Bệnh apxe gan

Bệnh apxe gan là gì? Nguyên nhân gây bệnh apxe gan. Biểu hiện của bệnh apxe gan. Phòng ngừa và điều trị bệnh apxe gan.

Bệnh apxe (Áp - xe) gan là gì?

Áp-xe gan là một bệnh nặng, có thể gây tử vong với tỷ lệ cao. Tác nhân gây bệnh có thể là vi khuẩn, amíp, nấm. Đường lây bệnh có thể theo đường máu hay đường mật hoặc lây lan trực tiếp bởi các ổ nhiễm khuẩn lân cận trong ổ bụng.

 Nấm Candida một nguyên nhân gây áp-xe gan.
Áp-xe gan thường do vi khuẩn đi theo đường máu tới gan hay do các ổ nhiễm khuẩn bên cạnh trong khoang phúc mạc. Áp-xe gan có thể chỉ là một ổ đơn độc, hoặc cũng có thể là nhiều ổ áp-xe. Trước đây, viêm ruột thừa vỡ là nguyên nhân gây áp-xe gan nhiều nhất, còn hiện nay bệnh đường mật phối hợp lại là căn nguyên gây áp-xe gan phổ biến hơn. Viêm mủ tĩnh mạch cửa thường do nhiễm khuẩn ở tiểu khung, nhưng đôi khi ổ nhiễm khuẩn ở nơi khác trong khoang phúc mạc cũng là nguyên nhân hay gặp gây áp-xe gan.

Biểu hiện áp-xe gan như thế nào?

Sốt là dấu hiệu hay gặp nhất trong áp-xe gan. Những bệnh nhân có thêm bệnh đường mật phối hợp thường có các triệu chứng khu trú ở góc hạ sườn phải, bao gồm: đau, phản ứng thành bụng và cảm ứng thành bụng; các triệu chứng không đặc biệt như ớn lạnh, chán ăn, sụt cân, buồn nôn, nôn có thể xuất hiện. Thực tế lâm sàng cho thấy có khoảng 50% số bệnh nhân áp-xe gan có gan to, mềm ở góc phần tư trên; hoặc có vàng da. Như vậy còn lại khoảng một nửa số bệnh nhân sẽ không có triệu chứng hay dấu hiệu gì liên quan tới bệnh gan. Sốt không rõ nguyên nhân có thể là dấu hiệu duy nhất của áp-xe gan, đặc biệt ở người cao tuổi. Vì vậy bệnh lý ở bụng, đặc biệt ở vùng hạ sườn phải được xem là một phần của sốt không rõ nguyên nhân. Triệu chứng xét nghiệm đáng tin cậy nhất là tăng alkalin phosphatase trong huyết thanh ở 70% số bệnh nhân bị áp-xe gan. Các xét nghiệm chức năng gan khác như: tăng bilirubin thấy ở 50% bệnh nhân; 48% ca có tăng aspartat aminotransferase AST trong huyết thanh; tăng bạch cầu gặp trong 77%; thiếu máu (thường là đẳng sắc) gặp 50%; giảm albumin máu gặp 33%; vãng khuẩn huyết đồng thời gặp trong 30-35% số ca bệnh. Chẩn đoán hình ảnh là những phương pháp đáng tin cậy trong chẩn đoán áp-xe gan, như chụp Xquang, siêu âm, chụp cắt lớp bằng máy tính CT, quét dò tìm bạch cầu gắn indium và gallium, cộng hưởng từ hạt nhân MRI. Chụp Xquang phổi, đặc biệt khi thấy nửa cơ hoành bị nâng lên cao, hoặc có hiện tượng thâm nhiễm đáy hay tràn dịch màng phổi phải có thể phát hiện áp-xe gan.

Những loại vi khuẩn gây áp-xe gan là gì?

