Bệnh đái tháo đường (hay còn gọi là bệnh tiểu đường)
là một bệnh khá nguy hiểm, được xem là “đại dịch” ở các nước đang phát
triển. Việc biết trước các dấu hiệu
nguy hiểm của bệnh sẽ giúp chủ động ngăn ngừa biến chứng.
Biểu hiện lâm sàng của bệnh tiểu đường
1. Những tín hiệu khả nghi của bệnh tiểu đường
Thực
tế cho thấy, có những người mắc bệnh tiểu đường với những triệu chứng
điển hình, rất dễ chuẩn đoán chính xác. Thế nhưng đối với một số bệnh
nhân tương đối đặc thù, vì triệu chứng không đủ điển hình, thường dễ bị
chẩn đoán sai. Trong số họ có người có khả năng trong cơ thể sớm đã
thiếu Insulin, nồng độ đường huyết cao, thế nhưng lại không có triệu
chứng rõ rệt. Có người mạch máu tim, thận tạng đều biến chứng thậm chí
ngay từ đầu đã có biểu hiện " ba nhiều một ít". Vì vậy đối với số bệnh
nhân này cần phải chú ý cao độ. Hễ phát hiện thấy những tín hiệu khả
nghi dưới đây thì cần tiếp tục theo dõi.
- Những người có lịch sử
gia đình mắc bệnh tiểu đường. Vì bệnh tiểu đường là một loại bệnh có
quan hệ tới di truyên, trong gia đình có người mắc bệnh tiểu đường thì
khả năng tính mắc bệnh tiểu đường tương đối lớn, vì vậy hễ có tình huống
này cần phải kiểm tra chẩn đoán chính xác bệnh.
- Những phụ nữ đẻ
con quá to ( có trọng lượng khi sinh vượt quá 4kilogam). Những phụ nữ
bị bệnh tiểu đường mang thai trong tình trạng bệnh tiểu đường không được
khống chế tốt, có thể khiến cho thai nhi có thể trọng vượt quá bình
thường. Nói chung, thai nhi quá to thường chứng tỏ là người mẹ có thể
mắc bệnh tiểu đường, chỉ có điều là không rõ rệt mà thôi.
- Nhiều
lần sảy thai hoặc thai nhi chết trong tử cung mà không rõ nguyên nhân.
Bệnh tiểu đường có thể dẫn tới biến chứng rõ nguyên nhân. Bệnh tiểu
đường có thể dẫn tới biến chứng bệnh lí ở mao mạch, ảnh hưởng tới sụ
trưởng thành phát triển của thai nhi, thường khiến cho san phụ đẻ non
hoặc thai chết.
Những người béo phì và sau khi ăn xong từ hai đến
ba giờ có triệu chứng của bệnh huyết áp thấp như hoảng sợ, hồi hộp, đổ
mồ hôi, ru tau, thiếu sức đói khát v.v.. Phản ứng đường huyết thấp là
biểu hiện thời kỳ đầu của người béo mắc bệnh tiểu đường.
- Những
tín hiệu khác: ngứa ngáy ngoài da, đặc biệt với phụ nữ ngứa ngáy ở ngoài
âm hộ, cũng là một trong những tín hiệu của bệnh tiểu đường. Ngoài ra,
những người mắc phải bệnh mọc mụn, lở loét ngoài da hóa mủ chữa lâu
không khỏi, đặc biệt là nhữn người mọc mụn xuất hiện vào mùa đông càng
cần phải chú ý, bệnh lao phổi tiến triển nhanh, điều trị chống lao hiệu
quả không tốt, ở đầu ngón chân, ngón tay mẩn ngứa hoặc cảm giác quá mẫn
cảm; nước tiểu không trong thậm chí bí đái, viêm mạch quản chi dưới, lở
loét hoặc hoại thủy. Tuổi còn trẻ mà đã bị đục thủy tinh thể, thị lực
suy giảm rõ rệt; phù thũng, đi tiểu ra albumin kéo dài dương tính, thậm
chí còn phát sinh tăng chứng u rê huyết, bệnh đau tim, tắc động mạch cơ
tim mang tính không đau v.v.. đều là những tín hiệu khả nghi của bệnh
tiểu đường, trong dó có một số triệu chứng là biến chứng biểu hiện lần
đầu tiên, thực ra không hiếm thấy trong công tác lâm sàng. vì vậy không
thể xem thường những tín hiệu khả nghi, phòng ngừa chẩn đoán sai, chữa
trị sai kéo dài bệnh tật.
