Cách chữa bệnh quai bị nhanh nhất vô cùng đơn giản
Cách điều trị bệnh quai bị ở người lớn nhanh khỏi
Cách chữa bệnh quai bị hiệu quả
Nguyên nhân của bệnh quai bị và cách điều trị tránh tối đa di chứng
Bệnh quai bị thường xuất hiện nhiều vào mùa xuân, hè. Đây là một bệnh nhẹ nhưng có thể gây những biến chứng nguy hiểm như viêm não, viêm màng não, đặc biệt là vô sinh. Hiện chưa có thuốc đặc trị. Bệnh có thể gặp ở tất cả mọi người nhưng thường gặp nhất ở trẻ em (trên 2 tuổi). Quai bị do virus gây nên và rất dễ lây qua tiếp xúc trực tiếp với nước bọt bệnh nhân. Thời gian ủ bệnh là 17-28 ngày.
Phần lớn bệnh nhân thấy khó chịu 1-2 ngày trước khi các triệu chứng xuất hiện.Bệnh nhân bị sốt cao (39-40 độ C) trong 3-4 ngày, chảy nước bọt và má sưng to (có thể sưng một bên mặt rồi lan sang bên kia hoặc sưng hai bên cùng một lúc), gây đau khi nuốt nước bọt. Sau đó, trẻ bị khô miệng vì các tuyến nước bọt đã ngừng hoạt động. Bệnh thường tự khỏi sau 1 tuần đến 10 ngày. Sau đó, bệnh nhân được miễn dịch suốt đời.
Nếu không giữ gìn tốt, bệnh có thể gây một số biến chứng nguy hiểm:
- Sưng tinh hoàn và buồng trứng, có thể dẫn đến vô sinh (dù là rất hiếm). Dấu hiệu chủ yếu là tinh hoàn sưng to, đau; nữ thấy tức bụng và đau khi sờ nắn.
- Viêm não hoặc viêm màng não: Thường xuất hiện sau 7-10 ngày với triệu chứng nhức đầu nghiêm trọng và cứng cổ.
Bệnh quai bị chủ yếu được điều trị tại nhà
Khi trẻ có các dấu hiệu quai bị, cha mẹ cần đưa trẻ đi khám để chẩn đoán xác định. Nếu đúng là quai bị, bác sĩ sẽ hướng dẫn cha mẹ cách chăm sóc trẻ ở nhà:
- Hạ nhiệt bằng cách lau mình trẻ bằng nước ấm (không được lau bằng nước lạnh). Có thể cho dùng Paracetamol để hạ sốt và giảm đau.
- Cho uống nhiều nước và súc miệng bằng nước muối sinh lý hay nước súc miệng có bán tại các hiệu thuốc nhằm chống khô miệng.
- Cho trẻ ăn loãng hoặc ăn bằng ống hút (nếu trẻ nuốt khó).
- Cho trẻ nằm trên giường với một chai nước nóng bọc trong khăn để áp vào bên má đau.
- Không được cho trẻ nô đùa chạy nhảy vì những hoạt động này rất dễ dẫn đến biến chứng ở tinh hoàn.
- Cần đưa trẻ tới bệnh viện ngay khi có các biểu hiện biến chứng.
Phòng tránh
- Cách ly bệnh nhân cho đến khi khỏi hẳn.
- Tiêm vacxin cho trẻ trên 2 tuổi: Chỉ cần tiêm một mũi duy nhất. Nếu trẻ mới tiêm phòng sởi thì phải đợi một tháng sau mới được tiêm phòng quai bị vì vacxin phòng quai bị đang được sử là vacxin phòng 3 bệnh (sởi, quai bị, rubeole).
Bệnh quai bị có thể được đề phòng dễ dàng bằng cách tiêm phòng (chủng ngừa). Nên đến Trung tâm y tế quận, huyện hoặc Viện Pasteur TP HCM (Tại TP.Hồ Chí Minh) và Trung tâm Y tế Dự phòng H�� Nội (50C Hàng Bài) đang sử dụng vacxin của Mỹ, giá 105.000 đồng/liều.
Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi tới chuyên mục của chúng tôi!
Bs.Thuocbietduoc
(Lưu ý: Chữa bệnh theo chỉ định của Bác sĩ)
Cách phòng và chữa bệnh cho trẻ
Quai bị là một bệnh nhẹ nhưng các bậc phụ huynh chớ vì thế mà coi thường.