Mầm bệnh gây áp-xe thay đổi tùy vào bệnh căn. Những loại hay gặp là: trực khuẩn gram âm hiếu khí và cầu khuẩn đường ruột trong áp-xe gan do đường mật. Trong áp-xe gan do đường mật, ít gặp vi khuẩn kỵ khí. Nhưng trái lại, các ca áp-xe gan có nguồn gốc từ nhiễm khuẩn trong phúc mạc hay vùng tiểu khung, thì tác nhân gây bệnh thường gồm cả vi khuẩn kỵ khí lẫn hiếu khí, nhất là B.fragilis. Tuy nhiên đối với trường hợp bệnh nhiễm khuẩn lan theo đường máu gây áp-xe gan, thường chỉ gặp một loại vi khuẩn duy nhất chẳng hạn S.aureus hoặc Streptpcoccus milleri.

Tuy ít gặp nhưng cũng cần phải chú ý rằng áp-xe gan còn có thể do nấm Candida gây ra; thường xảy ra ở những bệnh nhân đang dùng thuốc điều trị ung thư. Tác nhân nữa gây áp-xe gan là amíp tuy không phổ biến lắm. Để chẩn đoán trường hợp này cần xét nghiệm huyết thanh học tìm amíp thường cho kết quả dương tính ở trên 95% các trường hợp. Vì vậy nếu xét nghiệm âm tính giúp loại trừ amíp gây bệnh.

Các phương pháp điều trị

 Tổn thương do ổ áp-xe gan.

Điều trị áp-xe gan chủ yếu dùng hai phương pháp nội khoa và phẫu thuật.

Tuy cho đến nay, việc điều trị bằng cách chọc dẫn lưu qua da hoặc phẫu thuật vẫn còn là phổ biến để điều trị áp-xe ổ bụng, kể cả áp-xe gan, nhưng việc điều trị nội khoa cho áp-xe gan mủ cũng đã được quan tâm thỏa đáng. Với việc sử dụng các thuốc kháng sinh phổ rộng để điều trị áp-xe gan giống như các thuốc dùng trong nhiễm khuẩn máu do nhiễm khuẩn ổ bụng. Thông thường người ta hay phối hợp việc chọc hút ổ áp-xe trước khi điều trị nội khoa. Nhờ kết quả nuôi cấy bệnh phẩm, nên việc dùng thuốc theo kháng sinh đồ có kết quả tốt giúp bệnh nhân mau khỏi và tiết kiệm kinh phí chữa bệnh. Ngược lại các trường hợp điều trị mà không có chọc dẫn lưu qua da thường phải dùng kháng sinh kéo dài hơn. Tỷ lệ tử vong do áp-xe gan hiện nay vẫn còn khá cao, khoảng 15% các trường hợp mắc bệnh. Do phương pháp dẫn lưu qua da có những hạn chế như khó áp dụng trong các ca có ổ áp-xe lớn, có nhiều ổ; áp-xe chứa chất nhầy, nhớt dễ làm tắc ống dẫn lưu; các bệnh kết hợp, chẳng hạn bệnh đường mật cần phẫu thuật... nên người ta có xu hướng sử dụng phẫu thuật hơn. Trường hợp điều trị áp-xe gan do nấm Candida thường phải sử dụng amphotericin B dài ngày.

Theo một nghiên cứu đã khảo sát 540 trường hợp áp-xe ổ bụng, trong đó có 26% là áp-xe tạng; áp-xe gan chiếm tới 13% trong tổng số áp-xe và 48% trong số áp-xe tạng.

ThS. Trần Ngọc Hương

Bệnh Áp - xe gan trong Đông Y


Đại Cương

Là những ổ mủ to hoặc nhỏ, nhiều hoặc ít, ở vào khoảng cửa ở thành ống mật và huyết quản hoặc đã lan vào mô gan. Đông y đã nhắc đến bệnh này từ rất lâu với tên bệnh là Can ung.

