mất đi cơ hội (trong 30 phút đầu) và chưa cần thiết.
khi bị bỏng:nếu không chữa trị kịp thời sẽ rất nguy hiểm va sẽ để lại vết sẹo. điều này chắc chắn không ai trong chúng ta la thích.
một số cách sơ cứu đơn giản như sau:
+, có thể lấy ngay lóng trắng trứng gà bôi nên vết bị bỏng.
+, nếu bị ở tay hoặc chân có thể ngâm ngay vào nước lạnh.
+,lấy nõn của cây chuối,giã nhỏ va buộc nên vết bỏng.
+,nếu nha có mỡ chăn thì lấy bôi nên la tốt nhất.
Em không phải là y sĩ nên chỉ biết vài mẹo vặt thế thui. các bác xem nếu áp dụng được thì áp dụng.(dùng trong các trường hợp không có thuốc điều trị)
* Cắt đứt nguyên nhân gây bỏng: Đây là việc làm trước hết để tránh cho nạn nhân bịbỏng sâu và rộng thêm:
+ Dập tắt lửa trên da (bằng nước hoặc cát, áo khoác, chăn, vải…không dùng vải nhựa, nilon đẻ dập lửa), tháo bỏ quần áo chỗ cháy hay thấm nước nóng (bỏng nước sôi, dầu, bỏng do ngã vào hố vôi nóng…) hay các dung dịch hóa chất, cắt nguồn điện nếu là bỏng do điện, bỏng do acid thì rửa bằng nước vôi loãng hoặc nước xà phòng, bỏng do kiềm thì đắp dấm ăn dung dịch 0,5 đến 5% hay nước chanh quả, bọc vùng bỏng chắc chắn rồi đổ nước lạnh lên, có thể cho vòi nước máy chảy trực tiếp lên vùng bỏng từ 20 – 30 phút, hoặc ngâm phần chi bị bỏng trong nước lạnh 3-4 phút 1 lần cho đến khi nạn nhân cảm thấy đỡ đau rát.
+ Tháo bỏ các vật cứng trên vùng bỏng như giầy, ủng, vòng, nhẫn trước khi vết bỏng sưng nề.
+ Băng vô khuẩn vết bỏng sau khi đã rửa sạch vết bỏng bằng nước muối đẳng trương.
Lưu ý:
+ Không dùng nước đá để làm mát các vết bỏng hoặc ngâm toàn bộ cơ thể vào trong nước.
+ Tháo bỏ quần áo bị cháy đã được làm mát, không lột quần áo mà dùng kéo cắt.
* Phòng chống sốc:
+ Đặt nạn nhân ở tư thế nằm, nghỉ ngơi yên tĩnh.
+ Động viên, an ủi nạn nhân.
+ Khi nạn nhân tỉnh táo, không nôn, chướng bụng và không có những chấn thương khác, cho nạn nhân uống dịch A (Natribicarbonat 4g+đường 100g+nước vừa đủ 1 lít trong 24 giờ uống 1-2 lít), nước chè đường nóng hoặc ORS , ủ ấm (nếu trời rét).
+ Các thuốc giảm đau, an thần: Phong bế novocain dung dịch 0,25%, dùng hỗn hợp giảm đau gồm:
- Promedol dung dịch 2% từ 1ml đến 2ml.
- Dimedrol dung dịch 2% từ 1ml đến 2ml.
- Pipolphen dung dịch 2,5% từ 1ml đến 2ml.
3 thứ trộn lẫn tiêm bắp. Sau khi tiêm 10 – 12 phút, đa số người bệnh ngủ thiếp, đau đớn giảm, còn có tác dụng chóng phù, nôn và kháng Histamin (chống sốc). Dịch truyền (Ringerlactat, NaCl 0,9%). Nếu nghi ngờ nạn nhân có chấn thương khác bên trong thì không dùng thuốc giảm đau, an thần mạnh.
+ Theo dõi dấu hiệu sinh tồn, đảm bảo nhịp thở trên 12lần/phút.
+ Vận chuyển nạn nhân nhẹ nhàng đến cơ sở điều trị càng sớm càng tốt.
