1. Khái niệm : Đây là những tổn thương của giác mạc do nhiều nguyên
nhân gây ra. Có thể chia ra làm hai nhóm chính: viêm loét giác mạc (viêm
nông) và viêm giác mạc nhu mô (viêm giác mạc sâu)
2. Nguyên nhân:
a - Chấn thương: Rách, xước giác mạc, dị vật tác động. Trong
chiến tranh tác nhân có thể là những mảnh nhỏ, chất độc hoá học...Trong
thời bình: phoi tiện, bụi đá mài, hạt thóc, cọng rơm, bỏng hoá chất...
Chấn thương mở đường cho vi sinh vật xâm nhập vào tổ chức giác mạc, gây
tổn thương hoại tử tổ chức. Có thể kể vào đây cả yếu tố sang chấn giác
mạc do lông xiêu, lông quặm, sạn vôi...
b - Vi khuẩn: Gặp nhiều nhất, đôi khi gây ra loét mà không rõ
tiền sử sang chấn trước đó. Các loại vi khuẩn hay được nhắc tới là: tụ
cầu (vì sự phổ biến của nó), trực khuẩn mủ xanh, cầu khuẩn lậu (do tính
chất nguy hiểm của hai loại vi khuẩn này )
c - Virus và các nguyên nhân khác: Virus adeno ban đầu gây viêm
kết mạc cấp, nếu sau 7-10 ngày chưa khỏi thì dễ gây tổn thương giác mạc
(viêm giác mạc chấm nông). Virus herpes gây viêm giác mạc là mặt bệnh
rất khó điều trị. Viêm loét giác mạc do nấm ít gặp nhưng cũng là mặt
bệnh mà việc điều trị còn khó khăn và dễ gây biến chứng nguy hiểm.
Còn có thể gặp viêm giác mạc do hở mi, do sẹo, do liệt thần
kinh, do miễn dịch dị ứng, rối loạn chuyển hoá, viêm loét giác mạc do
suy dinh dưỡng khô mắt (trẻ em nhà nghèo, bệnh nhân suy kiệt, bộ đội
đóng quân ở nơi điều kiện sống thiếu thốn và gian khổ). Thiểu tiết nước
mắt cũng là nguyên nhân gây viêm khô giác mạc hoặc viêm giác mạc sợi.
3. Triệu chứng:
2.3.1. Cơ năng :
* Đau rức: Bệnh nhân nhức nhối âm ỉ, từng lúc dội lên, bất cứ một tác động nào cũng làm tăng cảm giác đau (ánh sáng, va chạm)
* Chói, sợ ánh sáng: Bệnh nhân luôn nhắm nghiền mắt. Các bệnh nhi thì luôn chúi đầu vào lòng mẹ, không dám mở mắt.
* Chảy nước mắt: Nếu bệnh nhân tự mở mắt, nước mắt chảy ràn rụa. Nếu thày thuốc vành mi, có thể toé nước mắt ra.
* Thị lực: Tuỳ theo mức độ nặng nhẹ và vị trí ổ loét giác mạc ,
có khi chỉ còn biết sáng tối (ST(+)). Thị lực giảm nhiều so với trước
khi đau là một triệu chứng để chẩn đoán phân biệt với viêm kết mạc
2.3.2. Thực thể:
* Mi: Co quắp rất khó mở, mắt sưng nề mọng.
* Kết mạc: Cương tụ rìa đậm, nề phù làm phồng mọng kết mạc. Cá
biệt có trường hợp kết mạc phồng mọng lên che kín giác mạc đến nỗi nhầm
tưởng đã khoét bỏ nhãn cầu.