Với những trường hợp đặc biệt, bệnh có thể để lại những biến chứng nguy hiểm
như viêm não, viêm màng não, đặc biệt là vô sinh nếu không được chữa trị kịp thời.
Hiện nay, quai bị chưa có một loại thuốc điều trị đặc hiệu nên ngoài việc đưa
ngay trẻ đến cơ quan y tế để kiểm tra, cha mẹ hãy lưu ý:
Trẻ mắc bệnh, dù nặng hay nhẹ cũng đều là những nguy cơ ảnh hưởng không tốt tới sức khỏe và sự phát triển của trẻ. Cha mẹ cần lưu ý bảo vệ trẻ hơn khi thời tiết chuyển mùa
PHÒNG NGỪA VÀ ĐIỀU TRỊ BỆNH QUAI BỊBệnh quai bị đã được Hippocrates mô tả vào thế kỷ thứ
V trước công nguyên. Quai bị là một bệnh nhiễm cấp tính do
Paramyxovirus gây nên, làm viêm các tuyến nước bọt mang tai. Bệnh có
trên toàn thế giới và chỉ xuất hiện ở người.
Bệnh thường phát vào
mùa xuân, nhất là trong khoảng thời gian tháng 4 và tháng 5, trong các
môi trường tập thể như trường học, nhà trẻ, trại lính.
Lứa tuổi và giới dễ bị bệnh quai bị
Tuổi nào cũng có thể bị bệnh quai bị, khả năng mắc bệnh ở nam cao hơn nữ. Tuy nhiên ít gặp quai bị ở trẻ dưới 2 tuổi mặc dù trẻ chỉ được bảo vệ trong 6 tháng đầu nếu mẹ đã từng mắc bệnh quai bị. Sau 2 tuổi, tần suất bệnh tăng dần, đạt đỉnh cao ở lứa tuổi 10-19. Quai bị gây miễn dịch bền vững dù sưng 1 hay 2 bên tuyến mang tai nên ít khi bị quai bị lần 2.
Sự lây truyền bệnh quai bị
Quai bị lây theo đường hô hấp qua những giọt nước bọt khi bệnh nhân nói, ho, hắt hơi. Thời gian lây là tư? 6 ngày trước cơn toàn phát sưng tuyến mang tai cho đến 2 tuần sau khi có triệu chứng bệnh lý. Vấn đề lây qua đường phân và nước tiểu hiện vẫn chưa được xác nhận dù virus quai bị có khả năng tồn tại trong nước tiểu khoảng 2-3 tuần.
Biểu hiện của bệnh quai bị
Sau khi tiếp xúc với virus quai bị khoảng 14-24 ngày,
người bệnh có cảm giác khó chịu, ăn kém, sốt, đôi khi rét, đau họng và
đau góc hàm. Sau đó, tuyến mang tai sưng to dần trong khoảng 3 ngày rồi
giảm sưng dần trong khoảng 1 tuần. Tuyến mang tai có thể sưng 1 bên hay 2
bên. Nếu sưng cả 2 bên thì 2 tuyến có thể không sưng cùng lúc, tuyến 2
bắt đầu sưng khi tuyến 1 đã giảm sưng. Vùng sưng thường lan đến má, dưới
hàm, đẩy tai lên trên và ra ngoài; có khi lan đến ngực gây phù trước
xương ức. Bệnh nhân có cảm giác đau ở vùng tuyến bị sưng nhưng da trên
vùng sưng không nóng và không sung huyết, ngược với những trường hợp
viêm tuyến mang tai do vi trùng. Lỗ ống Stenon ở niêm mạc má 2 bên sưng
đỏ, có khi có giả mạc. Bệnh nhân có cảm giác khó nói, khó nuốt, đôi khi
phù thanh môn gây khó thở phải mở khí quản. Thời gian biểu hiện bệnh lý
khoảng 10 ngày.
Tuy nhiên có khoảng 25% người bị nhiễm virus quai bị
mà không có triệu chứng bệnh lý, đây là những đối tượng có khả năng
truyền bệnh mà người xung quanh không nhận biết.