2. " Ba nhiệu một ít" đã hình thành như thế nào?
"
Ba nhiều một ít " ( tam đa nhất thiểu) là triệu chứng điển hình của
bệnh tiểu đường, tức là uống nhiều, đi tiểu nhiều, ăn nhiều và thể trọng
giảm nhẹ. Có thông tin cho biết, đi tiểu nhiều chiếm từ 58% đến 78%,
miệng khát uống nhiều chiếm từ 58% đến 67% , số người mệt mỏi gầy yếu
chiếm khoảng 50%.
Khi sự chuyển hóa của bệnh tiểu đường rối loạn,
quá trình oxy hóa đường gluco ở trong các cơ quan, tổ chức tế bào phát
sinh trở ngại, vì thế khiến cho năng lương sản sinh ra bị giảm thiểu,
tức thì liền sản sinh ra các triệu chứng như yếu đuối vô lực, tinh thần
không phấn chấn, rất dễ mệt mỏi và đau đầu v.v... khi đường huyết vượt
quá 8,9 đến 10 mmol/l ( 160 đến 180 mg/dl liền vượt quá năng lượng hấp
thụ lại đường gluco của thận tạng thì trong nước tiểu đường sẽ dương
tính. Đường huyết càng cao, đường trong nước tiểu càng nhiều. Do áp lực
thẩm thấu của nước tiểu tăng cao khiến cho lượng nước hấp thụ về của
thận tạng giảm thiểu làm tăng lượng nước tiểu. Lượng nước tiểu thường tỷ
lệ thuận với hàm lượng của đường, trong nước tiểu mà đường trong nước
tiểu bài tiết ra càng nhiều thì lượng nước tiểu cũng càng nhiều. Tổng
lượng nước tiểu mỗi ngày có thể đạt từ 5 lít thậm chí tới 10l lít, người
bệnh nặng mỗi ngày từ trong nước tiểu có thể bài tiết ra ngoài trên 500
gam đường gluco
Do tiểu nhiều, trong cơ thể người bệnh đã mất đi
một lượng nước lớn, vì vậy miệng khát phải có nhu cầu uống nhiều. Đường
gluco là nguồn chủ yếu cung cấp năng lượng và nhiệt lượng cho cơ thể
con người. Để duy trì bảo vệ hoạt động của cơ thể thì cần phải bổ sung
đền bù lại số lượng đã mất đi trong nước tiểu, vậy người bệnh có nhu cầu
ăn nhiều, uống nhiều. Trong khi đó, người bệnh tiểu đường thiếu
Insulin, cơ thể không thể lợi dụng đường gluco được , khiến cho sự tiêu
hao chất albumin và mỡ ở trong cơ thể tăng lên nhiều. Đồng thời do đường
huyết đã không thể sinh thành đường glucogen để dự trữ lượng nước bị
mất, cho nên thể trọng của người bệnh bị giảm nhẹ, thể hiện rõ sự gầy gò
yếu đuối.
Những thiếu niên mắc bệnh tiểu đường đều thể hiện trạng
thái thể trọng gầy gò, bị bệnh lâu sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển bình
thường, dấn tới thân thể thấp bé. Ngoài ra thường có chứng đái dầm trong
đêm, vì vậy đái dầm thường trở thành tín hiệu phát bệnh tiểu đường ở
nhi đồng.