Nguyên Nhân

Theo YHHĐ:

. Do amip và vi khuẩn xâm nhập vào gan qua một trong ba đường: Động mạch, tĩnh mạch cửa và ống mật.

. Xuất phát từ nhiễm khuẩn huyết, vi khuẩn qua động mạch gan xâm nhập vào gan, nhất là mặt gan ngoài.

. Bắt nguồn từ một áp xe ruột dư, một ổ mủ khác ở bụng, amip và vi khuẩn theo đường tĩnh mạch cửa xâm nhập vào gan và thường trú ở thuỳ phải. Hoặc từ ống mật amip chạy vào gan, phổ biến nhất vào thuỳ trái.

. Ở Việt Nam, đa số là loại áp xe gan do amip, áp xe gan – ống mật.

Theo YHCT:

Do Tình Chí Uất Kết: Can chủ sơ tiết, nếu Can khí bị uất kết, khí nghịch làm cho huyết ứ trệ ở kinh Can lâu ngày hoá độc gây ra. Mộc khắc Tỳ thổ, Tỳ mất chức năng kiện vận, sẽ sinh ra thấp nhiệt, ngừng trệ ở Can Đởm lâu ngày sẽ sinh ra ung.

. Do Ăn Uống Không Điều Độ: Thức ăn cao lương mỹ vị (nhiều chất béo), cay nóng, thức ăn nướng... làm tổn thương trường vị, mất chức năng vận hoá, thuỷ thấp không vận chuyển được, sinh ra thấp nhiệt ở bên trong, ứ kết lại ở Can Đởm. Khí huyết và thấp, đờm cùng bị ngăn trở gây nên chứng Can ung. Sách ‘Mã Bồi Chi Ngoại Khoa Y Án’ viết: ”Thích uống rượu, mỗi lần uống nhiều, rượu vào trong Vị sẽ làm cho gan nở ra, Đởm bốc lên. Đởm bùng lên thì khí huyết không thông được, đờm trọc ở trong vị sẽ tràn ra hai bên hông sườn. Đờm, khí, huyết hợp lại với nhau, kết lại thành chứng ung”.

. Do Tổn Thương: dùng sức quá mức hoặc do té ngã tổn thương làm cho lạc mạch bị ứ huyết, huyết ứ hoá ra nhiệt khiến cho huyết bị bại, huyết nhục bị thối nát hoá ra mủ thành chứng ung.

. Do ôn độc hoặc thấp nhiệt độc lâu ngày không giải trừ được, làm thương tổn tạng Can, khiến cho khí huyết bị ứ trệ, huyết nhục bị thối nát hoá ra mủ (Nội Khoa Học Thành Đô).

. Do biến chứng từ một số bệnh khác như Trường ung (viêm ruột), giun đũa (giun chui ống mật), do ký sinh trùng Amip (Entamoeba Histolytica) gây ra (vì vậy còn gọi là  áp xe gan Amip), chứng kết hung phát vàng da hoặc sau khi giải phẫu mật, do viêm nhiễm ở đường mật lan sang (gọi là Áp xe đường mật), tà độc lưu trệ, ứ ở bên trong làm tổn thương Can mạch, uất lại gây nên.

Mã Bồi Chi nhắc đến một số yếu tố gây bệnh như sau: “Đờm khí huyết trệ ứ ở Can lạc” – “Đàm nhiệt nhập vào Can lạc”.

Chẩn Đoán Phân Biệt

Để người bệnh nằm ngửa, đùi hơi co để làm giãn các cơ thành bụng, thầy thuốc ngồi bên phải, luồn tay trái vào vùng thắt lưng, bàn tay ngửa áp sát vào lưng để đẩy gan ra phía trước bụng khi gan to. Bàn tay phải đặt trên bụng, các ngón tay hơi chếch so với bờ sườn. Bảo người bệnh thở mạnh, có thể sờ thấy bờ dưới của gan.

+ Gan to nhưng mềm và đều đặn là do bệnh của tim.

