Bài thuốc chữa bệnh sỏi mật hiệu quả nhất

Bài thuốc chữa bệnh sỏi mật hiệu quả nhất. Sỏi mật là sỏi nằm trong túi mật. Khi sỏi chuyển động thì gây đau. Mức độ đau phụ thuộc vào kích thước và vị trí của sỏi. Đông y gọi điều trị sỏi mật là "Bài thạch".Sau đây là hai triệu chứng cơ bản và bài thuốc chữa bệnh phù hợp.






BÀI THUỐC CHỮA BỆNH SỎI MẬT

Năm bài thuốc đơn giản, rẻ tiền chữa bệnh sỏi thận và mật

Năm nay tôi 77 tuổi, bị bệnh sỏi thận tái phát đi, tái phát lại phải chạy chữa tốn kém. Thật may, ông anh cho một quyển sách chữa bệnh bằng cây nhà lá vườn.

Tác giả là một cha cố ở Mỹ viết về quả đu đủ chữa được 8 bệnh, trong đó quả đu đủ xanh làm tan sỏi thận, sỏi mật. Tôi thực hiện ngay ăn 7 quả đu đủ trong 7 ngày, đi siêu âm sỏi đã tan hết. Từ đó tôi phổ biến cho 7 người ăn đu đủ xanh thì 6 người khỏi. Bài thuốc đơn giản mà hiệu quả nên tôi viết bài báo "Đu đủ xanh có thể làm tan sỏi thận, sỏi mật" cho Báo Người cao tuổi (đăng ở Đặc san tháng 4-2010). Ban đầu tôi viết chưa tỉ mỉ, chi tiết nên độc giả khắp cả nước gọi điện thoại về hỏi thêm, nhất là sau số báo tháng 6-2010 ra thì hằng ngày có tới hơn chục cuộc điện thoại hỏi về cách ăn đu đủ chữa sỏi thận. Tôi đã hướng dẫn chi tiết cách sử dụng cho rất nhiều người. Qua 6 tháng, tôi tiếp nhận gần 500 cuộc điện thoại, gọi về nhờ hướng dẫn ăn đu đủ chữa sỏi thận.

Đến tháng 5 - 2011, hồi âm đã có trên 80 người cho biết đã khỏi bệnh. Điển hình là ông Nguyễn Ngọc Hoàng Anh, xã Hương Sơn, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc (ĐT: 0978.502.069) sỏi 0,8 mm tiêu tan. Theo thống kê của ông Nguyễn Hữu Chung, Hội Người cao tuổi xã Phượng Sơn, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang (ĐT: 0976.166.970) có ông Lê Công Hội, 65 tuổi sỏi 0,70 mm-0,8 mm ăn đu đủ tiêu tan sỏi và bà con trong xóm làm theo đã có 6 người khỏi là các ông, bà: Trần Thị Xướng, Trần Thị Nhận, Đỗ Bá Ngoan, Nguyễn Viết Vui, Lý Văn Tiến, Nguyễn Kim Chinh. Ngay ở làng tôi, thôn Hội Động, xã Đức Lý, huyện Lý Nhân cũng 6 người khỏi là ông Minh, ông Sáu, ông Huyến, ông Thau, bà Phương, anh Thiết. Ông Nguyễn Văn Xướng, đường Quy Lưu, phường Minh Khai, TP Phủ Lý bị sỏi mật, vợ là bà Nguyễn Thị Thịnh bị sỏi thận 3 viên to. Hai ông bà thực hiện ăn đu đủ xanh đều khỏi bệnh. ông Nguyễn Văn Đấu người cùng làng tôi là cán bộ về hưu ở số nhà 12 tổ 17 - phường Phan Đình Phùng, TP Thái Nguyên bị sỏi thận chạy chữa nhiều tiền mà không khỏi. Ông chỉ ăn 7 quả đu đủ là khỏi. Ông nói: "Người nghèo được bài thuốc này là thần tiên". Còn nhiều người nữa không kể hết được. Cũng có một số người ăn đu đủ xanh không khỏi bệnh là do ăn chưa đúng cách, chưa đủ liều hoặc do cơ địa không phù hợp, còn loại sỏi san hô không tiêu tan được.

Nay tôi hướng dẫn thêm bài chữa bằng đu đủ và sưu tầm thêm 4 bài nữa chữa sỏi thận để bạn đọc tham khảo, nếu áp dụng mà không khỏi, không phù hợp thì chữa sang bài kia. Nếu hợp, may mắn là khỏi, không tốn tiền, không phải mổ.

Bài 1: Dùng quả đu đủ xanh

Chọn quả đu đủ độ 400 - 600 gam không già, không non, loại quả bánh tẻ, vỏ còn xanh, còn nhiều nhựa trắng, tác dụng chính là nhựa (quả già ít nhựa, non ăn thì đắng, quả bé không đủ sức bào mòn sỏi). Khi ngắt quả rửa sạch cắt đầu, cắt đuôi moi hết hột bỏ đi, cho thêm ít muối vào quả đu đủ cho vừa ăn để nguyên cả vỏ xanh và nhựa đặt vào cái nồi con, hay cặp lồng, đổ nước đun cách thủy độ 30 phút quả chín, ăn mỗi ngày một quả. Sau bữa ăn an toàn dạ dày. Tùy theo sỏi to nhỏ mà dùng, sỏi dưới 10 mm thì ăn 7 quả, nếu trên 10 mm phải ăn nhiều hơn, ăn liên tục, không kiêng kị gì, người khó ăn có thể chấm đường cho dễ.

Bài 2: Dầu ô liu và quả chanh

Tỉ lệ một thìa dầu ô liu một quả chanh vừa phải, căn cứ vào lượng sỏi to nhỏ mà dùng như sau:

Sỏi trung bình trên dưới 10 mm ngày 6-7 quả chanh vắt lấy nước hòa với 6 đến 7 thìa dầu ô liu, quấy đều, đổ thêm 3 - 4 bát nước lã đun sôi để nguội hòa đều rồi uống. Uống sau 3 - 4 giờ đi tiểu liên tục hứng vào bô để lắng, xem dưới đáy bô có cặn trắng là tốt. Sỏi nhỏ có thể làm một lần, nếu sỏi to có thể làm 2 đến 3 ngày.

Bài 3: Rau om nước dừa

Rau om ở miền Nam thường dùng nấu canh chua (ở miền Bắc gọi là rau ngổ) thường mọc ở các bờ ao, các mương máng. Có loại trắng thường làm rau thơm ăn với thịt chó. Loại đỏ dùng cũng được. Lấy độ 1 kg đem giã nát vắt lấy nước cốt hòa với nước dừa uống ngày 2 - 3 lần nếu là khô dùng 5 - 6 lạng sắc uống ngày 2 -3 lần. Thời gian dùng 5 - 7 ngày tùy lượng sỏi. Đây là bài thuốc của Hòa Thượng Thích Giác Nhiên.

Bài 4: Hoa cây đu đủ đực

Hoa cây đu đủ đực ngắt xuống giã nát, hòa với nước lã đun sôi để nguội trộn đều vắt lấy nước uống ngày ba lần. Tùy loại sỏi, hợp là tiêu tan (bài của Hòa Thượng Thích Giác Nhiên).

Bài 5: Mề gà, mật vịt

Gà vịt thường ăn lẫn đá, sỏi, cua ốc, chất rắn nhiều can-xi thế mà vẫn tiêu tan được nhờ nó có chất gì đó. Cách làm, bóc màng trong mề của con gà, con vịt đem phơi khô, tán nhỏ. Còn mật vịt lấy về ngâm rượu sau 15 ngày là dùng được. Mỗi ngày dùng ít bột của màng gà, vịt đã tán nhỏ với 2 mật con vịt ăn liên tục từ l0 -15 ngày. Nếu tìm được rễ cây cỏ xước, rễ cây xấu hổ, rễ cây dứa dại, rễ cây đỗ ván đem băm phơi khô, sắc uống thì càng tốt, chóng khỏi hơn (bài này trên ti-vi đã phổ biến)

Lương y Lương Phúc Huyên

(Xóm 7, Hội Động, xã Đức Lý,

huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.