* Duy trì đường hô hấp:
Nạn nhân bị bỏng vùng đầu mặt cổ, nhất là khi bị kẹt trong nhà bị cháy có dầu, đồ đạc, bàn ghế, phim nhựa, polyme… đang bốc cháy thì nạn nhân sẽ hít phải các khí khói độc, đặc biệt là khí oxytcacbon gây hội chứng: tổn thương do hít thở – inhalation injury, gây co thắt thanh môn, phế quản, phù phổi, rối loạn nhịp tim, khó thở, nhức đầu, chóng mặt, đau ngực, co giật… Những trường hợp này phải ưu tiên cấp cứu số 1 và phải được chuyển tới bệnh viện ngay. Phải theo dõi sát nạn nhân và đảm bảo sự thông thoáng đường hô hấp:
+ Đưa bệnh nhân ra nơi thoáng khí
+ Thở oxy nếu cần.
+ Giữ bệnh nhân ở tư thế đứng.
+ Đặt nội khí quản.
+ Mở khí quản nếu nguy cấp.
* Phòng chống nhiễm khuẩn:
Nhiễm khuẩn cũng là 1 vấn đề rất quan trọng đối với nạn nhân bỏng, là 1 trong những yếu tố quyết định thành công trong việc điều trị và chăm sóc bệnh nhân bỏng. Bản thân vết bỏng là vô khuẩn. Do vậy khi cấp cứu bỏng phải rất thận trọng để tránh vết bỏng bị nhiễm bẩn:
+ Không sử dụng nước không sạch để dội, đắp vào vết bỏng trong khi sơ cứu nạn nhân.
+ Không sờ mó vào vết bỏng.
+ Không chọc vỡ các nốt phỏng.
+ Người cán bộ y tế nên rửa sạch tay trước khi sơ cứu vết thương nạn nhân.
+ Nên có các tấm ga hoặc săng vô trùng để quấn, bọc bệnh nhân.
+ Sử dụng thuốc kháng sinh (augmentin, cephalosporin, aminoglycosid).
* Băng bó vết bỏng:
+ Không được bôi dầu, mỡ, dung dịch cồn, kem kháng sinh vào vết bỏng.
+ Không được bóc da hoặc cố bóc mảnh quần áo dính vào vết bỏng.
+ Bỏng độ I không cần băng để hở, độ II có nốt phỏng, độ III có hoại tử ướt cần băng để che chở, chống nhiễm khuẩn, có hoại tử khô không cần băng.
+ Vết bỏng sẽ chảy nhiều dịch nên trước khi dùng băng co giãn để băng vết bỏng lại thì phải đệm một lớp bông thấm nước lên trên gạc hoặc vải phủ vết bỏng.
+ Nếu bỏng bàn tay thì có thể cho bàn tay vào 1 túi nhựa rồi băng lỏng cổ tay, làm như vậy nạn nhân có thể vẫn cử động được các ngón tay và tránh làm bẩn vết bỏng.
+ Nếu bỏng ở cổ tay hoặc chân thì trước hết phủ vết bỏng bằng gạc vô khuẩn hoặc vải sạch sau đó cho vào túi nhựa. Có thể đặt nẹp cố định chi bị bỏng, nhưng trong bất kỳ trường hợp nào cũng phải nâng cao chi bị bỏng để chống sưng nề các ngón, hướng dẫn nạn nhân vận động sớm các ngón chân, ngón tay nếu có thể được để tránh co da, dính khớp.
2. Xử trí và chăm sóc 1 số trường hợp bỏng đặc biệt:
* Bỏng điện : Điện giật trong khi sửa chữa điện nước gây bỏng rất sâu, một số nạn nhân bị bỏng điện kết hợp ngừng tim do tác dụng của dòng điện vào tim. Do vậy phải tiến hành cấp cứu ngừng tim ngay sau đó mới tiến hành cấp cứu vết bỏng. Thứ tự các bước:
+ Ngắt điện.
+ Nếu không ngắt điện được thì phải gỡ nạn nhân ra khỏi sự tiếp xúc với điện (phải dùng vật cách điện: Cao su, gậy gỗ khô để gỡ hoặc kéo nạn nhân).