+ Gan lổn nhổn, bờ sắc là gan bị xơ.

+ Gan lổn nhổn, bờ tù có thể là  áp xe gan đường mật và ứ mật.

+ Khối u cứng có thể là ung thư gan.

+ Khối u mềm có thể là  áp xe gan.

Sai lầm khi chẩn đoán phân biệt  áp xe gan hơi khó vì thường dựa theo các triệu chứng phụ và chẩn đoán:

. Thấy bệnh nhân sốt nên nghĩ đến sốt rét, phổi viêm.

. Thấy thể trạng suy kiệt nhanh nên nghĩ đến lao...

Trên lâm sàng bệnh thường diễn biến qua 3 giai đoạn:

1- Giai Đoạn Nung Mủ:

Nguyên nhân: do Can uất hoá hoả hoặc huyết ứ hoá nhiệt, thấp nhiệt nung nấu, ngưng kết ở Can Đởm lâu ngày gây nên.

Chứng: Nóng lạnh thất thường, hạ sườn bên phải đau, ấn vào đau hơn, không muốn nằm nghiêng, miệng khô, tiểu vàng, lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng trắng, mạch Huyền Hoạt. Giai đoạn này tương ứng với giai đoạn viêm của YHHĐ.

Biện Chứng:Can Đởm có quan hệ Biểu Lý vì vậy tà độc nhập vào Can gây ra lúc nóng lúc lạnh. Can bệnh, khí cơ không thông, khí huyết bị ứ trệ làm tổn thương huyết lạc khiến cho hạ sườn bên phải đau, không nằm nghiêng được. Nhiệt tà làm hại tân dịch gây ra khát. Khí uất, huyết trệ, tam tiêu thuỷ đạo không thông gây ra nước tiểu vàng. Rêu lưỡi trắng, vàng, mạch Huyền Hoạt là dấu hiệu thấp nhiệt uất trệ ở Can.

Điều Trị: Thanh nhiệt, giải độc, hoạt huyết, tán kết.

Sài hồ thanh can tán

Cam thảo

Sài hồ

Chi tử

Sinh địa

Hoàng liên

Thanh bì

Liên kiều

Xích thược

Long đởm thảo

Lượng bằng nhau. Tán bột. Ngày uống 8-12g.

Gia Giảm: Hạ sườn phải đau: thêm Diên hồ sách, Mộc hương.

.Sốt: thêm Bồ công anh, Hạ khô thảo, Vương bất lưu hành.

.Táo bón thêm: Đại hoàng (sống), Mang tiêu.

2- Giai Đoạn Thành Mủ:

Nguyên nhân: do hoả độc mạnh, phần âm bị tổn thương, khí bị tiêu, huyết bị tổn hại gây nên.

Chứng: Lạnh run, sốt cao, ra mồ hôi, hông sườn đầy, đau, đau lan đến bụng dưới hoặc nách, vai, miệng khát, tâm phiền, muốn nôn, nôn, lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng, mạch huyền Sác.

Biện Chứng: Tà chính giao tranh, mủ hình thành vì vậy gây ra rét run, sốt cao, ra mồ hôi. Tà khí ngăn trở ở kinh lạc, khí huyết bị ứ trệ, hoá thành m�� khiến cho Can tạng sưng trướng, hông sườn đau. Tạng và kinh Can bị uất trệ không thông gây ra đau lan xuống bụng dưới hoặc lên nách, vai. Nhiệt làm hại phần âm vì vậy gây ra khát, tâm phiền, nhiệt độc xâm nhập vào Vị. Lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng, mạch Huyền Sác là dấu hiệu nhiệt độc thịnh.

Điều Trị: Thanh nhiệt, giải độc, khứ hủ, bài nùng.