ĐT: 0351.6298.295)

Bài thuốc dân gian chữa bệnh sỏi mật



Triệu chứng 1: Viêm túi mật do sỏi, bệnh nhân có sốt, đau vùng hạ sườn phải, sự tiết mật bị trì trệ, phân bạc màu, rối liệu tiêu hóa, da sạm.

Sau đây xin giới thiệu một số bài thuốc Đông y hữu hiệu:

Bài 1: Hạ liên châu 16g, nhân trần 16g, đại hoàng 6g, chỉ xác 8g, đan bì 10g, chi tử 10g, bạch thược 12g, đương quy 12g, trinh nữ 16g, râu ngô 16g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần, uống 3 lần. Công dụng: chống viêm, tăng tiết dịch mật, bài thạch.

Bài 2: Lá và cây cối xay 20g, kim tiền thảo 20g, lá tre 12g, hương nhu trắng 12g, xấu hổ 20g, chỉ xác 10g, trần bì 10g, đinh lăng 20g, biển súc 16g, đại hoàng 6g, quy 12g, thục 12g, hoàng kì 12g, cam thảo 12g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần, uống 3 lần. Công dụng: chống viêm, thông mật, bài thạch, giảm đau.

Triệu chứng 2: Trường hợp sỏi làm tắc ống dẫn mật, gây ứ mật, đau đớn dữ dội, da vàng, tiểu vàng, bệnh nhân đau tăng, nằm ở tư thế "cò súng".

Bài 1: Lá đinh lăng 30g, nhân trần 30g, chỉ xác 20g, trần bì 20g, cát căn 16g, rễ xấu hổ 20g. Đổ nước 2 bát, sắc còn 1 bát, chia uống 2 lần, cách nhau 20 phút.

Bài 2: Kê nội kim (sao vàng) 12g, thài lài tía 20g, đinh lăng 20g, rễ bí đỏ 20g, bạch mao căn 20g, kim tiền thảo 30g, nhân trần 16g, chi tử 10g, chỉ xác 12g, trần bì 12g. Đổ nước 3 bát, sắc còn 1 bát, chia uống 2 lần, uống trong ngày.

Bài 3 (trà dược): Kim tiền thảo, nhân trần, lá đinh lăng, hương nhu trắng, bạch mao căn, cỏ mần trầu, rau má mỗi vị 200g. Các vị rửa sạch, cắt ngắn phơi khô, trộn đều, bảo quản cho thật tốt, tránh mốc, tránh ẩm. Ngày dùng 30 - 40g hãm với nước sôi vào ấm tích, sau 10 phút là có thể dùng được. Uống dần trong ngày, trà này dùng thường xuyên có tác dụng chống viêm, bài thạch, lợi mật, lợi gan. Bệnh nhân có tiền sử sỏi mật, viêm ống dẫn mật, thiểu năng
gan, gan nhiễm mỡ nên dùng.

Nước chanh, dầu ôliu tẩy sỏi mật?

Theo một tài liệu cho biết dùng chanh và dầu ô liu tẩy sỏi trong gan, mật rất hiệu quả. Tuy nhiên, các bác sĩ đều cảnh báo, cần thận trọng đối với cách trị bệnh này.

bạn đang gặp phải những dấu hiệu đáng lo n


Tòa soạn nhận được thư và tài liệu của ông Trương Bách Thiện (127B Bùi Thị Xuân, Hà Nội) nhờ thẩm định về cách dùng nước muối, chanh và dầu ôliu để tẩy sỏi trong gan mật rất đơn giản. Tuy nhiên, các bác sĩ Đông y và Tây y đều cảnh báo, cần thận trọng đối với cách trị bệnh này.


Nhiều tài liệu cho rằng nước chanh, dầu ôliu thải độc và tống được sỏi gan mật ra.

Tài liệu trên là của BS F.Batmanghelidj bị cầm tù gần 3 năm ở Iran đã dùng để chữa cho hơn 3.000 bạn tù chỉ dùng mỗi một thứ thuốc là nước uống. Phương pháp thanh lọc của ông F.Batmanghelidj rất đơn giản, theo hai giai đoạn. Một là thanh lọc các độc tố trong dạ dày, ruột non, ruột già, bằng 0,5 lít nước tinh khiết pha với muối biển, sau 15 - 20 phút cơ thể sẽ tống kết các chất dơ bẩn ra, rửa sạch ruột.

Sau khi điểm tâm và ăn trưa xong, nhịn 6 tiếng thì tiến hành bước hai uống 2 thìa dầu canh ôliu nguyên chất và nước vắt một quả chanh, sau đó nằm sấp nghiêng người về phía bên phải, co đầu gối phải lên gần vai để giúp cho sạn trong túi mật và gan dễ ra ngoài. 5 - 15 phút sau ngồi dậy uống tiếp dầu ôliu như lần đầu, uống tất cả 8 lần và đến  3 - 4 giờ sáng, có người 9 - 10 giờ, sạn xổ ra theo phân. Ông Vũ Ngọc Lâm người đã áp dụng bài này lần đầu ra được 130 viên sạn lớn nhỏ, có viên to bằng trứng cút. Ông Nguyễn Văn Khuôn, 86 tuổi ở phố Vọng, Hà Nội thực hiện cũng ra rất nhiều sạn có màu đen, hai cục màu xanh, nhiều cục to bằng hạt ngô, bé bằng hạt gạo nếp...

Đem tài liệu hướng dẫn này đến gặp các bác sĩ chuyên khoa cả về Đông y và Tây y, chúng tôi đều nhận được câu trả lời, không biết về cách chữa bệnh này và rất khó kiểm chứng, thiếu cơ sở khoa học. Lương y Vũ Quốc Trung, Hội Đông y Việt Nam phân tích, bài thuốc quá phi lý và thiếu độ tin cậy vì cho rằng, ai bỏ qua không áp dụng sẽ mất  30 - 50 năm cơ hội sống khoẻ. 

Lương y Vũ Quốc Trung phân tích, nếu lấy cái may mắn của bài thuốc trừ đi thì tuổi thọ của con người chẳng còn bao nhiêu, trong khi số người áp dụng bài thuốc rất ít... Hơn nữa, gan không có sỏi, trong gan chỉ có các nốt canxi hóa không thể bài tiết ra được. Mật của người cũng bé, có nhiệm vụ nhũ hóa chất béo để cơ thể hấp thu... nên túi mật, kể cả ở thận cũng không thể chứa được 130 viên sỏi như trong tài liệu, nhất là có cả những viên to bằng quả trứng cút... Đó là sự phi lý. Đặc biệt, trong tài liệu cũng không giải thích cơ chế tại sao muối biển, nước chanh, dầu ôliu thải độc và tống được sỏi gan mật ra.

Trong Đông y để chữa sỏi thận, mật là dùng các bài thuốc lợi tiểu, bài thạch (tán sỏi)... để sỏi ra ngoài theo đường nước tiểu. Ở đây cũng không rõ, tại sao sỏi lại có thể từ gan, thận, mật chui vào được trong ống ruột để ra ngoài theo đường đại tiện mà không phải qua đường tiết niệu như thông thường? Ngay cả thành phần muối biển có tới 80 khoáng chất thì cũng cần phải xem lại, đó là khoáng chất gì, có lợi hay hại cho sức khoẻ... 

Tương tự BSCK II Vũ Đức Chung, Trưởng khoa Nội tiêu hóa, Bệnh viện 354 cũng tỏ ra nghi ngờ việc lấy sỏi qua đường "đi cầu" bởi con đường này có rất nhiều chất cặn bã, kể cả những viên sỏi bé, cứng nếu ta vô tình nuốt phải. Để biết chính xác, trước khi sử dụng người dân phải đi siêu âm, kiểm tra sỏi, xin ý kiến các bác sĩ chuyên khoa, khi sử dụng phải theo dõi thường xuyên, sau đó kiểm tra lại kết quả mới nên kết luận. Hơn nữa, trục sỏi mật như vậy, nếu gặp trường hợp sỏi lớn, không ra được mà tụt vào ống mật chủ sẽ gây tắc mật, rất nguy hiểm.

