Tác dụng chữa bệnh của quả bí ngô
Nộm chân gà rút xương cực hấp dẫn
Bệnh đa u tủy xương là gì? Nguyên nhân gây đa u tủy xương.
Biểu hiện của bệnh đa u tủy xương. Điều trị và phòng ngừa đa u tủy xương như
thế nào.
Bệnh đa u tủy xương
Đa u tuỷ xương là một trong hai nhóm bệnh chính của ung thư tương bào - là tình
trạng bệnh lý của các tế bào tiết kháng thể. Khi tế bào trở nên ác tính, chúng
chỉ tiết một loại kháng thể đơn dòng (Monoclonal immunogammaglobuline) IgG,
IgA, IgM…. Các phân tử kháng thể đơn dòng này không có chức năng của một kháng
thể đơn dòng bình thường, chúng có thể lắng đọng ở các tổ chức liên kết hoặc
các cơ quan quan trọng của cơ thể, gây rối loạn chức năng của các cơ quan này.
Mặt khác các globulin miễn dịch bình thường bị giảm nặng nên khả năng miễn dịch
của bệnh nhân bị giảm sút. Đa u tuỷ xương chiếm khoảng 8% các bệnh lý ác tính
của hệ tạo huyết.
Nguyên nhân nào dẫn đến đa u tủy xương?
Hiện tại các nhà khoa học chưa tìm được nguyên nhân chính xác gây bệnh
đa u tủy xương. Một điều rõ ràng là đa u tủy xương không phải là một căn
bệnh lây nhiễm. Có một số yếu tố liên quan đến nguy cơ mắc bệnh như:
Tuổi: Tuổi càng cao nguy cơ bị bệnh càng tăng, phần lớn bệnh được chẩn
đoán ở độ tuổi trên 65, rất hiếm khi gặp ở bệnh nhân dưới 40.
Một số bệnh lý lành tính bất thường tương bào có tiết protein M làm tăng nguy cơ bị một số ung thư trong đó có đa u tủy xương.
Các nhà khoa học cũng đang nghiên cứu một số yếu tố nguy cơ khác như
phóng xạ, thuốc sâu, thuốc nhuộm tóc, một số loại virut, tình trạng béo
phì và chế độ ăn.
Yếu tố di truyền: Rất hiếm gặp trường hợp bệnh lý đa u tủy xương mang
tính chất gia đình có trên một người trong gia đình bị bệnh.
Tuy nhiên, không phải tất cả các bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ đều bị
mắc bệnh đa u tủy xương. Nếu bạn cho rằng bạn có nguy cơ cao bị đa u tủy
xương thì bạn nên đến khám và gặp bác sĩ để trao đổi vấn đề này.
Triệu chứng thường gặp
Người bệnh thường thấy đau xương ở phần lưng, có thể xuất hiện tình
trạng gãy xương bệnh lý, cảm giác yếu, mệt mỏi. Lúc nào cũng thấy khát,
thường xuyên bị nhiễm khuẩn và sốt, gầy sút cân; buồn nôn, táo bón; đi
tiểu thường xuyên...Các triệu chứng này không phải do bệnh ung thư và có
rất nhiều bệnh lý khác có thể gây nên triệu chứng này. Vì vậy khi bạn
mắc các triệu trứng trên thì nên đi bác sĩ khám để được chẩn đoán và
điều trị bệnh ở giai đoạn sớm.
Đôi khi bệnh được chẩn đoán qua xét nghiệm máu thường quy. Thường gặp
hơn, các bác sĩ phát hiện bệnh qua chụp phim cho bệnh lý gãy xương hoặc
người bệnh đến khám vì các triệu chứng khác. Để xác định bệnh đa u tủy
xương, bệnh nhân cần làm một số xét nghiệm như:
Xét nghiệm máu: Kiểm tra các tế bào máu và các thành phần khác
trong máu. Tế bào u tủy gây tình trạng tăng calci máu và tăng tỷ lệ
tương bào trong máu. Phần lớn người bệnh có thiếu máu.