Do công năng bài tiết nước tiểu gia tăng, thận nang có thể tăng to làm cho người bệnh luôn cảm thấy đau lưng.
Trên
lâm sàng, những người bệnh xuất hiện triệu chứng điển hình " ba nhiều
một ít " chỉ có khoảng trên dưới 1/5, đại đa số bệnh nhân chỉ có một
hoặc hai trong số các triệu chứng " ba nhiều một ít ". Đối với những
người này cần phải tăng cường chú ý, không được xem nhẹ tới khả năng có
thể mắc bệnh tiểu đường để kịp thời chữa trị.
Những biểu hiện của bệnh tiểu đường không nên bỏ qua
Bệnh đái tháo đường (hay còn gọi là bệnh tiểu đường)
là một bệnh khá nguy hiểm, được xem là “đại dịch” ở các nước đang phát
triển, gắn liền với nhiều biến chứng ở các cơ quan như não, thần kinh,
thận mắt, mạch máu và đặc biệt là tim mạch. Việc biết trước các dấu hiệu
nguy hiểm của bệnh sẽ giúp chủ động ngăn ngừa biến chứng.
Những bệnh nhân bị bệnh tiểu đường đã được chẩn đoán xác định, cần theo dõi các dấu hiệu nguy hiểm sau đây:
- Đường huyết cao trên 15 mmol/L;
- Triệu chứng khát nước nhiều, đi tiểu nhiều tăng lên;
- Đau chân khi đi lại;
- Vã mồ hôi, run chân tay;
- Đau bụng, nôn, buồn nôn;
- Có
các biểu hiện của biến chứng như lú lẫn, ý thức chậm chạp hoặc hôn mê,
sốt kéo dài, tê chân tay, loét chân, đau ngực, khó thở, tiểu ít, phù, mờ
mắt, liệt, ho kéo dài…
Ngoài ra cũng cần chú ý đến các biến chứng nặng có tính chất cấp cứu của những bệnh nhân tiểu đường để xử trí kịp thời như:
- Hôn
mê tăng thẩm thấu: Bệnh nhân tiểu đường đang điều trị có thêm các tình
trạng làm mất nước như sốt, dùng thuốc lợi tiểu, uống ít nước do một lý
do nào đó… hoặc dùng thuốc làm tăng đường huyết như steroid…
- Bệnh nhân có biểu hiện khát nước tăng lên, ý thức chậm chạp, ngủ nhiều rồi đi dần vào hôn mê.
- Hôn
mê nhiễm toan-ceton: Bệnh nhân tiểu đường đang dùng insulin tự ý bỏ
thuốc hoặc có thay đổi chế độ dùng thuốc như do nhầm lẫn, hay có thêm
biểu hiện của bệnh nhiễm trùng, chấn thương. Biểu hiện của tình trạng
cấp cứu là bệnh nhân tiểu nhiều, buồn nôn và nôn, đau bụng, ý thức chậm
chạp dần rồi đi vào hôn mê.
- Hôn
mê hạ đường huyết: Đây là tình trạng bệnh nhân bị hạ đường huyết do
uống thuốc hay tiêm thuốc insulin quá liều hoặc dùng thuốc đúng liều
nhưng bệnh nhân bỏ ăn, ăn ít; hoạt động thể lực nhiều hơn ngày thường.
- Triệu chứng xảy ra bao gồm ý thức chậm chạp, lú lẫn, vã mồ hôi, run chân tay, cảm giác đói dữ dội và nặng thì gây hôn mê.
Những
bệnh nhân tiểu đường khi xuất hiện các dấu hiệu nguy hiểm ở trên phải
đến ngay cơ sở y tế để được điều trị kịp thời, không được tự ý chăm sóc
bệnh tại nhà để tránh hậu quả đáng tiếc xảy ra.