Đông y trị sỏi mật








Sỏi mật có thể chia thành hai loại dựa trên thành phần cấu trúc của nó đó là sỏi cholesterone và sỏi sắc tố mật. Sỏi có cấu tạo cholesterone là do người bệnh thường hay ăn nhiều mỡ động vật khiến cho nồng độ cholesterone trong máu trở nên cao đã tạo điều kiện mà hình thành nên sỏi. Còn loại sỏi có kết cấu từ sắc tố mật (bilirubine) thường do trong quá trình đường mật bị viêm nhiễm đã làm rơi rụng những tế bào thượng bì kết hợp với vi khuẩn hay giun đũa, trứng giun rồi được bilirubine kết dính chúng lại với nhau mà hình thành nên hạch tâm của sỏi.

Bệnh chứng được biểu hiện như đau tại vùng hạ sườn phải (vùng gan), khi mắc sỏi mật thường kèm theo viêm túi mật hay ống mật (đường dẫn mật), nên thấy xuất hiện các triệu chứng tùy thuộc vào vị trí, kích thước sỏi to hay nhỏ và biến chứng của bệnh.

 Phương thức trị liệu tùy thuộc vào thể bệnh mà có phương thuốc sao cho tương thích nhằm đạt được hiệu quả cao. Dưới đây là những phương cụ thể để có thể chọn lựa.

* Trị sỏi mật viêm túi mật thể khí uất dùng phương “Bài thạch thang ngũ hiệu” gồm Kim tiền thảo 30g, Chỉ xác 9g, Hoàng cầm 9g, Mộc hương 9g, Xuyên luyện tử 9g, Đại hoàng 6g, sắc uống ngày 1 thang, chia 2 – 3 lần. Sau khi sử dụng phương này có thể gây đau dữ dội hơn do sỏi ra. Phương này có thể sử dụng cho những người sau mổ lấy sỏi còn sót, cũng có tác dụng tống sỏi ra tiếp nên thường đau là do dấu hiệu bài sỏi của phương.

* Trị sỏi to: Phép trị là “Nhuyễn kiên bài sỏi” kết hợp với phương “Tiêu dao tán”, cụ thể như sau:

- Phép nhuyễn kiên bài sỏi: gồm Mang tiêu 12g – 16g, Phàn thạch (Lục phàn) 2 – 4g, sắc uống ngày 1 thang chia 2 – 3 lần, chiêu với nước cháo Đại mạch.

- Kết hợp Tiêu dao tán gồm Mang tiêu 10g, Hải kim sa 10g, Kim tiền thảo 30g, Hoạt thạch 12g, Trạch tả 10g, Sa tiền 15g, Ý dĩ 20g, Xuyên luyện 10g, Uất kim 10g, Hồ trượng 10g, Sài hồ 10g, Bạch thược 15g.

Thuốc tán ngày uống 2 lần, mỗi lần 3g.

* Đối với sỏi nhỏ (hơn 1li) sỏi ở ống dẫn mật chính (choledoque): Dùng phép trị là Thanh nhiệt lợi thấp, hành khí chỉ thống: Kim tiền thảo 40g, Nhân trần 12g, Uất kim 12g, Chỉ xác 12g, Mộc hương 12g, sinh địa hoàng 12g, Trạch tả 40g.

Thuốc tán ngày uống 2 lần, mỗi lần 3g, thuốc sắc ngày uống 2 – 3 lần. Kết hợp châm cứu các huyệt Ủy trung, Thừa sơn, Thái xung, Tam âm giao, Huyền chung.

* Trị sỏi mật: Dùng “Hoàng kim linh thang” (Tứ Xuyên trung y 1986) tác dụng thanh nhiệt, lợi thấp, hóa ứ, bài thạch, trị sỏi mật, gồm Đại hoàng 5 – 30g, Hoàng cầm 15g, Khương hoàng 10 – 20g, Uất kim 20 – 60g, Kim tiền thảo 20 – 40g, Kim ngân hoa 15 – 30g, Kê nội kim (tán nhuyễn uống với nước thuốc sắc) 12g, Uy linh tiên 20 – 60g, sắc uống ngày 1 thang chia 2 – 3 lần trong ngày.

* Trị sỏi mật, túi mật viêm mạn: Dùng “Lợi đởm bài thạch thang” (Tứ Xuyên Trung y 1986) gồm Sài hồ 15g, Hoàng cầm 10g, Liên kiều 10g, Hổ trương căn 15g, Kim tiền thảo 30g, Nguyên minh phần 10g (uống với nước thuốc sắc), Đan sâm 15g, Hồng hoa 10g, Hoạt thạch 20g, Sơn tra 15g, sắc uống ngày 1 thang, chia 2 – 3 lần vào lúc đói.

* Trị viêm mãn: Triệu chứng đầy bụng, có cảm giác khó chịu ở bụng trên, đau kéo dài, hoặc đau lan lên bả vai, cảm giác nóng ruột, ợ hơi, mỏi mệt nhất là khi sau ăn cơm no hoặc ăn những thứ xào rán, mỡ nhiều.

Phương gồm Bột uất kim 3g, Một dược 3g, Nhân trần 30g, Kim tiền thảo 30g, Trạch tả 40g. Kim tiền thảo cùng sắc nước uống với bột Uất kim và Một dược. Lưu ý cần xoa hai bên sườn vào sáng và tối. Kiêng rượu và các chế phẩm có rượu, gia vị cay nóng đậm đặc, mỡ động vật…

Ngoài các phương thuốc Đông y trị liệu kể trên có thể kết hợp ăn nấm hoặc uống nước hãm nấm Linh chi thường xuyên hoặc uống từng đợt bột nghệ cũng có công hiệu hỗ trợ tích cực trị chứng sỏi mật.

Điều trị sỏi mật theo y học cổ truyền

Theo y học cổ truyền thì nguyên nhân cơ chế bệnh sỏi mật và biện chứng luận trị cơ bản không khác với viêm túi mậtĐông y gọi là Đởm Thạch Chứng.








Sỏi mật là bệnh đường mật có sỏi, phát sinh ở bất kỳ bộ phận nào ở hệ thống túi mật (túi mật, ống mật).
Bệnh nhân thường từ tuổi trung niên trở lên, phụ nữ bị bệnh nhiều hơn nam giới. Triệu chứng lâm sàng chủ yếu là đau ở vùng hạ sườn bên phải. Sỏi mật thường kèm theo viêm túi mật hoặc ống mật.

Triệu chứng

Triệu chứng lâm sàng của sỏi mật tùy thuộc vào vị trí, tính chất, kích thước to nhỏ và biến chứng của bệnh. Có thể do trạng thái tinh thần kích động, chế độ ăn uống (ăn nhiều chất nóng, uống rượu...), thời tiết thay đổi, nóng lạnh thất thường ảnh hưởng nhiều đến cơn đau tái phát. Diễn tiến bệnh có thể chia làm 2 thời kỳ: phát cơn đau và ổn định.

1-Thời kỳ phát cơn đau: bệnh phát đột ngột, rất đau vù ng hạ sườn phải, cơn đau thắt kéo dài từng cơn nặng lên, đau xuyên lên vùng vai hoặc bả vai bên phải, ấn vào đau nhiều hơn (cự án).

Người bệnh sốt cao hoặc vừa hoặc kèm cơn rét, miệng đắng, họng khô, nôn, buồn nôn, hoặc da mắt vàng, nước tiểu vàng, táo bón, lưỡi đỏ, rêu vàng hoặc vàng nhầy, mạch Huyền, Hoạt, Sác, điểm Murphy (+) hoặc cơ vùng bụng trên bên phải căng tức. Gan và túi mật to, đau nhiều sốt cao, hôn mê nói sảng, ngoài da có nốt ứ huyết, chảy máu cam... (thường kèm theo viêm túi mật).

2. Thời kỳ ổn định: vùng hạ sườn phải ấn đau nhẹ, cảm giác đau âm ỉ có thể xuyên lên vai lưng từng cơn nhẹ rồi hết hoặc bụng trên đầy, chán ăn, miệng đắng, sợ mỡ, không sốt, không vàng da, rêu lưỡi mỏng trắng hoặc hơi vàng, mạch Huyền. Thời kỳ này không có triệu chứng viêm nhiễm hoặc tắc mật.

Sỏi mật theo thành phần có thể chia ra sỏi Cholesteron và sỏi Sắc tố mật.

Sỏi Cholesteron thường do ăn nhiều mỡ động vật, nồng độ Cholesteron trong máu cao có quan hệ với sự hình thành sỏi. Sỏi sắc tố mật phần lớn do tế bào thượng bì rơi rụng trong viêm nhiễm đường mật, vi khuẩn, giun đũa hoặc trứng giun hình thành hạch tâm của sỏi.