Xét nghiệm nước tiểu: Tìm protein Bence - Jones trong nước tiểu
hoặc định lượng protein Bence Jones niệu 24giờ. Trong trường hợp
protein này tăng cao trong nước tiểu, có thể gây tắc ống thận và hủy
hoại thận dẫn đến suy thận.
Chụp phim Xquang: để kiểm tra gãy xương hoặc tổn thương hủy hoại xương.
Sinh thiết: Đây là biện pháp duy nhất giúp khẳng định bệnh xem
tế bào ung thư có xâm lấn tủy xương hay không. Một số xét nghiệm khác
giúp đánh giá giai đoạn như chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ, xạ
hình xương...
Từ những xét nghiệm trên bác sĩ sẽ đánh giá giai đoạn bệnh và đưa ra các biện pháp điều trị tối ưu cho từng giai đoạn.
1- Dịch tễ học
Giới: Tỷ lệ mắc bệnh nam cao hơn nữ với tỷ lệ 1,4/1.
Tuổi: Tuổi mắc bệnh trung bình là 65, mặc dù tuổi trung bình được ghi nhận
trong các nghiên cứu là 60.
Yếu tố địa lý: Không có sự khác biệt về tỷ lệ mắc bệnh theo địa lý. Ở Châu Âu,
tỷ lệ mắc bệnh cao ở Anh, Thuỵ Điển và Israel, tỷ lệ mắc bệnh thấp hơn ở Pháp,
Đức, Áo. Các nước đang phát triển có tỷ lệ mắc bệnh thấp nhất. Sự khác biệt này
có thể do tuổi thọ trung bình kéo dài và theo dõi sức khoẻ thường xuyên hơn ở
các nước phát triển.
Thời gian sống thêm: Thời gian sống thêm 5 năm cho tất cả các bệnh nhân khoảng
20-30%, tỷ lệ này thấp hơn ở những bệnh nhân trên 65 tuổi (20-25%) và cao hơn ở
bệnh nhân dưới 65 tuổi (30-35%).
2- Yếu tố nguy cơ
Hiện tại chưa có yếu tố nguy cơ nào được xác định có liên quan đến sự phát
triển bệnh đa u tuỷ xương.
Môi trường: Một số yếu tố gợi ý liên quan đến bệnh như tiếp xúc với tia phóng
xạ (các nhà chẩn đoán hình ảnh, các công nhân tiếp xúc phóng xạ), yếu tố nghề
nghiệp (công nhân nông nghiệp, hoá học, cao su, sản xuất giấy…), và sự tiếp xúc
với benzene, formaldehyde, chất nhuộm tóc, sơn tường…. Các yếu tố này qua các
nghiên cứu chưa được chứng minh có sự liên quan đến tỷ lệ mắc bệnh một cách có
ý nghĩa thống kê, kết quả nghiên cứu ban đầu ở Nhật Bản về tỷ lệ mắc bệnh đa u
tuỷ xương ở những nạn nhân sống sót sau vụ nổ bom hạt nhân đã bị bác bỏ ở những
nghiên cứu kéo dài hơn sau này.
Virus: Trong một nghiên cứu trước đây người ta cho rằng có sự liên quan về tỷ
lệ mắc bệnh đa u tuỷ xương và nhiễm vi rus Herpes 8 (HPV8) ở các tế bào thần
kinh. Tuy nhiên, theo kết quả các nghiên cứu với số lượng lớn hơn sau này đã
bác bỏ kết quả ban đầu và các bệnh nhân đa u tuỷ xương không có đáp ứng miễn
dịch kháng lại HPV8.
Yếu tố gen: Mặc dù đa u tuỷ xương không phải là bệnh di truyền, người ta có ghi
nhận nhiều trường hợp mắc bệnh trong cùng gia đình. Tuy nhiên, các nghiên cứu
không đưa ra kết luận về nguy cơ mắc bệnh đa u tuỷ xương, bệnh lý hệ tạo máu
hay bệnh lý ác tình khác ở họ hàng của các bệnh nhân đa u tuỷ xương.
3- Triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng
Triệu chứng đa u tuỷ xương khá đa dạng. Các triệu chứng gợi ý chẩn đoán bệnh
bao gồm: tổn thương tiêu xương, thiếu máu, tăng urê huyết, tăng calci huyết và
nhiễm khuẩn tái phát. Khoảng 30% các bệnh nhân không có biểu hiện triệu chứng
và được phát hiện tình cờ.
Bệnh lý xương: Đau xương, đặc biệt chèn ép tuỷ hoặc gẫy xương sườn là các triệu
chứng thường gặp nhất. Tại thời điểm chẩn đoán, 70% bệnh nhân có biểu hiện tiêu
xương do tăng quá trình huỷ xương. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình này bao
gồm các yếu tố như: Interleukin 1B, yếu tố hoại tử u (TNF-a), IL-6, các
cytokine kích thích giải phóng TNF….
Thiếu máu: Thiếu máu bình sắc, hồng cầu bình thường là triệu chứng thường gặp ở
khoảng 60% bệnh nhân. Nguyên nhân thường do sự xâm lấn u vào tuỷ xương làm giảm
quá trình tạo hồng cầu, ngoài ra sự giảm Erythropoietin ở những bệnh nhân có
hoặc không có suy thận cũng làm cho thiếu máu nặng lên.
Tăng calci huyết: Khoảng 20% bệnh nhân có tăng calci huyết thứ phát do tăng quá
trình huỷ xương và do sự bất động kéo dài. Các triệu chứng gợi ý tăng Calci
huyết ở bệnh nhân đa u tuỷ xương đặc biệt ở những bệnh nhân có khối u lớn như
buồn nôn, mệt mỏi, lú lẫn, đa niệu hoặc táo bón. Tăng calci huyết được coi như
một cấp cứu ung thư và cần được điều trị.
Suy thận: Khoảng 20% bệnh nhân có biểu hiện suy thận tại thời điểm chẩn đoán và
khoảng 20% xuất hiện biến chứng suy thận ở những giai đoạn sau. Sự lắng đọng
protein Bence Jones ở ống lượn xa là nguyên nhân chủ yếu gây suy thận, ngoài ra
các yếu tố như tăng calci huyết, mất nước, tăng urê huyết hoặc ít gặp hơn như
thoái hoá hoá dạng tinh bột, bệnh lắng đọng chuỗi nhẹ, sử dụng thuốc giảm đau
không steroid cũng góp phần gây suy thận.
Nhiễm khuẩn: Các bệnh nhân đa u tuỷ xương có thể có nhiễm khuẩn nặng. Trước
đây, các nguyên nhân nhiễm khuẩn thường gặp là vi khuẩn Gram (+) (Streptococcus
pneumonia, Staphylococcus aureas) và Haemophilus ifluenzae, gần đây nhiễm khuẩn
Gram (-) ngày càng trở nên phổ biến. Sự suy giảm sức đề kháng của người bệnh,
giảm Globulin gamma, giảm bạch cầu hạt là những yếu tố góp phần nhiễm khuẩn.
4- Cận lâm sàng
Các chỉ số xét nghiệm trong một số bệnh rối loạn tương bào
Đa u tuỷ xương
Tỷ lệ tương bào tuỷ xương > 15%
Tăng Globuline miễn dịch đơn dòng (đỉnh thường > 3g/dl)
Giảm các dòng Globuline miễn dịch khác
Xuất hiện Protein Bence Jones
Tổn thương tiêu xương hoặc thiểu năng xương lan toả
U tuỷ xương thể tiềm ẩn
Bệnh không biểu hiện triệu chứng kèm theo:
Hemoglobine > 10,5 g/dl
Tăng Globuline miễn dịch đơn dòng (đỉnh < 4,5g/dl)
Calci huyết và Creatinine huyết bình thường.
Không có tổn thương xương
U tương bào đơn độc ở xương
Tổn thương xương đơn độc do u tương bào
Hệ thống xương và hình ảnh MRI xương sọ, cột sống, xương chậu bình thường.