Bệnh quai bị ở người lớn thường nặng và có nhiều biến chứng hơn ở trẻ em. Có thể có các biến chứng sau:
1. Viêm tinh hoàn và mào tinh hoàn:
Có
tỷ lệ 20-35% ở người sau tuổi dậy thì. Biến chứng này thường xảy ra sau
đợt viêm tuyến mang tai khoảng 7-10 ngày nhưng cũng có thể xuất hiện
trước hoặc đồng thời. Tinh hoàn sưng to, đau, mào tinh căng phù như một
sợi dây thừng. Tình trạng viêm và sốt kéo dài 3-7 ngày, sau đó khoảng
1/2 trường hợp tinh hoàn teo dần và có thể dẫn đến tình trạng giảm số
lượng tinh trùng và vô sinh.
2. Nhồi máu phổi:
Là tình trạng có
vùng phổi bị thiếu máu nuôi dưỡng, có thể tiến đến hoại tử mô phổi. Nhồi
máu phổi là biến chứng có thể xảy ra sau viêm tinh hoàn do quai bị vì
hậu quả của huyết khối từ tĩnh mạch tiền liệt tuyến.
3. Viêm buồng trứng:
Có tỷ lệ 7% ở nữ sau tuổi dậy thì, ít khi dẫn đến vô sinh.
4. Viêm tụy:
Có tỷ lệ 3%-7%, là một biểu hiện nặng của quai bị. Bệnh nhân bị đau bụng nhiều, ói, có khi tụt huyết áp.
5. Các tổn thương thần kinh:
-
Viêm não: Có tỷ lệ 0,5%. Bệnh nhân có các hiện tượng như: thay đổi tính
tình, bứt rứt, khó chịu, nhức đầu, co giật, rối loạn tri giác, rối loạn
thị giác, đầu to do não úng thủy.
- Tổn thương thần kinh sọ não: Dẫn đến điếc, mù.
- Viêm tủy sống cắt ngang.
- Viêm đa rễ thần kinh.
6. Bệnh quai bị ở phụ nữ có thai:
- Những phụ nữ bị quai bị trong 3 tháng đầu của thai kỳ có thể gây sẩy thai hoặc sinh con dị dạng.
- Bị quai bị trong 3 tháng cuối của thai kỳ có thể sinh non hoặc thai chết lưu.
7. Một số biến chứng khác:
Viêm
cơ tim, viêm tuyến giáp, viêm tuyến lệ, viêm thần kinh thị giác (gây
giảm thị lực tạm thời trong 10-20 ngày), viêm thanh khí phế quản, viêm
phổi, rối loạn chức năng gan, xuất huyết do giảm tiểu cầu.
Vì viêm
tuyến mang tai còn có thể gây ra do các virus khác (Coxackie,
Influenza), do vi trùng (Staphylococcus aureus), do tắc ống dẫn tuyến vì
sỏi; và viêm tinh hoàn còn có thể do lao, Leptospirose, lậu nên trong
một số trường hợp khó chẩn đoán, bệnh nhân cần thực hiện một số xét
nghiệm như:
- Phân lập virus từ máu dịch họng, dịch tiết từ ống Stenon, nước tiểu hay dịch não tủy.
- Các phản ứng huyết thanh học: Test ELISA, miễn dịch huỳnh quang, trung hòa bổ thể.
Ðiều trị
- Cho mọi bệnh nhân:
Cách ly bệnh nhân 2 tuần kể từ lúc
phát hiện bệnh, vệ sinh răng miệng, ăn những thực phẩm dễ nuốt, giảm đau
tại chỗ bằng cách đắp ấm vùng sưng, giảm đau toàn thân và hạ sốt bằng
Paracetamol.
- Trường hợp viêm tinh hoàn:
a. Mặc quần lót nâng tinh hoàn để giảm đau.
b. Dùng corticoid đúng liều, quan trọng nhất là dùng liều lớn khi khởi đầu (60mg Prednisolon), sau đó giảm dần trong 7-10 ngày.
c. Phẫu thuật giải áp khi tinh hoàn bị chèn ép nhiều.
Phòng bệnh
Phòng bệnh quai bị chủ động với vaccin, thường kết
hợp với phòng sởi và rubella (Trimovax, MMR). Không nên tiêm vaccin cho
trẻ dưới 1 tuổi (tuy nhiên nếu trẻ sống trong môi trường tập thể, có thể
tiêm ngừa từ 9 tháng tuổi), phụ nữ có thai, người bị dị ứng với thuốc
chủng, người đang dùng thuốc gây giảm miễn dịch (corticoid, thuốc điều
trị ung thư), người đang điều trị với tia phóng xạ.