* Giác mạc: Ổ loét bắt màu thuốc nhuộm (fluorescein, bleu
methylen, mercurochrom ...) hình dạng, kích thước có thể từ những chấm
li ti, nông trong viêm giác mạc chấm nông cho đến ổ lớn gần hết diện
giác mạc. Bề mặt ổ loét là chất hoại tử, xung quanh đó là vùng thẩm lậu
tế bào viêm và ngấm nước tạo hình ảnh mờ đục. Ổ loét có những đặc điểm
riêng tuỳ tác nhân, ví dụ ổ loét do trực khuẩn mủ xanh ban đầu có hình
móng ngựa, tiến triển rất nhanh ra diện rộng gây nhũn giác mạc, thủng
mắt. Loét do nấm thường tạo thành đảo ở giữa ổ loét. Ổ loét do vi rút
herpes hay có hình cành cây, hình bản đồ. Loét giác mạc do dị ứng có ổ
loét tròn, nhỏ và ở vùng chu biên giác mạc. Viêm giác mạc sợi có ổ loét
nhỏ bắt màu thuốc nhuộm và bên cạnh đó là một sợi tổ chức hoại tử có
một đầu tự do, đầu kia còn bám vào giác mạc ...
Viêm giác mạc sâu (viêm nhu mô) có vùng tổn thương nằm trong
nhu mô, đó là những vết đục trắng có thể phân bố rải rác (viêm giác mạc
đốm dưới biểu mô do virus) hoặc thành đám rộng (viêm giác mạc hình đĩa
do zona, do herpes). Một đặc điểm của những tổn thương loại này là giác
mạc không bắt màu thuốc nhuộm. Cắt đèn khe thấy giác mạc dày lên rất
nhiều về phía sau ở vùng viêm hình đĩa với những nếp gấp của màng
Descemet và nhiều chấm tủa ở mặt sau giác mạc.
* Tiền phòng : Có thể có mủ tạo thành ngấn ngang phía dưới thấp. Hay gặp trong viêm loét giác mạc do nấm, do vi khuẩn.
* Mống mắt - thể mi: Có thể bị viêm phản ứng gây giảm phản xạ ánh sáng, co đồng tử .
2.3.4. Tiến triển :
a - Khỏi thành sẹo: Do sức chống đỡ của bản thân bệnh nhân và do điều trị tốt, nếu tổn thương viêm loét sâu thì sẹo dày, ảnh hưởng tới thị lực.
b - Loét sâu hoại tử rộng đến hết lớp nhu mô, phồng màng Descemet, doạ thủng hoặc thủng dẫn đến viêm mủ nội nhãn ngược dòng .
c - Viêm mủ nội nhãn: Có khi chưa thủng ổ loét nhưng đã gây
viêm mủ nội nhãn, tiên lượng của những mắt này là rất xấu, nhiều khả
năng phải bỏ mắt sau khi đã dùng cả kháng sinh tiêm vào buồng dịch kính .
3.5. Điều trị:
* Lý tưởng nhất là điều trị theo nguyên nhân :
- Viêm loét giác mạc do vi khuẩn: Điều trị bằng kháng sinh theo
kháng sinh đồ, nên phối hợp 2-3 loại kháng sinh, đường dùng toàn thân
và tại chỗ .
- Virus: Có những loại thuốc chống tất cả các virus nói chung như
Idoxuridine (dung dịch 0,1%, mỡ 0,5%), Vira - A (mỡ 3%), Trifluridine
(Viroptic - dung dịch 1%) ... Riêng với virus herpes , thuốc thường dùng
là Acyclovir (zovirax ) 200 mg x 4 - 5 lần uống/ngày cách quãng đều
nhau trong 24h kết hợp tra mắt mỡ Zovirax 3% cũng với nhịp độ như đường
uống.
- Nấm: Ở nước ta, loét giác mạc hay gặp do 2 loại nấm Aspergilus
fumigatus và Cephalosporium falciformits. Bệnh cảnh loét giác mạc do
Cephalosporium cấp diễn gần như loét do trực khuẩn mủ xanh vì chủng nấm
này có tiết men chollagenase gây hoại tử giác mạc nhanh chóng.
Kháng sinh chống nấm thường dùng hiện nay là Sporan
(Itraconazole) 100 mg x 2 viên/ngày uống 1 lần x 21 ngày kết hợp tra mắt
dung dịch Natamycin (Natacyn) 5% cách 1h một lần . Các kháng sinh chống
nấm khác có thể kể tới như Nizoran, Amphotericin B, Nystatin ... nhưng
tác dụng kém nhiều so với Sporan .