Tỷ lệ tương bào tuỷ xương bình thường
Không thiếu máu, không tăng Calci và không có bệnh lý thận
Các dòng Globuline miễn dịch khác ở giới hạn bình thường
Bệnh lý tăng đơn dòng gamma (MGUS)
Mức tăng Globuline miễn dịch đơn dòng < 3,0 g/dl
Tỷ lệ tương bào tuỷ xương < 10%
Không có tổn thương xương
Không có triệu chứng gây ra do rối loạn tương bào
Các dòng Globuline miễn dịch khác ở giới hạn bình thường
Bệnh thoái hoá dạng tinh bột không kèm u tuỷ
Tương tự như MGUS kèm theo có bằng chứng thoái hoá dạng tinh bột trên bệnh phẩm
sinh thiết
5- Sàng lọc và chẩn đoán
Hiện tại chưa có biện pháp sàng lọc nào được xác định có hiệu quả trong bệnh đa
u tuỷ xương.
Chẩn đoán thường dựa vào:
Xuất hiện tương bào trong tuỷ xương.
Tăng protein đơn dòng trong nước tiểu hoặc trong huyết thanh.
Một dòng Globuline miễn dịch thường tăng cao trong khi các dòng khác suy giảm.
Quy trình chẩn đoán ở những bệnh nhân nghi ngờ có rối loạn tương bào bao gồm:
Công thức máu: Công thức bạch cầu và đếm số lượng tiểu cầu.
Xét nghiệm sinh hoá máu: Calci huyết, creatinine huyết…
Chọc tuỷ đồ: Tỷ lệ tương bào tuỷ thường tăng >15%. Các tế bào này
dương tính mạnh với CD38, CD138 và bào tương globulin miễn dịch (cIg: cytoplasmic
immunoglobulin), âm tính với CD5, CD20 và globulin miễn dịch bề mặt
(sIg: surface immunoglobulin). Xâm nhiễm tuỷ xương có thể khu trú đại thể, do
đó đếm số lượng tương bào có thể bình thường và chọc tuỷ đồ có thể bỏ qua tổn
thương thâm nhiễm của tương bào, trong trường hợp này, sinh thiết trực tiếp
dưới hướng dẫn XQ sẽ cho kết quả chính xác.
Điện di protein huyết và cố định miễn dịch để xác định loại protein bệnh lý.
Thường gặp nhất là tăng IgG (60%), IgA (20%), IgD (2%), IgE (< 0,1%) hoặc chỉ
tăng chuỗi nhẹ k hoặc l (18%). Dưới 1% bệnh nhân có tăng 2 dòng
globuline miễn dịch và dưới 5% không tăng globuline miễn dịch do tương bào
không tiết globuline miễn dịch đơn dòng có thể phát hiện được.
Protein niệu 24h, điện di protein niệu và cố định miễn dịch.
Định lượng globuline miễn dịch.
Chụp phim xương đánh giá tình trạng tiêu xương. MRI là một xét nghiêm rất có
giá trị trong đánh giá sự chèn ép hoặc xâm lấn tuỷ xương, ngoài ra MRI còn giúp
đánh giá đáp ứng bệnh sau điều trị. Chụp MRI rất có ý nghĩa trong đánh giá giai
đoạn các bệnh nhân không tăng tiết globuline miễn dịch mà chỉ biểu hiện bằng
các tổn thương đại thể.
Di truyền học tế bào.
Ngoài ra, còn một số xét nghiệm khác giúp tiên lượng bệnh như: b2-microglobulin
(b2M), protein C phản ứng (PCR), men lactate dehydrogenase (LDH)….
6- Đánh giá giai đoạn và tiên lượng
Có nhiều hệ thống phân loại khác nhau được áp dụng cho bệnh đa u tuỷ xương và
phân loại Durie-Salmon được sử dụng nhiều nhất.