+ Cấp cứu ngừng tim (nếu có).
+ Sơ cứu vết bỏng.
+ Sau khi sơ cứu vết bỏng xong phải nhanh chóng chuyển nạn nhân đến bệnh viện để đề phòng những rối loạn về tim mạch.
* Bỏng hoá chất:
+ Rửa ngay và liên tục bằng nước sạch càng nhiều càng tốt (tránh hoại tử các tổ chức bị bỏng). Trừ trường hợp là các hoá chất còn sinh nhiệt khi thực hiện các phản ứng hoá học, khi hút nước như: Acid muriatic, acid sunfuric.
+ Tìm, hỏi để phát hiện tác nhân gây bỏng để có phương pháp xử trí khác nhau:
- Tác nhân gây bỏng là acid: khi rơi vào da nạn nhân có cảm giác cháy xèo da, rát da, nóng ở vùng bị bỏng, gây những đám hoại tử trên da, niêm mạc dưới hình thức các vết màu khô cứng có ranh giới rõ với vùng da lành. Tại các đám hoại tử này cảm giác da và niêm mạc bị mất. Các đám hoại tử màu thường có hình dạng các giọt nước, các vết mực loang lổ. Rửa vết bỏng bằng nước có pha Bicarbonat, nước vôi loãng hoặc nước xà phòng.
- Tác nhân gây bỏng là do kiềm (base): các tổn thương thường mềm , ướt, màu trắng xám, xuất tiết dịch, có thể thấy có các nốt phỏng, viền các đám da bỏng bị xung huyết và phù sưng. Bỏng nông và bỏng sâu thường xen kẽ. Rửa vết bỏng bằng dấm ăn dung dịch 0,5 đến 5% hay nước chanh quả.
Nếu bỏng mắt do hoá chất chỉ được rửa bằng nước sạch bình thường. Nếu trong mắt vẫn còn có những hạt vôi nhỏ thì phải rửa mạnh để làm bật những hạt vôi đó ra.
+ Tháo bỏ ngay quần áo bị dính hoá chất (không dùng tay trần để thaó).
+ Nếu vết bỏng chảy nhiều máu thì phải xử trí như đối với vết thương chảy máu.
+ Chuyển ngay nạn nhân tới cơ sở điều trị.
Các loại hoa màu tím kiêu sa
Ý nghĩa các loài hoa
Cách làm các loại sinh tố hoa quả cực tốt cho cơ thể
Mẫu hoa cưới độc đáo
Trồng hoa ban công chung cư như thế nào
Hoa cưới bằng hoa rum đẹp
Ý nghĩa của hoa cẩm chướng
Ý nghĩa của hoa thiên lý
Ý nghĩa của hoa lavender
Ý nghĩa của hoa lay ơn
Ý nghĩa của hoa lan chuông
Ý nghĩa của hoa lan hồ điệp
Ý nghĩa của hoa thủy tiên
Ý nghĩa của hoa thiên điểu
Ý nghĩa của hoa thiên lý
Làm tóc xoăn tự nhiên bằng giấy
Làm tóc xoăn tự nhiên không cần uốn
Cách làm tóc mái phồng cực đẹp
Chữa thâm quầng mắt bằng tự nhiên
Mặt nạ trị thâm quầng mắt từ thiên nhiên
Mặt nạ trị tàn nhang hiệu quả nhất
Mặt nạ trị nám bằng trái cây
Ý nghĩa của biển số xe
Tự may váy cho bé cực yêu
Ý nghĩa của hoa cẩm chướng
Ý nghĩa của hoa hồng trong tình yêu
Ý nghĩa số điện thoại của bạn
Ý nghĩa của Gangnam style
Ý nghĩa của ngày 20 tháng 11
Tự chế kem dưỡng da mùa đông
Tự chế kem dưỡng da ban đêm cực hiệu quả
Tự chế kem dưỡng vùng mắt
Tự chế sữa rửa mặt cho da nhờn
Tự chế sữa rửa mặt cho da mụn
Cách làm lông mi cong tự nhiên
Làm mặt nạ dưỡng da trắng hồng
(ST).