Chẩn đoán

Chủ yếu dựa vào:

- Đau tức vùng bụng trên: thời kỳ phát cơn đau dữ dội vùng hạ sườn phải xuyên lên vai hoặc xuống bả vai, cơn đau kéo dài vài giờ đến vài ba ngày và có thể tái phát.

- Đau sườn: Triệu chứng rối loạn tiêu hóa, ăn vào đầy bụng, khó tiêu, ợ hơi, nôn, buồn nôn, nôn ra mật hoặc thức ăn.

- Khám ấn đau vùng túi mật, điểm Murphy dương tính.

- Nếu có tắc nghẽn thì da sẽ vàng, tiểu vàng, nếu nhiễm khuẩn thì sốt cao.

Siêu âm: có giá trị xác định chẩn đoán kích thước túi mật, số lượng sỏi, chính xác trên 90%.

Điều trị

Biện chứng luận trị

Về căn bản giống như viêm túi mật cấp và mạn tính.

Phép trị chủ yếu là: Sơ can, lợi đởm, hành khí, hoạt huyết, thanh lợi thấp nhiệt, kiện tỳ, hòa vị. Tùy theo bệnh tình mà chọn bài thuốc và gia giảm bài thuốc thích hợp.

Bài thuốc cơ bản: Uất kim, Hoàng cầm, Kê nội kim, Sinh đại hoàng (cho sau) đều 10g, Chỉ xác, Quảng Mộc hương, Nhân trần, Hổ trượng đều 15g, Kim tiền thảo 30g, Hải kim sa 20g, Sinh cam thảo 6g sắc uống ngày một thang.

Gia giảm: Vùng mạn sườn phải đau nhiều thêm Xuyên luyện tử, Diên hồ sách. Hạ sườn có cục ấn đau thêm Tam lăng, Nga truật, Xích thược. Nôn, buồn nôn thêm Trúc nhự, Khương Bán hạ. Nhiệt thịnh thêm Kim ngân hoa, Chi tử, Bồ công anh. Táo bón tăng lượng Sinh Đại hoàng.

Có triệu chứng hàn thấp bỏ Nhân trần, Hổ trượng, thêm Phụ phiến, Thương truật, Hậu phác, Trần bì. Trường hợp sỏi to, điều trị nội khoa đông tây y kết hợp không khỏi, tái phát nhiều lần nên chuyển sang điều trị ngoại khoa.

Kinh nghiệm điều trị của Nhật Bản

+ Đại Sài Hồ Thang điều trị sỏi mật kèm ngục đau, nôn khan, nôn, vai đau, táo bón nơi người béo, khoẻ.

Dùng bài này lâu ngày sẽ cải thiện tình trạng cơ thể, trừ đau ngực và phòng tái phát sỏi mật.

+ Sài Hồ Quế Chi Thang: trị sỏi mật nơi người thể trạng trung bình kèm đau bụng nhẹ; dùng trong trường hợp sỏi túi mật và viêm túi mật.

+ Giải Lao Tán: trị sỏi mật mạn nơi người cơ thể suy yếu.

+ Tiểu Sài Hồ Thang: trị sỏi mật mạn nếu các chứng trạng kéo dài và sốt không dứt.

+ Thược Dược Cam Thảo Thang: làm giảm đau tại chỗ.

+ Đại Hoàng Phụ Tử Thang: làm giảm đau nặng. Bài thuốc này, vừa điều trị hàn vừa có tác dụng như thuốc nhuận trường.

Một số bài thuốc kinh nghiệm trị sỏi mật

+ Hoàng Kim Linh Thang (Tứ Xuyên Trung Y (8) 1986): Đại hoàng 5 ~ 30g, Hoàng cầm 15g, Khương hoàng 10 ~ 20g, Uất kim 20 ~ 60g, Kim tiền thảo 20 ~ 40g, Kim ngân hoa 15 ~ 30g, Kê nội kim (tán nhuyễn uống với nước thuốc sắc) 12g, Uy linh tiên 20 ~ 60g. Sắc uống.

TD: Thanh nhiệt, lợi thấp, hóa ứ, bài thạch. Trị sỏi mật

Đã trị 34 ca, khỏi 24,chuyển biến tốt 9, không kết quả 1. Đạt tỉ lệ 97,1%.

+ Lợi Đởm Bài Thạch Thang (Tứ Xuyên Trung Y (8) 1986): Sài hồ 15g, Hoàng cầm, Liên kiều đều 10g, Hổ trượng căn 15g, Kim tiền thảo 30g, Nguyên minh phấn 10g (uống với nước thuốc sắc), Đan sâm 15g, Hồng hoa 10g, Hoạt thạch 20g, Sơn tra 15g. Sắc uống lúc đói. Trị sỏi mật, túi mật viêm mạn.

Đã trị 10 ca, một số uống 3 ~ 5 thang đã ra sỏi, uống hơn 10 thang, sỏi ra hết, các triệu chứng đều khỏi.

+ Đởm Kinh Thang (Tứ Xuyên Trung Y (12) 1987): Giáp châu (uống riêng) 6g, Uất kim 20g, Sài hồ, Bạch thược, Mộc hương, Huyền hồ sách đều 12g, Chỉ xác, Chi tử đều 10g, Mạch nha, Cốc nha, Thần khúc, Kim tiền thảo, Hoa tiêu (uống với nước thuốc) đều 31g. Sắc uống.

TD: Thanh Can, lợi Đởm, trục ứ bài thạch. Trị sỏi mật, túi mật đau quặn.

Đã trị 281 ca. Sau khi uống hết đau 251 ca (thường trong lúc bài tiết sỏi ra 97), không kết quả 30. Tỉ lệ giảm đau là 89,3%.

+ Đại Sài Hồ Thang Gia Vị (Tân Trung Y (6) 1979): Sài hồ 24g, Hoàng cầm 10g, Bán hạ 9g, Bạch thược 12g, Tửu quân (Đại hoàng chế với rượu) 10g, Sinh khương 9g, Đại táo 4 trái, Kim tiền thảo 31g, Uất kim 9g, Hải kim sa, Kê nội kim, Thạch vi đều 12, Hoạt thạch 24g, Chỉ xác 6g, Nhân trần 31g. Sắc uống.

TD: Thư Can hòa Vị, thanh nhiệt lợi thấp, lợi Đởm bài thạch. Trị sỏi mật, túi mật viêm mạn.

Lâm sàng điều trị đều có hiệu quả tốt.

+ Thư Can Lợi Đởm Thang (Bắc Kinh Trung Y (1) 1989): Sài hồ 19g, Xích thược, Bạch thược đều 15g, Phật thủ, Nhân trần đều 30g, Uất kim, Thạch hiện xuyên, Tiêu Sơn tra đều 20g, Diên hồ sách, Chỉ thực, Nhũ hương, Một dược, Lộc giác sương đều 10g, Đại hoàng (sinh), Thái bạch đều 6g. Sắc uống.

TD: Thư Can, lợi Đởm, lý khí chỉ thống. Trị sỏi mật.

Đã trị 50 ca, uống từ 1 đến 4 thang, tỉ lệ giảm đau là 98%.

+ Thanh Đởm Hành Khí Thang (Lương Kiếm Ba Phương): Sài hồ, Hoàng cầm, Bán hạ (pháp) đều 10g, Mộc hương, Chỉ xác đều 5g, Đại hoàng, Uất kim, Hương phụ đều 10g, Nhân trần 20g. Sắc uống.

TD: Sơ Can lý khí, tiêu viêm thanh nhiệt, lợi Đởm bài thạch. Trị sỏi mật, túi mật viêm mạn tính.

+ Lợi Đởm Bài Thạch Thang (Trung Quốc Đương Đại Trung Y Danh Nhân Chí): Kim tiền thảo 30g, Lộ lộ thông 15g, Uy linh tiên, Cứu tất ứng đều 30g, Vương bất lưu hành, Nhân trần đều 15g, Thủ ô 30g, Sài hồ 5g, Chỉ xác 12g, Kê nội kim 9g, Đại hoàng (cho vào sau), Mang tiêu (hòa vào thuốc uống) đều 12g. Sau khi sắc, lấy 1 chén, thêm Mang tiêu và Kê nội kim vào trộn đều, uống lúc đói.