Phân loại Durie-Salmon
Giai đoạn |
Tiêu chuẩn |
Số lượng tế bào u tuỷ (x 1012TB/m2) |
I |
Hemoglobine >10g/dl |
<0,6 (thấp) |
II |
Không thuộc giai đoạn 1 hoặc 3 |
0,6-1,2 (trung bình) |
III |
Hemoglobine < 8,5g/dl |
>1,2 (cao) |
Dưới nhóm |
Tiêu chuẩn |
|
A |
Chức năng thận bình thường (creatinine huyết <2,0
mg/dl) |
Tiên lượng
Bất thường gen- tế bào: Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu cho thấy các thay
đổi NST là yếu tố tiên lượng quan trọng. Các bất thường NST đặc biệt mất hoàn
toàn hoặc một phần NST 13 (13q) thường đi kèm với thời gian sống thêm thấp hơn
sau điều trị hoá chất thông thường hoặc hoá chất liều cao.
Nồng độ Beta2M là yếu tố tiên lượng quan trọng đặc biệt trong trường hợp
các nghiên cứu gen không xác định được. Tuy nhiên do Beta2M được tiết từ thận
nên trong các trường hợp có kèm theo suy thận thì Beta2M tăng khó đánh giá
được.
Nồng độ LDH huyết thanh: Nồng độ LDH tăng cao thường đi kèm với bệnh u tương
bào non, tổn thương ngoài xương, Leucemie thể tương bào, bệnh kháng thuốc và
thời gian sống thêm ngắn.
Các yếu tố tiên lượng khác: PCR, DNA, thể giải phẫu bệnh u tương bào non, biểu
hiện các kháng nguyên bạch cầu lympho non (cALLA: common Acute Lymphoblastic
Leukemia Antigen) là các yếu tố tiên lượng xấu liên quan đến sự đáp ứng hoá
chất.
Tiêu chuẩn đánh giá đáp ứng điều trị
Tiêu chuẩn đánh giá đáp ứng điều trị khác nhau giữa các trung tâm nghiên cứu do
đó việc so sánh kết quả khá khó khăn.
Các tiêu chuẩn đánh giá bệnh đáp ứng một phần:
Giảm trên 50% nồng độ protein u tuỷ trong huyết thanh
Giảm trên 90% nồng độ protein Bence Jones
Các tiêu chuẩn đánh giá bệnh đáp ứng hoàn toàn :
Không còn protein u tuỷ và protein Bence Jones qua xét nghiệm cố định miễn
dịch.
Không có tương bào đơn dòng trong tuỷ xương.
7- Điều trị
Với các biện pháp điều trị hiện có, chỉ khoảng 5-10% bệnh nhân đa u tuỷ xương
sống trên 10 năm.
Bệnh nhân được điều trị lần đầu
Hoá trị
MP (Melphalan + Prednisolon) là phác đồ chuẩn trong điều trị đa u tuỷ xương.
Các phác đồ phối hợp các chất alkyl hoá không cho hiệu quả cao hơn phác đồ MP
ngay cả đối với các bệnh nhân tiên lượng xấu. Tỷ lệ đáp ứng khoảng 40% và thời
gian sống thêm không bệnh là 18 tháng và thời gian sống thêm toàn bộ là 3 năm.
Với những bệnh nhân có chỉ định điều trị hoá chất liều cao, nên tránh sử dụng
Melphalan và các chất alkyl hoá trước do ảnh hưởng đến khă năng phát triển của
tuỷ xương và có thể dẫn đến hội chứng loạn sản tuỷ (MDS: Myelodysplastic
Syndrome) hoặc leucemie cấp thể tuỷ (AML: Acute Myeloid Leukemia).
VAD (Vincristin, Adriamycin, Dexamethasone): Thường được sử dụng như phác
đồ “làm sạch tuỷ” trước điều trị hoá chất liều cao. Tỷ lệ đáp ứng đối với phác
đồ VAD là 55% ở những bệnh nhân chưa được điều trị và đáp ứng điều trị đến sớm
hơn so với phác đồ MP, do đó đối với các bệnh nhân có biến chứng tăng calci
máu, suy thận hoặc đau xương, phác đồ VAD mang lại nhiều lợi ích.
Dexamethasone đơn thuần được sử dụng kết hợp cho các bệnh nhân có chỉ định
điều trị xạ trị cột sống giảm đau do chèn ép tuỷ, do phác đồ này tránh được
biến chứng suy tuỷ nặng.