Số lần tiêm:
- Nếu bắt đầu tiêm từ 12 tháng tuổi: tiêm 2 lần, lần 1 lúc 12 tháng tuổi, lần 2 từ 4-12 tuổi.
- Nếu bắt đầu tiêm từ 9 tháng tuổi: tiêm 3 lần, lần 1 lúc 9 tháng tuổi, lần 2 sau lần 1 sáu tháng, lần 3 từ 4-12 tuổi.
Phòng
bệnh quai bị thụ động với globulin miễn dịch, dùng cho người tiếp xúc
với virus quai bị mà chưa được tiêm vaccin trước đó.
TS. BS. Nguyễn Thị Ngọc Nga
( SK&ÐS)
Phân biệt bệnh quai bị và viêm tuyến nước bọt
Cùng với sự gia tăng các bệnh đường hô hấp, tiêu chảy ở trẻ em trong mùa nắng nóng, bệnh quai bị cũng đã bắt đầu xuất hiện. Mặc dù là bệnh không nguy hiểm đến tính mạng nhưng dễ để lại di chứng nặng nề như vô sinh. Ngoài ra, bệnh cũng dễ nhầm với một số bệnh lý khác tại tuyến nước bọt. Bạn đọc cần có kiến thức về hai loại bệnh này.
Quai bị và viêm tuyến nước bọt là 2 bệnh có triệu chứng biểu hiện ở tuyến nước bọt, hay gặp nhất là ở tuyến nước bọt mang tai. Do 2 bệnh có triệu chứng ở tuyến nước bọt mang tai gần giống nhau, nhưng hậu quả của 2 bệnh gây ra rất khác nhau: bệnh quai bị có thể gây vô sinh, viêm tuyến nước bọt đơn thuần có thể gây biến dạng khuôn mặt. Vì vậy cần phân biệt rõ bệnh quai bị và viêm tuyến nước bọt đơn thuần để có hướng xử trí đúng.
Tuyến nước bọt.
|
Bệnh quai bị do virut quai bị thuộc nhóm Paramyxo virut gây nên. Bệnh lây truyền theo đường hô hấp, qua các bụi nước của hơi thở, truyền trực tiếp từ người bệnh sang người lành. Bệnh phổ biến ở nhiều nơi, có khi bùng lên thành dịch ở những nơi tập trung đông người (nhà trẻ, trường học).
Biểu hiện khi bị quai bị: Bệnh nhân sốt 38 -39oC, đau đầu, chán ăn, khó nuốt, khó nói, đau nhức các khớp xương, thăm khám thấy miệng ống Stenon phù nề, tấy đỏ nhưng không bao giờ có mủ chảy ra. Vùng tuyến nước bọt mang tai sưng to, lan ra vùng trước tai, mỏm chũm, lan xuống dưới hàm. Da vùng sưng có màu sắc bình thường, không nóng đỏ và có tính đàn hồi. Thường sưng cả 2 bên tuyến nước bọt mang tai, có khi chỉ sưng 1 bên, sưng 2 bên so với sưng 1 bên là tỷ lệ 6/1. Song song với các tổn thương ở tuyến nước bọt, virut quai bị còn làm tổn thương ở ngoài tuyến nước bọt gây viêm tinh hoàn, viêm màng não, viêm não, viêm tụy cấp, viêm thanh khí phế quản, viêm phổi kẽ, viêm đa khớp hoặc biểu hiện ở các cơ quan khác như tuyến lệ, tuyến ức, tuyến giáp, tuyến vú, buồng trứng. Các tổn thương này thường có các triệu chứng không điển hình, diễn biến lành tính.
Bệnh quai bị có thể để lại biến chứng gì?
- Viêm tinh hoàn: Thường gặp ở tuổi dậy thì, hiếm gặp ở trẻ em dưới 2 tuổi và người lớn trên 40 tuổi, xuất hiện sau khi sưng tuyến mang tai 1 - 2 tuần. Bệnh nhân đau tinh hoàn sắp sưng, sau đó tinh hoàn sưng to gấp 3 - 4 lần bình thường. Thường thì sưng 1 bên, cũng có thể sưng 2 bên, sau 2 tuần mới hết sưng. Sau 2 tháng mới đánh giá được tinh hoàn có teo hay không. Tỷ lệ teo tinh hoàn do quai bị là 30 - 40%. Nếu bị teo tinh hoàn 2 bên thì khả năng vô sinh rất cao.