TD: Thư Can tả hỏa, thanh nhiệt lợi thấp, hành khí chỉ thống, Lợi đởm bài thạch. Trị sỏi mật.

Lâm sàng cho thấy bài này có hiệu quả cao.

+ Can Đởm Bài Thạch Thang (Trung Quốc Đương Đại Trung Y Danh Nhân Chí): Sài hồ 10g, Bạch thược, Chỉ xác đều 15g, Cam thảo, Đương quy đều 10g, Kim tiền thảo 30g, Nhân trần 15g, Hậu phác, Đại hoàng, Xuyên luyện tử, Uất kim, Nguyên hồ đều 10g, Đảng sâm 15g. Sắc uống.

TD: Lợi Đởm, sơ Can, tiêu viêm chỉ thống, trục ứ bài thạch. Trị sỏi mật.

+ Sơ Can Lợi Đởm Thang (Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng): Sài hồ, Chỉ thực, Trần bì, Mang tiêu, Nguyên hồ đều 10g, Hổ trượng căn, Ngân hoa, Kim tiền thảo, Nhân trần đều 30g, Đại hoàng (sinh), Uất kim, Xuyên luyện tử, Bạch thược đều 12g. Sắc uống.

TD: Sơ Can, giải uất, lý khí, chỉ thống. Trị viêm túi mật kèm sỏi mật.

Đã dùng bài này trị trên 10 ca bệnh, không phải giải phẫu, bệnh nhân vẫn tiếp tục công tác hoặc lao động.

+ Đởm Đạo Bài Thạch Thang (Trung Tây Y Kết Hợp Trị Liệu Cấp Phúc Chứng): Kim tiền thảo 40g, Đại hoàng (sống), Nhân trần, Uất kim Chỉ xác đều 12g. Sắc uống. 1 tháng là một liệu trình, nghỉ 1 tuần lại tiếp tục.

TD: Thanh nhiệt, lợi thấp, hành khí, chỉ thống, lợi đởm, bài thạch. Trị sỏi mật do thấp nhiệt.

+ Bài Thạch Thang Ngũ Hiệu (Trung Tây Y Kết Hợp Trị Liệu Cấp Phúc Chứng): Kim tiền tảo 30g, Chỉ xác, Hoàng cầm, Mộ hương, Xuyên luyện tử đều 9g, Đại hoàng 6g. Sắc uống.

TD: Thanh nhiệt, lợi thấp, hành khí, lợi đởm, bài thạch. Trị sỏi mật, túi mật viêm do sỏi (thể khí uất).

. Sau khi dùng bài thuốc này, có thể đau dữ dội hơn. Có thể là dấu hiệu sỏi bị tiêu ra, là dấu hiệu đặc trưng của việc bài thạch.

+ Bài Thạch Thang Lục Hiệu (Trung Tây Y Kết Hợp Trị Liệu Cấp Phúc Chứng): Chi tử, Chỉ xác, Diên hồ sách, Ddaị hoàng, Mộc hương đều 20g, Hổ trượng (hoặc cây Gai), Kim tiền thảo (hoặc Nhân trần) đều 40g. Sắc uống.

TD: Thanh nhiệt, lợi thấp, hành khí, chỉ thống, lợi đởm, bài thạch. Trị sỏi mật, túi mật viêm do sỏi (thể thấp nhiệt).

Kinh nghiệm của bệnh viện Tôn Nghĩa (Trung Quốc) cho biết bài thuốc này thích hợp với mấy trường hợp sau:

. Ống mật có sỏi, đường kính nhỏ hơn 1cm.

. Ống gan có sỏi 3cm, sau khi mổ xong còn sót lại.

. Sau khi dùng bài thuốc này, có thể đau dữ dội hơn. Có thể là dấu hiệu sỏi bị tiêu ra, là dấu hiệu đặc trưng của việc bài thạch.

+ Bài Thạch Thang (Thiên Gia Diệu Phương q Thượng): Bạch mao căn,Đông quỳ tử, Hoạt thạch, Kim tiền thảo đều 30g, Biển súc, Cù mạch, Kê nội kim (sống), Xa tiền tử đều 16g, Lưu hành tử 18g, Ngưu tất 10g, Mộc thông 6g. Sắc uống.

TD: Thanh nhiệt, lợi thấp, bài thạch. Trị sỏi mật.

Bài này có tác dụng tốt đối với cơn đau sỏi mật, đường tiểu viêm cấp.

+ Tam Hoàng Bài Thạch Thang (BV Tôn Nghĩa - Viện Trung Y Thượng Hải): Chỉ xác 12g, Đại hoàng 12g, Hoàng cầm 12g, Hoàng liên 8g, Mộc hương 12g. Sắc uống.

TD: Trị thấp nhiệt uất kết, sỏi ống mật.

+ Bạch Ngọc Hoá Đờm Thang (Trung Quốc Trung Dược Thành Dược Xử Phương Tập): Bạch phàn 90g, Uất kim 210g, Tán bột, làm viên. Ngày uống 16 - 20g với rượu nóng.

Hoặc dùng nước sắc Bạc hà, trộn thuốc bột làm thành viên. Ngày uống 8~12g.








Sỏi mật là bệnh đường mật có sỏi, phát sinh ở bất kỳ bộ phận nào ở hệ thống túi mật (túi mật, ống mật).
Bệnh nhân thường từ tuổi trung niên trở lên, phụ nữ bị bệnh nhiều hơn nam giới. Triệu chứng lâm sàng chủ yếu là đau ở vùng hạ sườn bên phải. Sỏi mật thường kèm theo viêm túi mật hoặc ống mật.

Triệu chứng

Triệu chứng lâm sàng của sỏi mật tùy thuộc vào vị trí, tính chất, kích thước to nhỏ và biến chứng của bệnh. Có thể do trạng thái tinh thần kích động, chế độ ăn uống (ăn nhiều chất nóng, uống rượu...), thời tiết thay đổi, nóng lạnh thất thường ảnh hưởng nhiều đến cơn đau tái phát. Diễn tiến bệnh có thể chia làm 2 thời kỳ: phát cơn đau và ổn định.

1-Thời kỳ phát cơn đau: bệnh phát đột ngột, rất đau vù ng hạ sườn phải, cơn đau thắt kéo dài từng cơn nặng lên, đau xuyên lên vùng vai hoặc bả vai bên phải, ấn vào đau nhiều hơn (cự án).

Người bệnh sốt cao hoặc vừa hoặc kèm cơn rét, miệng đắng, họng khô, nôn, buồn nôn, hoặc da mắt vàng, nước tiểu vàng, táo bón, lưỡi đỏ, rêu vàng hoặc vàng nhầy, mạch Huyền, Hoạt, Sác, điểm Murphy (+) hoặc cơ vùng bụng trên bên phải căng tức. Gan và túi mật to, đau nhiều sốt cao, hôn mê nói sảng, ngoài da có nốt ứ huyết, chảy máu cam... (thường kèm theo viêm túi mật).

2. Thời kỳ ổn định: vùng hạ sườn phải ấn đau nhẹ, cảm giác đau âm ỉ có thể xuyên lên vai lưng từng cơn nhẹ rồi hết hoặc bụng trên đầy, chán ăn, miệng đắng, sợ mỡ, không sốt, không vàng da, rêu lưỡi mỏng trắng hoặc hơi vàng, mạch Huyền. Thời kỳ này không có triệu chứng viêm nhiễm hoặc tắc mật.

Sỏi mật theo thành phần có thể chia ra sỏi Cholesteron và sỏi Sắc tố mật.

Sỏi Cholesteron thường do ăn nhiều mỡ động vật, nồng độ Cholesteron trong máu cao có quan hệ với sự hình thành sỏi. Sỏi sắc tố mật phần lớn do tế bào thượng bì rơi rụng trong viêm nhiễm đường mật, vi khuẩn, giun đũa hoặc trứng giun hình thành hạch tâm của sỏi.

Chẩn đoán

Chủ yếu dựa vào:

- Đau tức vùng bụng trên: thời kỳ phát cơn đau dữ dội vùng hạ sườn phải xuyên lên vai hoặc xuống bả vai, cơn đau kéo dài vài giờ đến vài ba ngày và có thể tái phát.