Lời khuyên : Chế độ ăn cho người bệnh tiểu đường
- Lượng
cơm mỗi bữa nên dùng từ 1,5-2 bát. Chống đói bằng cách ăn thêm nhiều
rau, thịt trong bữa ăn. Lượng rau cải hàng ngày từ 20-35g như xà lách,
cải bắp. Có thể ăn nhiều trái cây như lê, táo, nho nhưng không nên ăn
trái cây quá ngọt như chuối, mít, sầu riêng.
- Không nên ăn quá nhiều chất béo như bơ, thịt quay, da gà, vịt, lòng đỏ trứng. Dầu olive, dầu phộng tốt hơn dầu cọ.
- Không
dùng mật ong, bánh kẹo, sữa, bánh ngọt, nước trái cây. Nên dùng đường
hóa học thay thế vị ngọt trong cà phê. Vitamin, chất khoáng hoàn toàn
không cần thiết với người bệnh.
- Tập thể dục hàng ngày sẽ giúp tránh được các biến chứng về tim mạch.
Các biểu hiện ngoài da của bệnh tiểu đường
Bệnh
tiểu đường là một bệnh khá nguy hiểm, được xem như là “đại dịch” ở các
nước đang phát triển. Rối loạn chuyển hóa đường gây nhiều biến chứng hệ
thống mà chủ yếu là các thương tổn hệ tim mạch, mắt, thận tiết niệu, hệ
thống thần kinh trung ương và ngoại biên, da và niêm mạc.
Có
tới gần 1/3 số bệnh nhân tiểu đường có biểu hiện bệnh ngoài da, niêm
mạc. Hầu hết do bệnh diễn tiến nhiều năm và do việc điều trị bệnh tiểu
đường không tốt dẫn đến các biến chứng này. Bệnh học cho thấy, các mạch
máu nhỏ và có thể cả các rối loạn thần kinh tham gia vào bệnh lý này.
Các vị trí hay bị tổn thương là cẳng chân, cẳng tay, đùi, các đầu xương.
Có
tới một nửa số bệnh nhân tiểu đường bị các thương tổn này, nam mắc
nhiều hơn nữ. Thương tổn bắt đầu là sẩn có hình tròn, bầu dục, màu đỏ
đậm, kích thước khoảng 0,5 - 1cm. Tổn thương tiến triển chậm, có vảy da
và để lại sẹo teo màu nâu. Bệnh lý da loại này thường kèm các thương tổn
võng mạc mắt, bệnh lý thận và thần kinh ngoại biên.
- Các bệnh lý do tổn thương mạch máu lớn:
Biểu
hiện là các vữa xơ động mạch gây nên ở các đầu chi, với biểu hiện bàn
tay, bàn chân có những cơn xanh tím và lạnh. Hậu quả có thể gây thương
tổn nghiêm trọng như nhồi máu cơ tim, huyết khối mạch não, xơ thận, hoại
thư chân, tay.
-
Bệnh lý thần kinh do tiểu đường: Những bệnh nhân lớn tuổi bị tiểu đường
thường bị các thương tổn thần kinh vận động và cảm giác ở các đầu chi.
Chính các thương tổn thần kinh này dẫn đến nhiều tổn hại cho tay, chân
người bệnh mà điển hình nhất là loét lỗ đáo bàn chân không đau, có thể
dẫn đến viêm xương. Loét nặng hơn do bàn chân bị rủ, mất cảm giác làm
người bệnh không biết nên loét càng nặng hơn. Chân còn bị khô da do mất
tiết mồ hôi, các biểu hiện khác là phù, đỏ da và teo da. Các ngón chân
cũng bị tổn hại, hoại tử, hoại thư và viêm xương. Kẽ chân thì ẩm ướt làm
cho dễ bị nhiễm trùng, nhiễm nấm.