Thalidomide được sử dụng đơn thuần hoặc phối hợp với Dexamethasone cho tỷ
lệ đáp ứng cao hơn (64 %). Tuy nhiên phác đồ phối hợp này làm tăng nguy cơ bị
viêm tắc tĩnh mạch và cần được điều trị dự phòng.
Hoá chất liều cao: Việc điều trị hoá chất liều cao sau phác đồ hoá chất diệt
tuỷ làm tăng tỷ lệ đáp ứng, thời gian sống thêm không bệnh (28 so với 18 tháng)
và thời gian sống thêm toàn bộ (57 so với 42 tháng). Hoá chất liều cao (thường
là Melphalan 200mg/m2) kết hợp truyền tế bào gốc máu ngoại vi hiện được coi là
biện pháp điều trị chuẩn cho các bệnh nhân đa u tuỷ xương có triệu chứng sau
phác đồ hoá chất “làm sạch tuỷ”. Kết hợp xạ trị toàn thân không làm tăng tiên
lượng bệnh nhưng làm tăng biến chứng điều trị và trong một số trường hợp có thể
gây tử vong.
Xạ trị
Liều xạ 40-50 Gy được sử dụng với mục đích điều trị triệt căn với các khối u
tương bào đơn độc ở xương hoặc ở ngoài tuỷ. Liều thấp hơn (20-30 Gy) được sử dụng
với mục đích giảm đau với các trường hợp đau khu trú do u thâm nhiễm xương, gãy
xương bệnh lý hoặc chèn ép tuỷ. Trong một số trường hợp, corticoide liều cao
cũng giúp giảm đau đặc biệt với các bệnh nhân mới được chẩn đoán.
Điều trị khi bệnh tái phát hoặc tiến triển
Khoảng 50% bệnh nhân không đáp ứng điều trị hoá chất và trong số bệnh nhân có
đáp ứng sẽ tiến triển hoặc tái phát sau điều trị. Phác đồ VAD là phác đồ
được lựa chọn cho các bệnh nhân thất bại sau điều trị phác đồ MP với tỷ lệ đáp
ứng là 40% và 25% với các bệnh nhân tái phát và không đáp ứng sau điều trị ban
đầu. Dexamethasone đơn thuần cho kết quả tương tự như VAD với những bệnh nhân
kháng với hoá chất ban đầu ( tỷ lệ đáp ứng là 25% so với 25-30%) nhưng thấp hơn
VAD với các trường hợp bệnh nhân tái phát ( tỷ lệ đáp ứng là 25% so với 40%).
Đa u tuỷ xương kháng với phác đồ VAD:
Hoá chất kết hợp:
Hoá chất liều cao với các chất alkyl hoá đơn thuần hoặc kết hợp có hiệu quả đối
với 1/3 số trường hợp bệnh nhân tái phát sau phác đồ VAD. Melphalan tĩnh mạch
(70-100mg/m2), kết hợp với Cyclophosphamide liều cao (Cytoxan, Neosar) và
Etoposide là các phác đồ hay được sử dụng.
Thalidomide: Đã được chứng minh có hiệu quả trong điều trị đa u tuỷ xương thất
bại hoặc tái phát sau các phác đồ khác. Kết quả điều trị khác nhau trong từng
nghiên cứu, tỷ lệ sống 2 năm không bệnh khoảng 25%. Trước đây, liều Thalidomide
khởi đầu là 200mg tăng dần đến liều tối đa là 800mg. Ngày nay người ta sử dụng
liều thấp hơn giúp tăng khả năng chịu đựng của bệnh nhân và mở rộng chỉ định
điều trị. Qua các nghiên cứu về dược động học thuốc, kết hợp Thalidomide và các
thuốc khác như Glucocorticoide và hoá chất cho kết quả điều trị cao hơn.