Phối hợp với kháng sinh chống nấm , cần dùng thêm :
* Dung dịch IK 5% uống liều 2g/ngày tăng từng bậc 0,5g cho tới liều
5g/ngày trong vòng 2-5 tuần. Dung dịch IK hơi khó uống vì vậy nên chia
ra nhiều lần trong ngày và uống vào lúc no. IK còn dùng dưới dạng dung
dịch 1-2% để tra mắt hoặc điện di .
* Dung dịch Lugol 5% dùng để chấm ổ loét hàng ngày. Lưu ý khi trước khi
chấm Lugol cần thấm thật khô nước mắt để tránh lan thuốc ra vùng giác
mạc lành .
- Miễn dịch dị ứng:
Khi chưa biết rõ nguyên nhân cần dùng kháng sinh toàn thân và tại chỗ:
Đường toàn thân: Tiêm hoặc uống.
Tại chỗ: Tiêm dưới kết mạc 100.000-200.000 đv Penicilin hoặc1/10g
Steptomycin hoặc 40mg Gentamycin (1ml dung dịch) x 1lần/ngày hay cách
ngày. Kết hợp tra mắt càng nhiều lần càng tốt các dung dịch kháng sinh,
sát trùng. Thuốc mỡ tra mắt vào buổi tối trước khi đi ngủ.
Thuốc nam : Lá rấp cá giã nhỏ đắp lên mắt qua một miếng gạc
trong tư thế bệnh nhân nằm ngửa, mắt khi đó như được ngâm trong nước ép
của lá rấp cá - một vị thuốc dân gian đã được chứng minh là có tác dụng
kháng khuẩn tương đối tốt .
* Chống hoại tử : Dùng 0,5 ml huyết thanh tự thân hoặc máu
tự thân pha lẫn dung dịch kháng sinh tiêm dưới kết mạc hàng ngày hoặc
cách ngày. - macroglobulin ở trong huyết thanh có tác dụng ức chế hoạt
động của men chollagenase. Cũng với mục đích này người ta còn dùng dung
dịch EDTA 3% (etyl-diamin-tetra acetat) hoặc Acetylcysteine 10 – 20 %
tra mắt, uống hoặc tiêm vitamin C liều cao 1g/ngày...
* Chống dính và giảm đau : Atropin 1% tra mắt 1lần / ngày.
Uống các thuốc chống nề phù như Danzen, Amitase,
Alphachymotripsine...và các thuốc giảm đau thông thường khác .
* Tăng cường dinh dưỡng : Uống các loại vitamin A, B2, C...Tra dầu A,
dung dịch CB2, băng che, đeo kính mát để giảm kích thích cho mắt.
* Loại trừ các yếu tố sang chấn: Mổ quặm, lông siêu, lấy
sạn vôi ... Tạo hình điều trị hở mi, nhiều trường hợp mi hở mà chưa tạo
hình được cần phải khâu cò mi...
* Xử trí các biến chứng:
- Phồng màng Descemet: Khâu cò hoặc khâu phủ kết mạc.
- Thủng giác mạc: Tốt nhất là ghép giác mạc nóng. Nếu không có điều kiện
ghép giác mạc thì tiến hành khâu cò hoặc khâu phủ kết mạc tạm thời.
Ghép giác mạc còn được chỉ định khi các biện pháp điều trị bằng thuốc
không có kết quả .
- Mủ nội nhãn, thị lực ST (-): Buộc phải chỉ định múc nội nhãn sau khi
đã dùng kháng sinh tích cực, nhiều đường, kể cả đường tiêm vào buồng
dịch kính .