-
Các nhiễm trùng da do tụ cầu, liên cầu nhóm A, với các biểu hiện nhọt,
nhọt cụm, lẹo mắt. Biến chứng nghiêm trọng có thể gặp là viêm tai giữa
do Pseudomonas có thể dẫn đến hủy hoại thần kinh sọ não, viêm màng não
gây tử vong. Một số vi khuẩn khác như E.coli, Klebsiella, Pseudomonas
gây hoại thư sinh hơi trên da.
-Nhiễm
nấm Candida albicans ở miệng, kẽ móng, sinh dục và các nếp gấp lớn của
da là bệnh lý rất thường gặp trên người bệnh tiểu đường, đặc biệt trên
những người không kiểm soát được đường huyết.
-
Một số bệnh nhân tiểu đường còn bị bệnh gai đen (acanthosis nigricans),
đó là vùng da bị đen dày ở nách, có nhú gai. Điều trị khó, bệnh có thể
nhẹ khi kiểm soát được đường huyết.
-
Các biểu hiện khác của da trong bệnh tiểu đường, đó là teo mỡ dưới da,
hay gặp ở mặt trước xương chày. U hạt hình nhẫn lan tỏa, xuất hiện các
bọng nước, chứng ngứa da, gây cứng khớp và da bị vàng sáp, xơ cứng da,
bạch biến, liken phẳng, u vàng, các u mềm treo trên da, viêm nang lông…
-
Nhiều nghiên cứu cho thấy tỷ lệ bị bạch biến cao hơn ở người bị tiểu
đường nhưng tiến triển không khác so với người bình thường mắc bệnh này.
U hạt hình nhẫn lan tỏa là bệnh da mạn tính, không triệu chứng và
thường gặp ở vùng lưng bàn tay, chân, khuỷu.
-
Bọng nước do tiểu đường, các tổn thương trông giống như là vết phồng
rộp do bị bỏng nhưng có thể xuất hiện tự nhiên, kích thước thường lớn,
không bị đau và không có biểu hiện viêm tấy đỏ. Chúng thường xuất hiện ở
mặt lưng của ngón tay, bàn tay, ngón chân và bàn chân. Thông thường các
phỏng nước này sẽ lành sau khoảng 2- 3 tuần mà không để lại sẹo. Những
bệnh nhân bị tổn thương thần kinh do tiểu đường hay bị mắc loại tổn
thương này.
Biến chứng bàn chân do tiểu đường.
- U vàng
(xanthomas):
trên da nổi những đám da vàng sẫm, mềm. Chúng thường xuất hiện ở phần
lưng tay, mu chân, cẳng chân và hông. Nam giới trẻ mắc tiểu đường týp 1
thường hay mắc tổn thương u vàng. Khi xét nghiệm mỡ máu và cholesterol
máu thường rất cao, nếu đường máu ổn định tốt, các u mỡ vàng này có thể
sẽ biến mất.
-
Chứng xơ cứng ngón tay (sclerodactyly): thường gặp ở 1/3 số bệnh nhân
mắc tiểu đường týp 1. Biểu hiện da tay dày khô, các ngón tay teo cứng.
Mu bàn tay trông như sáp, da ngón chân dày. Ngón tay bị cứng và mất đi
một số cử động. Trong một số trường hợp hiếm gặp, khớp cổ chân, khớp
gối, khớp khuỷu tay cũng có thể bị cứng lại.
-
Trên bệnh nhân tiểu đường lâu năm sẽ gây biến chứng xơ vữa mạch máu làm
cho tưới máu nuôi dưỡng cho da bị giảm sút dẫn đến một số thay đổi trên
da như: da bị mỏng đi, sáng màu, rụng lông và sờ vào thấy lạnh. Cảm
giác lạnh ngón chân. Khi đi lại kể cả với khoảng cách ngắn cũng thấy đau
chân. Sự thiếu máu khiến cho các vết thương lâu lành những tổn thương
rất nhỏ cũng có thể dẫn đến nhiễm khuẩn nặng nếu không điều trị sớm.
(St)