Các thuốc mới
IMiD (Revimid hay CC-5013) là phân tử nhỏ, có hiệu quả chống các dòng tế bào
trong u tuỷ. Trong một nghiên cứu pha I, liều uống hàng ngày được nghiên cứu là
5, 10, 15, 20, 25 và 50mg trên 25 bệnh nhân tái phát hoặc thất bại sau điều
trị. Kết quả cho thấy, với liều 25-50 mg cho hiệu quả tốt nhất giúp làm giảm
paraprotein. Tuy nhiên độc tính thường gặp là suy tuỷ sau 4 tuần điều trị, việc
điều chỉnh liều, thời gian điều trị và sử dụng G-CSF giúp giải quyết vấn đề này
và đang tiếp tục được nghiên cứu pha II.
Thuốc ức chế men Protease (Bortezomid) là thuốc ức chế chọn lọc men protease
là một men có vai trò trong giáng hoá các protein có vai trò quan trọng trong
kiểm soát sự phát triển và sống sót tế bào u. Liều thường được sử dụng là
1,3mg/m2 ngày 1, 4, 8 và 11 với chu kỳ 21 ngày cho thấy thuốc có hiệu quả
điều trị cao với các bệnh nhân tái phát hoặc thất bại sau điều trị ngay cả sau
điều trị bằng ghép tuỷ và điều trị bằng Thalidomide. Tác dụng phụ thường gặp là
rối loạn tiêu hoá, bệnh lý thần kinh, mệt mỏi và suy tuỷ có hồi
phục.Hiện nay người ta đang nghiên cứu điều trị kết hợp Bortezomid và các hoá
chất khác như Doxorubicin dạng tương bào (Doxil) và Thalidomide.
Điều trị ghép tuỷ: điều trị các phác đồ hoá chất liều cao gây suy tuỷ kèm theo
ghép tuỷ tự thân là biện pháp điều trị được lựa chọn và có hiệu quả đặc biệt
đối với các bệnh nhân trẻ tuổi kèm theo có các yếu tố tiên lượng xấu. Tuy
nhiên, hạn chế của biện pháp này là tỷ lệ tử vong liên quan điều trị cao.
Điều trị triệu chứng:
Thiếu máu mạn tính: Thiếu máu mạn tính do bệnh lý hoặc do suy thân gây nên
có thể được điều trị bằng EPO (Erythropoietine) 40.000 đơn vị tiêm dưới da, 1
lần/tuần.
Nhiễm khuẩn: là biến chứng của tình trạng hạ bạch cầu hạt kéo dài do điều trị
hoá chất liều cao. Việc sử dụng G-CSF, và trong một số trường hợp truyền gamma
globuline hàng tháng ở những bệnh nhân có kèm theo giảm nồng độ IgG giúp hạn
chế biến chứng này. Một nghiên cứu cho rằng điều trị dự phòng bằng Trimethoprim
– Sulfamethoxazole (TMP-SMX) trong quá trình điều trị hoá chất liều cao giúp
làm giảm nguy cơ nhiễm khuẩn, tuy nhiên làm tăng triệu chứng buồn nôn và phản
ứng nổi mẩn ngoài da. Vai trò của điều trị kháng sinh dự phòng còn đang được
nghiên cứu.
Đau xương và gãy xương bệnh lý: Điều trị bằng Biphosphonate như parmidronate
(Aredia), alendronate (Fosamax), hoặc zoledronic acid (Zometa). Phẫu thuật tạo
hình đốt sống qua da là biện pháp không những giúp giảm đau nhanh mà còn tăng
cường đốt sống. Dưới gây mê toàn thân hoặc tại chỗ, phẫu thuật tiến hành bơm
chất polymethyl methacrylat là một thành phần cơ bản của chất gắn kết xương vào
thân đốt sống. Chống chỉ định tuyệt đối của phẫu thuật này là bệnh nhân có rối
loạn đông máu.
Bệnh đa u tuỷ xương không có biểu hiện triệu chứng
Khoảng 20% bệnh nhân đa u tuỷ xương không có biểu hiện triệu chứng và được phát
hiện tình cờ qua làm xét nghiệm có hàm lượng protein tăng cao. Hoá trị liệu có
thể được trì hoãn cho tới khi bệnh nhân có biểu hiện triệu chứng hoặc có biến
chứng điều trị.
(St)