- Đau sườn: Triệu chứng rối loạn tiêu hóa, ăn vào đầy bụng, khó tiêu, ợ hơi, nôn, buồn nôn, nôn ra mật hoặc thức ăn.

- Khám ấn đau vùng túi mật, điểm Murphy dương tính.

- Nếu có tắc nghẽn thì da sẽ vàng, tiểu vàng, nếu nhiễm khuẩn thì sốt cao.

Siêu âm: có giá trị xác định chẩn đoán kích thước túi mật, số lượng sỏi, chính xác trên 90%.

Điều trị

Biện chứng luận trị

Về căn bản giống như viêm túi mật cấp và mạn tính.

Phép trị chủ yếu là: Sơ can, lợi đởm, hành khí, hoạt huyết, thanh lợi thấp nhiệt, kiện tỳ, hòa vị. Tùy theo bệnh tình mà chọn bài thuốc và gia giảm bài thuốc thích hợp.

Bài thuốc cơ bản: Uất kim, Hoàng cầm, Kê nội kim, Sinh đại hoàng (cho sau) đều 10g, Chỉ xác, Quảng Mộc hương, Nhân trần, Hổ trượng đều 15g, Kim tiền thảo 30g, Hải kim sa 20g, Sinh cam thảo 6g sắc uống ngày một thang.

Gia giảm: Vùng mạn sườn phải đau nhiều thêm Xuyên luyện tử, Diên hồ sách. Hạ sườn có cục ấn đau thêm Tam lăng, Nga truật, Xích thược. Nôn, buồn nôn thêm Trúc nhự, Khương Bán hạ. Nhiệt thịnh thêm Kim ngân hoa, Chi tử, Bồ công anh. Táo bón tăng lượng Sinh Đại hoàng.

Có triệu chứng hàn thấp bỏ Nhân trần, Hổ trượng, thêm Phụ phiến, Thương truật, Hậu phác, Trần bì. Trường hợp sỏi to, điều trị nội khoa đông tây y kết hợp không khỏi, tái phát nhiều lần nên chuyển sang điều trị ngoại khoa.

Kinh nghiệm điều trị của Nhật Bản

+ Đại Sài Hồ Thang điều trị sỏi mật kèm ngục đau, nôn khan, nôn, vai đau, táo bón nơi người béo, khoẻ.

Dùng bài này lâu ngày sẽ cải thiện tình trạng cơ thể, trừ đau ngực và phòng tái phát sỏi mật.

+ Sài Hồ Quế Chi Thang: trị sỏi mật nơi người thể trạng trung bình kèm đau bụng nhẹ; dùng trong trường hợp sỏi túi mật và viêm túi mật.

+ Giải Lao Tán: trị sỏi mật mạn nơi người cơ thể suy yếu.

+ Tiểu Sài Hồ Thang: trị sỏi mật mạn nếu các chứng trạng kéo dài và sốt không dứt.

+ Thược Dược Cam Thảo Thang: làm giảm đau tại chỗ.

+ Đại Hoàng Phụ Tử Thang: làm giảm đau nặng. Bài thuốc này, vừa điều trị hàn vừa có tác dụng như thuốc nhuận trường.

Một số bài thuốc kinh nghiệm trị sỏi mật

+ Hoàng Kim Linh Thang (Tứ Xuyên Trung Y (8) 1986): Đại hoàng 5 ~ 30g, Hoàng cầm 15g, Khương hoàng 10 ~ 20g, Uất kim 20 ~ 60g, Kim tiền thảo 20 ~ 40g, Kim ngân hoa 15 ~ 30g, Kê nội kim (tán nhuyễn uống với nước thuốc sắc) 12g, Uy linh tiên 20 ~ 60g. Sắc uống.

TD: Thanh nhiệt, lợi thấp, hóa ứ, bài thạch. Trị sỏi mật

Đã trị 34 ca, khỏi 24,chuyển biến tốt 9, không kết quả 1. Đạt tỉ lệ 97,1%.

+ Lợi Đởm Bài Thạch Thang (Tứ Xuyên Trung Y (8) 1986): Sài hồ 15g, Hoàng cầm, Liên kiều đều 10g, Hổ trượng căn 15g, Kim tiền thảo 30g, Nguyên minh phấn 10g (uống với nước thuốc sắc), Đan sâm 15g, Hồng hoa 10g, Hoạt thạch 20g, Sơn tra 15g. Sắc uống lúc đói. Trị sỏi mật, túi mật viêm mạn.

Đã trị 10 ca, một số uống 3 ~ 5 thang đã ra sỏi, uống hơn 10 thang, sỏi ra hết, các triệu chứng đều khỏi.

+ Đởm Kinh Thang (Tứ Xuyên Trung Y (12) 1987): Giáp châu (uống riêng) 6g, Uất kim 20g, Sài hồ, Bạch thược, Mộc hương, Huyền hồ sách đều 12g, Chỉ xác, Chi tử đều 10g, Mạch nha, Cốc nha, Thần khúc, Kim tiền thảo, Hoa tiêu (uống với nước thuốc) đều 31g. Sắc uống.

TD: Thanh Can, lợi Đởm, trục ứ bài thạch. Trị sỏi mật, túi mật đau quặn.

Đã trị 281 ca. Sau khi uống hết đau 251 ca (thường trong lúc bài tiết sỏi ra 97), không kết quả 30. Tỉ lệ giảm đau là 89,3%.

+ Đại Sài Hồ Thang Gia Vị (Tân Trung Y (6) 1979): Sài hồ 24g, Hoàng cầm 10g, Bán hạ 9g, Bạch thược 12g, Tửu quân (Đại hoàng chế với rượu) 10g, Sinh khương 9g, Đại táo 4 trái, Kim tiền thảo 31g, Uất kim 9g, Hải kim sa, Kê nội kim, Thạch vi đều 12, Hoạt thạch 24g, Chỉ xác 6g, Nhân trần 31g. Sắc uống.

TD: Thư Can hòa Vị, thanh nhiệt lợi thấp, lợi Đởm bài thạch. Trị sỏi mật, túi mật viêm mạn.

Lâm sàng điều trị đều có hiệu quả tốt.

+ Thư Can Lợi Đởm Thang (Bắc Kinh Trung Y (1) 1989): Sài hồ 19g, Xích thược, Bạch thược đều 15g, Phật thủ, Nhân trần đều 30g, Uất kim, Thạch hiện xuyên, Tiêu Sơn tra đều 20g, Diên hồ sách, Chỉ thực, Nhũ hương, Một dược, Lộc giác sương đều 10g, Đại hoàng (sinh), Thái bạch đều 6g. Sắc uống.

TD: Thư Can, lợi Đởm, lý khí chỉ thống. Trị sỏi mật.

Đã trị 50 ca, uống từ 1 đến 4 thang, tỉ lệ giảm đau là 98%.

+ Thanh Đởm Hành Khí Thang (Lương Kiếm Ba Phương): Sài hồ, Hoàng cầm, Bán hạ (pháp) đều 10g, Mộc hương, Chỉ xác đều 5g, Đại hoàng, Uất kim, Hương phụ đều 10g, Nhân trần 20g. Sắc uống.

TD: Sơ Can lý khí, tiêu viêm thanh nhiệt, lợi Đởm bài thạch. Trị sỏi mật, túi mật viêm mạn tính.

+ Lợi Đởm Bài Thạch Thang (Trung Quốc Đương Đại Trung Y Danh Nhân Chí): Kim tiền thảo 30g, Lộ lộ thông 15g, Uy linh tiên, Cứu tất ứng đều 30g, Vương bất lưu hành, Nhân trần đều 15g, Thủ ô 30g, Sài hồ 5g, Chỉ xác 12g, Kê nội kim 9g, Đại hoàng (cho vào sau), Mang tiêu (hòa vào thuốc uống) đều 12g. Sau khi sắc, lấy 1 chén, thêm Mang tiêu và Kê nội kim vào trộn đều, uống lúc đói.

TD: Thư Can tả hỏa, thanh nhiệt lợi thấp, hành khí chỉ thống, Lợi đởm bài thạch. Trị sỏi mật.

Lâm sàng cho thấy bài này có hiệu quả cao.

