'Mặt trái' đáng sợ của món trứng vịt lộn bổ dưỡng
Ăn bao nhiêu trứng 1 tuần là đủ với từng đối tượng?
Cách bảo quản trứng vịt lộn được lâu
- Nguyên nhân của nhiễm trùng máu phần lớn do các vi khuẩn Gram âm
gây ra, tụ cầu, phế cầu và các vi khuẩn Gram dương khác thì ít gặp hơn.
Nhiễm trùng máu đặc biệt nguy hiểm nếu không được phát hiện sớm và điều
trị kịp thời dẫn đến các biến chứng nặng về tuần hoàn, hô hấp, rối loạn
đông máu, suy gan thận và các tạng khác.
- Điều trị: Ngày nay, với sự tiến bộ của các phương tiện chẩn đoán,
trang thiết bị hỗ trợ tim mạch, hô hấp và kháng sinh thì việc chữa trị
nhiễm trùng máu có kết quả rõ rệt, giảm được tử vong rất nhiều. Việc
điều trị bao gồm cả công tác chẩn đoán sớm, loại bỏ nguồn gốc gây nhiễm
trùng từ ổ nguyên phát, hỗ trợ tuần hoàn và hô hấp, điều chỉnh thăng
bằng kiềm toan, chống rối loạn đông máu và kháng sinh. Trước khi sử dụng
kháng sinh nên cấy máu và các bệnh phẩm khác để làm kháng sinh đồ chọn
ra kháng sinh phù hợp song không phải chờ kết quả của kháng sinh đồ mới
điều trị mà nên dùng kháng sinh phổ rộng ngay sau khi lấy bệnh phẩm.
Nhìn chung với sự xuất hiện của các loại kháng sinh mới, có tác dụng rộng và phương tiện hồi sức tốt, chẩn đoán kịp thời, hiện nay bệnh nhiễm trùng máu đã giảm được tỷ lệ tử vong đáng kể.
Nhiễm trùng máu là một bệnh nặng, nguy hiểm đến tính mạng
trẻ và thường có kèm theo viêm màng não mủ. Bệnh có thể xảy ra trước, trong và
sau khi sinh.
Nhiễm trùng máu có thể xảy ra sớm nhưng cũng có thể xảy ra muộn từ một đến hai
tuần sau khi sinh. Trẻ mới sinh dễ nhiễm trùng vì trong lúc sinh nếu không thực
hiện đỡ đẻ sạch (bàn tay người đỡ sạch, dụng cụ sạch, nơi đẻ sạch...) thì vi
trùng đi qua da, dây rốn và vào máu, lan tràn khắp cơ thể, trong đó có não, gây
viêm não - màng não, rất dễ để lại di chứng kể cả khi đã được điều trị tích
cực.
Dấu hiệu nhiễm trùng ở trẻ mới sinh khác với dấu hiệu nhiễm trùng ở những trẻ
lớn, đó có thể là: Buồn ngủ hoặc ngủ li bì; sốt cao trên 38 độ C hoặc hạ nhiệt
độ dưới 35 độ C; vàng da; tím tái hoặc xám; da xanh (do thiếu máu); suy hô hấp
làm cho trẻ thở thanh hoặc chậm; rối loạn tiêu hóa (tiêu chảy, nôn, bụng trướng
căng); gan, lách to. Trong trường hợp nặng, bệnh nhi có thể bị suy thận cấp và
tiểu ít.
Nếu chỉ có một trong các dấu hiệu trên thì có thể do một nguyên nhân khác chứ
không phải nhiễm trùng máu, nhưng nếu có nhiều dấu hiệu trên cùng lúc thì
thường là nhiễm trùng máu.
Tùy loại vi khuẩn xâm nhập vào máu mà trẻ có các biểu hiện lâm sàng sớm hoặc
muộn khác nhau, tiên lượng bệnh và thời gian sử dụng kháng sinh cũng khác nhau.
Chẳng hạn, nếu máu nhiễm liên cầu nhóm B thì triệu chứng xuất hiện sau khi sinh
3-4 giờ, nếu muộn cũng chỉ 1-2 tuần với những biểu hiện của bệnh viêm phổi,
viêm màng mão mủ (ngừng thở, huyết áp hạ...). Nếu bệnh do tụ cầu (ít gặp hơn)
thì thường nặng và có biểu hiện ở xương và da (viêm da nhiễm trùng).
Để việc điều trị đạt kết quả cao, nhất thiết phải làm kháng sinh đồ để tìm loại
thuốc đặc trị với loại vi trùng gây bệnh. Trường hợp nhiễm trùng máu có kèm
theo viêm màng não mủ thì thời gian dùng kháng sinh đặc trị phải kéo dài ít
nhất 3 tuần. Ngoài ra, phải điều trị tích cực các triệu chứng đi kèm như tình
trạng mất nước, co giật do trẻ nôn nhiều.
Nhiễm trùng máu ở trẻ liên quan nhiều đến bà mẹ trong thời kỳ mang thai, điều
kiện và môi trường nuôi dưỡng trẻ, thời gian chuyển dạ, thời gian vỡ ối, tình
trạng can thiệp trong lúc sinh... Vì vậy, mỗi bà mẹ cần nâng cao kiến thức về
chăm sóc thai nghén, khám thai định kỳ; nếu có viêm nhiễm âm đạo (hoặc bệnh lây
qua đường tình dục...) thì phải được chữa trị triệt để. Khi đẻ, phải đến cơ sở
y tế để được nữ hộ sinh theo dõi và đỡ. Dụng cụ đỡ phải tiệt trùng, bàn tay
người đỡ phải được rửa sạch bằng nước chín, đi găng vô trùng. Nếu thai phụ vỡ
ối sớm, phải dùng ngay kháng sinh để phòng nhiễm khuẩn.
Khi chăm sóc trẻ, phải rửa tay thật sạch bằng xà phòng diệt khuẩn để tránh làm
lây lan và tái nhiễm cho trẻ; dùng tã lót, áo mũ sạch sẽ vô trùng. Đặc biệt khi
thấy trẻ có triệu chứng nêu trên, cần đưa đến bệnh viện ngay.
(ST)