Hoàng Liên Giải Độc Thang (Ngoại Đài Bí Yếu):

Chi tử

12

Hoàng cầm

12

Hoàng liên

12

Hoàng bá

8

 Sài hồ

 8

 Bại tương thảo

8

 Ngư tinh thảo

 20

Đông qua nhân

 8

Ý dĩ nhân

8

Đào nhân

8

Sắc uống.

* Gia Giảm:

. Nhiệt độc hoả thịnh xâm nhập vào Tâm bào gây ra hôn mê, nói cuồng: thêm Ngưu Hoàng Thanh Tâm Hoàn hoặc Chí Bảo Đơn.

. Chính khí không thắng nổi tà khí, biểu hiện sắc mặt vàng, gầy ốm, tinh thần uỷ mị, mồ hôi tự ra: thêm Hoàng kỳ, Đảng sâm, Đương qui.

. Ho ói ra mủ, máu, áp xe bị vỡ: thêm Triết bối mẫu, Cát cánh.

. Tiêu ra mủ, máu: thêm Bạch đầu ông, Trần bì.

. Muốn nôn, nôn: thêm Tử diệp (lá Tía tô), Hoàng liên.

3- Giai Đoạn Tiềm Phục

Nguyên nhân: Do tà độc lâu ngày làm cho Vị âm bất túc, Tỳ dương hư tổn, khí huyết đều suy.

hứng: hạ sườn phải hơi đau, miệng hơi khô, lưỡi hồng, rêu lưỡi ít, mạch Tế Nhược.

Biện chứng: Tà độc nhập vào Can, làm cho khí huyết bị tổn hại, nhiệt làm tổn thương phần âm khiến cho khí huyết đều hư, khí âm bất túc biểu hiện bằng hông sườn bên phải đau, mỏi mệt không có sức, miệng khô, lưỡi đỏ, ít rêu, mạch Tế Nhược.

Điều Trị : Ích khí, dưỡng huyết, giải độc.

Thánh Dũ Thang (Tỳ Vị Luận):

Bạch thược

30

Nhân sâm

30

Đương qui

20

Hoàng kỳ

20

Xuyên khung

30

Thục địa

30

Thêm Bại tương thảo 20g, Bồ công anh 30g.

Sắc uống

Gia Giảm:

. Lưỡi hồng, ít nước miếng: thêm Thiên hoa phấn, Ngọc trúc.

. Bụng dưới trướng: thêm Cốc tinh thảo,

Tiên liệu

+ Nếu phát hiện sớm, điều trị kịp thời, đúng cách, bệnh sẽ phục hồi nhanh.

+ Nếu không điều trị đúng hoặc kịp thời, gan sẽ biến thành ổ mủ to, có khi chứa trên 2~3 lít mủ mầu sô cô la, tanh, không thối.

+ Bệnh nhân có thể cầm cự trong một thời gian khá dài nhưng sức khoẻ ngày càng suy kiệt.

+ Áp xe sẽ tiến triển và gây ra các biến chứng: rò vào cơ hoành, màng phổi, phổi, vỡ vào màng bụng, rất nguy hiểm, tử vong cao.

BÀI THUỐC HAY CHỮA BỆNH ÁP XE GAN

1. KHÍ HUYẾT HƯ

Biện chứng đông y: Khí huyết đều hư, dư nhiệt ở can đởm chưa hết, thấp đờm, che khiếu.

Triệu chứng: , môi trên tê dại, hai cánh tay không nhấc cao được, nói lảm nhảm, ban ngày đầu váng, nhức, trí nhớ rất kém, mất khả năng suy nghĩ, nôn nóng dễ cáu gắt, chảy máu cam, mắt nhìn không rõ, đại tiện khó khăn, phân rắn

Cách trị: Điều bổ khí huyết, phương hóa đàm thấp, thanh can khai khiếu.

Đơn thuốc: Gia vị thanh can khai khiếu thang.

s Hoàng kỳ

15

Qui đầu

10

Xích thược

15

Bạch thược

15

Hà thủ ô

30

Nhân trần

15

hoắc hương

10

bội lan

10

Hạnh nhân

10

quât hồng

10

Uất kim

10

Viễn trí

10

Xương bồ

10

hổ phách phấn

1.2

linh dương phấn

0.6

Sắc uống, mỗi ngày 1 thang.