+ Can Đởm Bài Thạch Thang (Trung Quốc Đương Đại Trung Y Danh Nhân Chí): Sài hồ 10g, Bạch thược, Chỉ xác đều 15g, Cam thảo, Đương quy đều 10g, Kim tiền thảo 30g, Nhân trần 15g, Hậu phác, Đại hoàng, Xuyên luyện tử, Uất kim, Nguyên hồ đều 10g, Đảng sâm 15g. Sắc uống.

TD: Lợi Đởm, sơ Can, tiêu viêm chỉ thống, trục ứ bài thạch. Trị sỏi mật.

+ Sơ Can Lợi Đởm Thang (Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng): Sài hồ, Chỉ thực, Trần bì, Mang tiêu, Nguyên hồ đều 10g, Hổ trượng căn, Ngân hoa, Kim tiền thảo, Nhân trần đều 30g, Đại hoàng (sinh), Uất kim, Xuyên luyện tử, Bạch thược đều 12g. Sắc uống.

TD: Sơ Can, giải uất, lý khí, chỉ thống. Trị viêm túi mật kèm sỏi mật.

Đã dùng bài này trị trên 10 ca bệnh, không phải giải phẫu, bệnh nhân vẫn tiếp tục công tác hoặc lao động.

+ Đởm Đạo Bài Thạch Thang (Trung Tây Y Kết Hợp Trị Liệu Cấp Phúc Chứng): Kim tiền thảo 40g, Đại hoàng (sống), Nhân trần, Uất kim Chỉ xác đều 12g. Sắc uống. 1 tháng là một liệu trình, nghỉ 1 tuần lại tiếp tục.

TD: Thanh nhiệt, lợi thấp, hành khí, chỉ thống, lợi đởm, bài thạch. Trị sỏi mật do thấp nhiệt.

+ Bài Thạch Thang Ngũ Hiệu (Trung Tây Y Kết Hợp Trị Liệu Cấp Phúc Chứng): Kim tiền tảo 30g, Chỉ xác, Hoàng cầm, Mộ hương, Xuyên luyện tử đều 9g, Đại hoàng 6g. Sắc uống.

TD: Thanh nhiệt, lợi thấp, hành khí, lợi đởm, bài thạch. Trị sỏi mật, túi mật viêm do sỏi (thể khí uất).

. Sau khi dùng bài thuốc này, có thể đau dữ dội hơn. Có thể là dấu hiệu sỏi bị tiêu ra, là dấu hiệu đặc trưng của việc bài thạch.

+ Bài Thạch Thang Lục Hiệu (Trung Tây Y Kết Hợp Trị Liệu Cấp Phúc Chứng): Chi tử, Chỉ xác, Diên hồ sách, Ddaị hoàng, Mộc hương đều 20g, Hổ trượng (hoặc cây Gai), Kim tiền thảo (hoặc Nhân trần) đều 40g. Sắc uống.

TD: Thanh nhiệt, lợi thấp, hành khí, chỉ thống, lợi đởm, bài thạch. Trị sỏi mật, túi mật viêm do sỏi (thể thấp nhiệt).

Kinh nghiệm của bệnh viện Tôn Nghĩa (Trung Quốc) cho biết bài thuốc này thích hợp với mấy trường hợp sau:

. Ống mật có sỏi, đường kính nhỏ hơn 1cm.

. Ống gan có sỏi 3cm, sau khi mổ xong còn sót lại.

. Sau khi dùng bài thuốc này, có thể đau dữ dội hơn. Có thể là dấu hiệu sỏi bị tiêu ra, là dấu hiệu đặc trưng của việc bài thạch.

+ Bài Thạch Thang (Thiên Gia Diệu Phương q Thượng): Bạch mao căn,Đông quỳ tử, Hoạt thạch, Kim tiền thảo đều 30g, Biển súc, Cù mạch, Kê nội kim (sống), Xa tiền tử đều 16g, Lưu hành tử 18g, Ngưu tất 10g, Mộc thông 6g. Sắc uống.

TD: Thanh nhiệt, lợi thấp, bài thạch. Trị sỏi mật.

Bài này có tác dụng tốt đối với cơn đau sỏi mật, đường tiểu viêm cấp.

+ Tam Hoàng Bài Thạch Thang (BV Tôn Nghĩa - Viện Trung Y Thượng Hải): Chỉ xác 12g, Đại hoàng 12g, Hoàng cầm 12g, Hoàng liên 8g, Mộc hương 12g. Sắc uống.

TD: Trị thấp nhiệt uất kết, sỏi ống mật.

+ Bạch Ngọc Hoá Đờm Thang (Trung Quốc Trung Dược Thành Dược Xử Phương Tập): Bạch phàn 90g, Uất kim 210g, Tán bột, làm viên. Ngày uống 16 - 20g với rượu nóng.

Hoặc dùng nước sắc Bạc hà, trộn thuốc bột làm thành viên. Ngày uống 8~12g.

THAM KHẢO THÊM CÁC CÁCH CHỮA SỎI MẬT HIỆU QUẢ KHÁC


Điều trị sỏi mật bằng châm cứu

Thể Châm

+ Huyệt chính: Can du, Đởm du, Nhật nguyệt (bên phải), Kỳ môn (bên phải).

Biện chứng chọn huyệt:

Khí trệ thêm Nội quan, Công tôn. Thấp nhiệt thêm Đại chùy, Khúc trì, Ngoại quan. Nhiệt độc thịnh thêm Đại chùy, Thập tuyên, Thủy câu, Quan nguyên.

Cách châm: sau khi đắc khí, vê kim vài phút, sau đó lưu kim 20-30 phút, bệnh nặng có thể lưu kim hơn 1 giờ, hoặc điện châm, kích thích mạnh, cách 10 phút về kim 1 lần. Thời kỳ phát cơn, ngày châm 1-2 lần, thời kỳ ổn định mỗi tuần 2-3 lần (Tân Biên Châm Cứu Trị Liệu Học).

+ Can uất khí trệ: sơ Can, giải uất, lý khí, chỉ thống. Châm Dương lăng tuyền, Chi câu, Kỳ môn, Thái xung, Nội quan, Trung quản, Thiên xu, Đởm nang huyệt.

Thấp nhiệt uẩn kết: thanh hoá thấp nhiệt, sơ lợi Can Đởm. Châm Kỳ môn, Nhật nguyệt, Chi câu, Dương lăng tuyền, Âm lăng tuyền, Trung quản, Túc tam lý (Bị Cấp Châm Cứu).

Nhĩ Châm

+ Huyệt chính: Giao cảm, Thần môn, Đởm. Huyệt phối hợp: Can, Tá tràng.

Phương pháp: Chọn 2-3 huyệt, có phản ứng mạnh, kích thích mạnh, lưu kim 30 phút, ngày 2-3 lần hoặc dán hạt thuốc (Thường dùng hạt Vương bất lưu hành) vào huyệt ở tai. Người bệnh tự làm mỗi ngày nhiều lần, 3-7 ngày thay hạt thuốc (có thể dùng nhĩ hoàn), chọn huyệt thay đổi ở hai tai (Tân Biên Châm Cứu Trị Liệu Học).

+ Can, Đởm, Hung chuỳ, Tỳ, Vị, Tam tiêu, Đại trường, Hành tá tràng, Bì chất hạ, Giao cảm (Bị Cấp Châm Cứu).

Thủy Châm

Huyệt chính: Đởm du, Trung quản, Túc tam lý, Đởm nang, mỗi lần chọn 1 -2 huyệt, mỗi huyệt chích dịch Đương quy hoặc Hồng hoa 5ml, hoặc 10ml glucose 10%, ngày 1-2 lần (Tân Biên Châm Cứu Trị Liệu Học).
Chữa bệnh sỏi mật bằng thuốc Nam

Bài 1: Dùng quả đu đủ xanh

Chọn quả đu đủ độ 400 - 600 gam không già, không non, loại quả bánh tẻ, vỏ còn xanh, còn nhiều nhựa trắng, tác dụng chính là nhựa (quả già ít nhựa, non ăn thì đắng, quả bé không đủ sức bào mòn sỏi). Khi ngắt quả rửa sạch cắt đầu, cắt đuôi moi hết hột bỏ đi, cho thêm ít muối vào quả đu đủ cho vừa ăn để nguyên cả vỏ xanh và nhựa đặt vào cái nồi con, hay cặp lồng, đổ nước đun cách thủy độ 30 phút quả chín, ăn mỗi ngày một quả. Sau bữa ăn an toàn dạ dày. Tùy theo sỏi to nhỏ mà dùng, sỏi dưới 10 mm thì ăn 7 quả, nếu trên 10 mm phải ăn nhiều hơn, ăn liên tục, không kiêng kị gì, người khó ăn có thể chấm đường cho dễ.