Loét giác mạc là một bệnh nặng, điều trị khó
khăn và thường để lại di chứng là sẹo đục giác mạc gây giảm thị lực. Cần
phải đặc biệt lưu ý nhấn mạnh vấn đề phòng bệnh và phát hiện bệnh sớm
để điều trị kịp thời. Đối với các thày thuốc, có một điều cần nhớ là
việc lạm dụng các chế phẩm chứa corticosteroid tra mắt (Polydexa,
Dexachlor, Maxitrol,Tobradex...) hoặc dùng kéo dài những thuốc loại này
sẽ gây giảm khả năng đề kháng của mắt đưa tới nguy cơ viêm loét giác mạc
do nấm, do herpes. Chỉ định dùng những loại thuốc này phải thật chặt
chẽ và thận trọng .
Viêm giác mạc: Điều trị sớm tránh mù lòa
Khi giác mạc bị viêm loét sẽ dẫn đến
các di chứng và biến chứng như sẹo giác mạc, teo nhãn, lồi mắt cua và
làm giảm thị lực, thậm chí mù loà.
Giác mạc là một mảnh mô mỏng,
trong suốt nằm phía trước con ngươi mắt, có nhiệm vụ bảo vệ mắt và góp
phần vào hoạt động khúc xạ của mắt. Vì là một lớp rất mỏng, lại là bộ
phận đầu tiên của mắt tiếp xúc trực tiếp với môi trường bên ngoài nên
giác mạc rất dễ bị tổn thương, tạo điều kiện cho vi khuẩn, virut hoặc
nấm xâm nhập.
Khi giác mạc bị viêm loét sẽ dẫn đến các
di chứng và biến chứng như sẹo giác mạc, teo nhãn, lồi mắt cua và làm
giảm thị lực, thậm chí mù loà. Đây là loại bệnh có nguy cơ gây mù khá
cao, chỉ sau bệnh đục thủy tinh thể và glôcôm.
Tại sao giác mạc bị viêm?
Nguyên nhân gây viêm loét giác mạc thường
do sau một chấn thương trong sinh hoạt, lao động như bị bụi, côn trùng,
mảnh kính vỡ nhỏ bắn vào mắt;... hạt thóc, lá lúa, cọng rơm, bụi đá
mài, cành cây quệt vào mắt,...
Sau các bệnh lý như: viêm kết mạc, hở mi,
do liệt thần kinh, rối loạn chuyển hoá, viêm loét giác mạc do thiếu
vitamin A (thường gặp ở trẻ suy dinh dưỡng); Hoặc do dùng kính sát tròng
không đúng cách, tự ý dùng thuốc nhỏ mắt kéo dài mà không có chỉ định
của bác sĩ chuyên khoa...
Biểu hiện nhận biết
Người bệnh bị viêm loét giác mạc sẽ có các biểu hiện sau:
- Đau nhức mắt: Mắt đau nhức nhối âm ỉ,
từng lúc dội lên, bất cứ một tác động nào cũng làm tăng cảm giác đau
(ánh sáng, va chạm).
- Chảy nước mắt: Khi người bệnh tự mở mắt, hoặc vành vi mắt nước mắt sẽ chảy ràn rụa.
- Chói, sợ ánh sáng: Người bệnh luôn nhắm
nghiền mắt, mi mắt nhắm chặt lại. Trẻ nhỏ thì luôn chúi đầu vào lòng
mẹ, không dám mở mắt.
- Mắt nhìn mờ: Thị lực giảm tuỳ theo mức độ của bệnh
- Mắt đỏ, đặc biệt đỏ nhiều quanh tròng đen. Đôi khi sẽ thấy một ngấn mủ màu trắng ở trước tròng đen.
- Xuất hiện đốm trắng to hay nhỏ ở trên giác mạc, nhưng thường ở trung tâm giác mạc.
Bệnh viêm loét giác mạc nếu tiến triển
nặng, vết loét càng rộng sẽ dẫn đến biến chứng như sẹo giác mạc, teo
nhãn, lồi mắt cua, giảm thị lực thậm chí mù lòa nếu không điều trị kịp
thời hoặc điều trị không đúng cách.
Cần phát hiện và điều trị sớm
Tuy bệnh viêm loét giác mạc sau khi điều
trị khỏi vẫn thường để lại di chứng, đó là các vết sẹo đục, trắng làm
cho giác mạc mất tính trong suốt nhưng việc phát hiện và điều trị sớm sẽ
giúp giảm di chứng, cải thiện tốt thị lực.