Hiệu quả lâm sàng: Lưu XX, Nam 37 tuổi. Khám lần đầu ngày 30-5-1975. Năm 1972 người bệnh do xơ gan phải mổ cắt lách. Quá trình phẫu thuật tốt đẹp. Nhưng sau đó dần dần mất ngủ, đến mức suốt đêm không chợp mắt được, nghiêm trọng hơn có khi liên tục mười mấy ngày đêm không ngủ được yên giấc. Dần dần ban đêm lên cơn lưỡi, môi trên tê dại, hai cánh tay không nhấc cao được, mỗi lần kéo dài hơn 10 phút. Sau đó từng có những động tác vô ý thức, nói lảm nhảm, ban ngày đầu váng, nhức, trí nhớ rất kém, mất khả năng suy nghĩ, nôn nóng dễ cáu gắt, chảy máu cam, mắt nhìn không rõ, đại tiện khó khăn, phân rắn. Đã dùng nhiều loại thuốc tây và đông dược, châm cứu, lý liệu, thủy châm, nhĩ châm liền trong hơn 2 năm mà không kết quả. Khi đến khám, tay phải và mặt tê dại, quá trưa hai tay không nhấc lên được, mất ngủ, đêm ra mồ hôi trộm, đôi khi có trạng thái lơ mơ. Bình thường miệng mũi khô, 3-4 ngày mới đại tiện một lần. Kiểm tra máu: transaminase glutamic 180 đơn vị, amoniac huyết 0,18 mg%, lưỡi rêu vàng, mạch trầm, huyền. Cho uống Gia vị thanh can khai khiếu thang. Lấy bài thuốc này làm chính, vì ngủ không yên giấc nên thêm Táo nhân 15g, Bách hợp 12g, Hợp hoan bì 12g, tổng cộng tất cả uống trên dưới trăm thang, ngày càng ngủ được tốt hơn, về cơ bản hết các chứng váng đầu, hồi hộp, dễ cáu v.v... nhìn các vật rõ ràng, trí nhớ và khả năng suy nghĩ có phần phục hồi. Lưỡi rêu mỏng trắng, mạch trở nên trầm, hoạt, transaminase glutamic bình thường, amoniac huyết giảm còn 0,1mg%. Qua hỏi thăm, nửa năm sau vẫn không tái phát.

Bàn luận: Hôn mê gan mạn tính phần nhiều gặp ở các trường hợp xơ gan bản thân gan và chức năng gan tổn thương, quá trình mạn tính phát triển, đến giai đoạn sau chức năng gan suy kiệt, mất khả năng bù, xuất hiện chứng bệnh thuộc hệ thần kinh, đến giai đoạn cuối có thể hoàn toàn hôn mê. Bệnh nhên loại này phần nhiều là do bệnh lâu ngày chuyển thành "hư", khí huyết không đủ, âm dương đều thương tổn, can âm không đủ, huyết không muối can, hư phong nội đồng, ngoài ra thấp độc nhiệt tà ẩn náu trong phần huyết phát triển thêm kích động hư phong, tà chính tranh chấp, dẫn đến có lơ mơ, bực bội dễ tức giận, nhìn mọi vật không rõ, đầu váng, hay quên, mệt mỏi thích nằm, dạ dày đầy căng đau, ăn không thấy ngon v.v... hơn nữa nhiều trường hợp do uất ức lo lắng, tức giận hoặc lao động quá sức mà đàm che, làm tắc khiếu, dẫn đến hôn mê. Tổng quát, phương pháp điều trụ là phải bổ hư phù chính. tinh thần khai khiếu làm chủ, phụ thêm là thành lợi dư tà.