- Viêm buồng trứng: Chiếm 7% các trường hợp mắc bệnh ở tuổi sau dậy thì (hiếm khi vô sinh). Nếu nhiễm bệnh ở phụ nữ có thai 3 tháng đầu có khả năng gây dị dạng thai, sảy thai. Nhiễm bệnh vào 3 tháng cuối có thể tăng nguy cơ thai chết lưu hoặc đẻ non.
Điều trị quai bị như thế nào?
- Điều trị: Bệnh quai bị đến nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, dùng kháng sinh không có tác dụng mà chỉ điều trị theo triệu chứng. Chườm nóng, dùng thuốc an thần, giảm đau, vitamin, có thể dùng chống viêm corticoid, súc miệng nước muối thường xuyên sau khi ăn. Những ngày đầu nên ăn nhẹ, ăn lỏng.
Có thể kết hợp dùng các bài thuốc Đông y: Dùng hạt gấc mài ngâm rượu rồi xoa vào chỗ sưng, hay dùng hạt đậu xanh tán nhỏ trộn với dấm rồi đắp lên chỗ sưng.
Cách ly bệnh nhân tối thiểu 2 tuần. Bệnh nhân nên nghỉ ngơi, nằm yên, hạn chế đi lại, nhất là đối với thanh niên hay đang trong thời gian sốt và sưng tuyến nước bọt (4 - 6 ngày đầu).
- Phòng bệnh tốt nhất là tiêm vaccin: Tạo miễn dịch chủ động: tiêm vaccin virut sống giảm độc lực an toàn, tạo kháng thể, cho miễn dịch ít nhất 17 năm. Đối tượng tiêm là trẻ em trên 1 tuổi, đặc biệt ở tuổi dậy thì, trưởng thành, thanh thiếu niên sống trong tập thể. Tái tiêm chủng ở người đã tiêm vaccin quai bị dùng virut chết.
Tạo miễn dịch thụ động: Dự phòng đặc hiệu bằng gamaglobulin miễn dịch chống quai bị, dùng sớm cho phụ nữ có thai và cho người cần phải tiếp xúc với bệnh nhân quai bị.
Viêm tuyến nước bọt đơn thuần
Bệnh viêm tuyến nước bọt mang tai đơn thuần do các loại vi khuẩn Staphylococcus aureus, do virus Iryfluenza, Parainfluenza, coxsackie... gây nên hoặc do sỏi làm tắc ống dẫn tuyến nước bọt cũng gây viêm. Bệnh thường chỉ tổn thương tại tuyến nước bọt, diễn biến lành tính, tự khỏi hoặc cũng có trường hợp chuyển sang viêm mạn tính phì đại tuyến.
Biểu hiện: Bệnh nhân thấy vùng tuyến nước bọt mang tai sưng to, sưng lan rộng ra xung quanh tuyến, da vùng tuyến sưng tấy đỏ đau, nói và nuốt đau, có hạch viêm phản ứng ở góc hàm hoặc sau tai cùng bên. Sốt 38 - 39oC, ấn vùng tuyến mang tai thấy có mủ chảy ra ở miệng ống Stenon.
Đối với bệnh nhân bị bệnh viêm tuyến nước bọt đơn thuần thường không thấy có tổn thương ngoài tuyến nước bọt. Bệnh có tính chất đơn lẻ, cơ hội, thường xuất hiện khi có viêm nhiễm khác ở vùng miệng và mũi họng, không lây thành dịch.
- Điều trị viêm tuyến nước bọt: Dùng kháng sinh, chống viêm, giảm phù nề, giảm đau. Khi tiêm trực tiếp kháng sinh và corticoid vào tuyến nước bọt, qua đường ống Stenon thấy kết quả tốt, vùng tuyến giảm sưng nhanh, ít tái phát, nếu viêm tuyến lần đầu theo dõi thấy không tái phát. Nếu để muộn, điều trị không kịp thời sau 7 - 10 ngày, bệnh giảm các triệu chứng và chuyển sang viêm mạn tính tái phát sau 1 vài tháng 1 lần viêm lại. Ở những bệnh nhân viêm tuyến tái phát nhiều lần làm vùng tuyến mang tai 2 bên phì đại (to hơn bình thường) không nhỏ lại được, vì thế làm biến dạng khuôn mặt bệnh nhân.
BSCKI. Hồ Thị Thương Hương (Khoa RHM - Bệnh viện Hòe Nhai)
(ST)