Sẹo giác mạc mỏng hay dày, to hay nhỏ phụ
thuộc tình trạng nặng nhẹ của bệnh. Nếu bệnh nhẹ sau khi khỏi sẽ để lại
sẹo mỏng, nông ít ảnh hưởng đến thị lực. Nếu bệnh nặng hơn sẽ để lại
sẹo đục, dày, rộng không những làm thị lực mờ đi mà còn gây ra viêm loét
tái phát, đặc biệt khi cơ thể giảm sức đề kháng.
Người bệnh có các triệu trứng của viêm
loét giác mạc khi đến cơ sở y tế sẽ được các bác sĩ chuyên khoa mắt khám
và làm một số xét nghiệm để tìm nguyên nhân gây bệnh. Tùy theo nguyên
nhân gây bệnh, bác sĩ sẽ có chỉ định điều trị thích hợp.
Phòng viêm loét giác mạc như thế nào?
Theo thống kê của các cơ sở y tế chuyên
khoa mắt các bệnh nhân bị viêm loét giác mạc nguyên nhân thường do chấn
thương trong sinh hoạt và lao động bị bụi, dị vật, côn trùng, cành cây,
hạt lúa... văng vào mắt, người bệnh không biết cách xử trí, dụi mắt liên
tục khiến giác mạc bị tổn thương (trầy xước) tạo điều kiện cho vi
khuẩn, virut hoặc nấm xâm nhập gây viêm loét.
Ngoài ra một số người bệnh bị viêm kết
mạc, đau mắt hột đã tự ý dùng thuốc nhỏ mắt mà không chỉ định của bác sĩ
chuyên khoa hoặc lạm dụng thuốc, đặc biệt là các thuốc nhỏ mắt có chứa
prednisolon, dexamethason hay hydrocortison khiến bệnh ngày càng nặng
gây thủng, hoại tử giác mạc, gần như mù lòa... Do đó cách phòng tránh
các tác nhân gây bệnh và điều trị các bệnh lý về mắt có thể dẫn đến viêm
loét giác là vô cùng quan trọng
Trong sinh hoạt và lao động sản xuất, đặc
biệt là thời điểm ngày mùa như hiện nay, bà con nông dân khi gặt lúa,
sử dụng máy tuốt lúa cần chú ý: Tránh để hạt lúa văng vào mắt hay lá lúa
quệt vào mắt, nên sử dụng kính bảo vệ mắt khi dùng máy tuốt lúa.
Khi ra đường nên đeo kính để tránh bụi,
dị vật, côn trùng bay vào mắt. Nếu chẳng may bị dị vật, côn trùng bay
vào mắt không nên dụi mắt liên tục mà ngay lúc đó cần nhúng mắt trong
một cốc nước sạch và nháy liên tục dị vật nhỏ hoặc côn trùng có thể sẽ
trôi ra.
Nếu cảm thấy vẫn còn dị vật trong mắt,
mắt cộm, ngứa, đỏ, chảy nước mắt, đau nhức cần đến ngay cơ sở y tế
chuyên khoa mắt để các bác sĩ kiểm tra. Tuyệt đối không nên dùng các
loại lá cây, côn trùng đắp vào mắt theo mách bảo sẽ rất nguy hiểm.
Khi được khám xác định là viêm loét giác
mạc người bệnh phải tuyệt đối tuân thủ chỉ định điều trị của bác sĩ và
tái khám theo định kỳ để phòng ngừa bệnh tái phát. Vì thường sau mỗi lần
viêm loét tái phát, sẹo giác mạc sẽ dày hơn và thị lực giảm nhiều hơn
so với lần trước hoặc có thể tiến triển trầm trọng hơn.
Nếu bị các bệnh về mắt như viêm kết mạc
(đau mắt đỏ), lông quặm,... người bệnh cần đi khám để được điều trị đúng
cách, tránh biến chứng dẫn đến viêm loét giác mạc.
(St)