ÁP XE GAN (DO VI KHUẨN)

Biện chứng đông y: Tà uẩn huyết ứ, thối rữa mà làm mủ.

2. HUYẾT Ứ

Triệu chứng: đau bên sườn phải, bụng chướng đầy, ăn không ngon, kèm theo lợm giọng buồn nôn, gan to ấn đau. mạch huyền sác, rêu lưỡi vàng dày, kém nhuận, chất lưỡi đỏ,

Cách trị: Sơ can giải độc, thoát mủ tiêu thối rữa.

Đơn thuốc: Đại sài hồ thang và Sài hồ thanh can thang hóa tài.

Sài hồ

9

Hoàng cầm

15

khổ sâm

15

Nhân trần

15

B công anh

15

bản lam căn

30

xuyên quân

6

Liên kiều

15

quảng Mộc hương

9

sinh tam tiên

9

Xích thược

15

Cam thảo

6

Sắc uống, mỗi ngày 1 thang.

Hiệu quả lâm sàng: Hoàng XX, nam, bộ đội, 25 tuổi, Sốt cao 39-40o C, đau bên sườn phải, bụng chướng đầy, ăn không ngon, kèm theo lợm giọng buồn nôn, gan to ấn đau. Kiểm tra siêu âm thấy trên đường dọc đi qua biển giữa xương đòn có 2 mặt bằng nước ở gian sườn 6 và gian sườn 7. Mặt bằng thứ nhất rộng 1,5cm, sâu dưới da 3cm, mặt thứ hai rộng 1cm, sâu dưới da khoảng 4,5cm. Khoa nội xác định chẩn đoán là áp xe gan, chuyển sang khoa ngoại. Sau khi tiêm nhiều kháng sinh ở khoa nội và khoa ngoại, thân nhiệt hạ xuống 38oC, các chứng khác hơi biến chuyển. Căn cứ vào bệnh tình, khoa nội khoa ngoại hội chẩn, quyết định tạm hoãn không mổ, theo dõi điều trị bảo tồn. Vẫn truyền kháng sinh vào tĩnh mạch, nhưng sau 3 ngày thân nhiệt không hạ, các chứng cũng không bớt. Vì vậy nên chuyển sang đông y. Căn cứ mạch huyền sác, rêu lưỡi vàng dày, kém nhuận, chất lưỡi đỏ, cho dùng bài thuốc trên, uống 6 thang thì nhiệt hạ xuống còn khoảng 37 o 5 C, ăn được nhiều hơn, bụng đỡ chướng. uống thêm 6 thang nữa, thân nhiệt bình thường, các chứng đều hết, kiểm tra siêu âm không thấy rõ chất dịch ở hai chỗ cũ, lại uống 6 thang nữa, khỏi bệnh ra viện.

Bàn luận: áp xe gan là một chứng bệnh nghiêm rọng, do ami hoặc do khuẩn. Nguyên nhân bệnh khác nhau thì cách chữa cũng phải khác. Đông y gọi áp xe gan là can ung, cũng do 2 nguyên nhân: (1) do tà độc nội uẩn, khí tuệ huyết ứ, lâu ngày thối rữa thành ung; (2) do vấp ngã, lạc thương huyết ứ, loét thành ung. Bệnh tuy nghiêm trọng, nhưng chỉ cần xét rõ căn nguyên bệnh, điều trị kịp thời, kết hợp chặt chẽ đông tây y, phát huy các sở trường của đông y, tây y, tìm ra cách chữa thích hợp là có thể đạt hiệu quả tốt.

(St)

Em muon nhin mot so hinh anh tren phim xquag.em muon nha khoa hoc tung them anh
hơn 1 tháng trước - Thích (2)
Chắc bạn phải search trên google imegine thôi. trên đó có nhiều lắm
hơn 1 tháng trước - Thích (1)
cac video
hơn 1 tháng trước - Thích
Gửi hỏi đáp - bình luận