Bài 2: Dầu ô liu và quả chanh

Tỉ lệ một thìa dầu ô liu một quả chanh vừa phải, căn cứ vào lượng sỏi to nhỏ mà dùng như sau:

Sỏi trung bình trên dưới 10 mm ngày 6-7 quả chanh vắt lấy nước hòa với 6 đến 7 thìa dầu ô liu, quấy đều, đổ thêm 3 - 4 bát nước lã đun sôi để nguội hòa đều rồi uống. Uống sau 3 - 4 giờ đi tiểu liên tục hứng vào bô để lắng, xem dưới đáy bô có cặn trắng là tốt. Sỏi nhỏ có thể làm một lần, nếu sỏi to có thể làm 2 đến 3 ngày.

Bài 3: Rau om nước dừa

Rau om ở miền Nam thường dùng nấu canh chua (ở miền Bắc gọi là rau ngổ) thường mọc ở các bờ ao, các mương máng. Có loại trắng thường làm rau thơm ăn với thịt chó. Loại đỏ dùng cũng được. Lấy độ 1 kg đem giã nát vắt lấy nước cốt hòa với nước dừa uống ngày 2 - 3 lần nếu là khô dùng 5 - 6 lạng sắc uống ngày 2 -3 lần. Thời gian dùng 5 - 7 ngày tùy lượng sỏi. Đây là bài thuốc của Hòa Thượng Thích Giác Nhiên.

Bài 4: Hoa cây đu đủ đực

Hoa cây đu đủ đực ngắt xuống giã nát, hòa với nước lã đun sôi để nguội trộn đều vắt lấy nước uống ngày ba lần. Tùy loại sỏi, hợp là tiêu tan (bài của Hòa Thượng Thích Giác Nhiên).

Bài 5: Mề gà, mật vịt

Gà vịt thường ăn lẫn đá, sỏi, cua ốc, chất rắn nhiều can-xi thế mà vẫn tiêu tan được nhờ nó có chất gì đó. Cách làm, bóc màng trong mề của con gà, con vịt đem phơi khô, tán nhỏ. Còn mật vịt lấy về ngâm rượu sau 15 ngày là dùng được. Mỗi ngày dùng ít bột của màng gà, vịt đã tán nhỏ với 2 mật con vịt ăn liên tục từ l0 -15 ngày. Nếu tìm được rễ cây cỏ xước, rễ cây xấu hổ, rễ cây dứa dại, rễ cây đỗ ván đem băm phơi khô, sắc uống thì càng tốt, chóng khỏi hơn (bài này trên ti-vi đã phổ biến)
Chữa sỏi thận, sỏi mật bằng thảo dược

















Chỉ uống thuốc nước chế từ thảo dược, không ít người bị sỏi thận, sỏi mật sau một thời gian dùng thuốc, sỏi đã tự bào mòn. Bác sỹ, đại tá Đỗ Đoàn Sinh – nguyên là trưởng khoa ngoại Bệnh viện 198 (Bộ Công an) là người đang giữ bài thuốc đặc biệt này.
Tìm đến số nhà 106, nằm trên con đường mà người dân quanh vùng quen gọi là “Đường Ướp Lạnh” (thuộc Tổ 14, thị trấn Cầu Diễn – Từ Liêm – Hà Nội), chúng tôi gặp bác sỹ Đỗ Đoàn Sinh, nay là ông lão râu tóc bạc trắng, đeo cặp kính trắng, với dáng vẻ nhân từ, phúc hậu. Bác sỹ Đoàn Sinh sinh năm 1935, nguyên là trưởng khoa ngoại Bệnh viện 198 (Bộ Công an). Tuổi cao, nhưng ông vẫn làm việc cần mẫn, với kinh nghiệm hàng chục năm trong nghề, nay về hưu hàng ngày ông chế thuốc từ thảo dược. Bác sỹ cho biết, chữa sỏi mật, sỏi thận bằng thảo dược là bài thuốc bí truyền mà từ đời ông nội của ông đã truyền lại cho người bác ruột (là thầy thuốc đông y Đỗ Đoàn Thiệp). Ngay từ hồi còn trẻ, ông đã được người bác ruột truyền lại bài thuốc này.

Với bài thuốc gia truyền này, người bị sỏi thận uống thuốc vào sỏi sẽ tự bào mòn, bài tiết theo đường nước tiểu. Người bị sỏi mật, uống thuốc sỏi tự bào mòn, sau đó xuống ruột, bài tiết theo đường tiêu hoá. Với người bị giun chui ống mật, uống thuốc vào sau đó giun quay trở về đường tiêu hoá. Người mắc bệnh hen phế quản uống thuốc cho đến hết hen. Bài thuốc gia truyền này chữa được ở mức độ người bị sỏi thận, sỏi mật viên nhỏ từ trên mười đến mười hai milimet trở xuống.    
Theo bác sỹ Đoàn Sinh, từ ngày theo nghề y ông đã ấp ủ trong lòng một ngày nào đó sẽ dùng đến bài thuốc do cha ông truyền lại để cứu giúp người bệnh. Ngay từ năm 1980, đang là một bác sỹ Tây y nhưng ông đã cho một số bệnh nhân sỏi thận, sỏi mật dùng đến bài thuốc này. Hồi ấy, ông tham gia nhiều ca mổ cho những bệnh nhân mắc sỏi mật, sỏi thận thường thấy sau một thời gian mổ, lại tái phát. Có những bệnh nhân mổ đi mổ lại mấy lần. Ông liền cho một số bệnh nhân dùng bài thuốc của gia đình mình. Đó được coi như một giai đoạn thử nghiệm. Ông rất mừng khi biết được chính xác thuốc có hiệu quả cao. Từ đó những bệnh nhân có sỏi ở mức độ còn nhỏ ông đã chữa cho họ bằng bài thuốc này, mà không cần phải mổ.
Phương pháp chữa bệnh của ông là người bệnh đưa các kết quả xét nghiệm ở các bệnh viện đến, căn cứ vào đó để khuyên họ nên mổ, hay uống thuốc để tiêu tán sỏi. Nhiều người bệnh nghe danh ông tìm đến chữa, ông giới thiệu đến các bệnh viện làm siêu âm, xét nghiệm X-quang, sau đó mới trở lại để ông chẩn đoán xem bài thuốc của mình có thể tiêu tán sỏi hay không mới nhận lời chữa. Từng là bác sỹ chuyên khoa phẫu thuật tiêu hoá, khi nhìn vào phim X-quang nếu thấy bệnh nhân nào sỏi tán được ông khuyên uống thuốc, sỏi quá to ông khuyên đi mổ.
Thuốc chữa sỏi mật, sỏi thận của bác sỹ Đoàn Sinh thuộc dạng thuốc nước, có màu nâu sẫm, trông gần giống như mật gấu. Mỗi ngày người bệnh chỉ cần uống hai mililit, bằng cách dùng xilanh hút từ lọ thuốc ra chén để uống đúng liều lượng. Một ca mổ sỏi thận, hay sỏi mật có khi tốn kém tới chục triệu bạc, chưa kể gây đau đớn cho bệnh nhân. Vậy nhưng, có bệnh nhân hợp thuốc chỉ cần uống một lọ thuốc của bác sỹ Đoàn Sinh, đã không còn thấy sỏi. Theo ông, thời gian chữa theo bài thuốc gia truyền của ông là không định được, do tính chất sỏi mỗi người một khác.






Tác dụng chữa bệnh của mật gấu

Tác dụng chữa bệnh của quả đu đủ xanh
Cây chó đẻ có tác dụng chữa bệnh gì?
Chữa đau dạ dày bằng nghệ và mật ong cực hiệu
Cây thuốc chữa bệnh sỏi thận cực hiệu quả
Tác dụng chữa bệnh của củ cải thắng

Tác dụng chữa bệnh của cây kim tiền thả
o -




(
ST)