Các thủ tục lễ nghi đã đơn giản hơn trước rất nhiều so với trước đây, bài viết này hi vọng sẽ phần nào hữu ích cho các bạn
Các nghi lễ, thủ tục:
- Dạm ngõ: là nghi thức gặp
gỡ hai bên gia đình, dụng ý lần đầu tiên được biết nhau một cách công
khai, chính thức. Từ đó thỏa thuận, tiến tới tác thành, xây dựng cho hai
con. Đồ lễ mang sang nhà gái thường là trầu, cau, rượu, chè.
- Lễ ăn hỏi: nhà trai mang
lễ vật sang nhà gái hỏi vợ. Lễ vật đựng trong các tráp phủ vải điều màu
đỏ, thường có trầu, cau, rượu, chè, bánh cốm, bánh xu xê, mứt sen, xôi,
thủ lợn, lợn sữa quay.
- Lễ đính hôn: về mặt ngữ
nghĩa lễ đính hôn, hay lễ cầu hôn tương đương lễ ăn hỏi (hỏi vợ) của
người Việt, tuy phương Tây thường thịnh hành phong tục trao nhẫn đính
hôn đính kim cương hoặc đá quý cùng lời cầu hôn.
- Lễ vấn danh: nhằm hỏi tên
tuổi (vấn danh), so đôi lứa để xem xét xung, hợp của đôi trai gái đồng
thời nhằm có dữ kiện để chọn ngày giờ tốt cho các nghi thức, thủ tục
cưới hỏi. Lễ vấn danh cũng bao gồm những lễ vật tương tự lễ ăn hỏi tuy
có thể ít hơn và giản dị hơn. Cô gái nhà nào đã nhận lễ vấn danh coi như
đã có chồng (dù chưa cưới). Hiện nay trong Lễ cưới người Việt lễ vấn
danh kết hợp trong lễ ăn hỏi.
- Lễ nạp tài: nhà trai mang
sính lễ sang nhà gái. Đồ sính lễ gồm trầu cau, gạo nếp, thịt lợn, quần
áo và đồ trang sức cho cô dâu. Lễ nạp tài hiện nay trong phong tục lễ
cưới người Việt đã kết hợp một phần vào lễ ăn hỏi (lễ vật ăn hỏi) và một
phần vào trong lễ cưới (trao của hồi môn).
- Lễ xin dâu: trước giờ đón
dâu, mẹ chú rể hoặc một hai bà cô, bà dì, họ hàng thân thích (nữ) sang
nhà gái để xin được đón dâu. Lễ vật trong lễ cưới người Việt thường là
tráp đựng trầu têm cánh phượng.
- Đón dâu: nhà trai đưa đoàn sang nhà gái đón dâu về, thường đi bằng xe.
- Lễ vu quy: diễn ra tại nhà gái, nơi tiễn cô dâu đi lấy chồng.
- Lễ thành hôn: còn gọi là lễ cưới nói chung, tuy vẫn thiên về chỉ lễ cưới chính thức tại nhà trai.
- Lễ tơ hồng: lễ khấn ông Tơ
bà Nguyệt và cao đường (cha mẹ), diễn ra tại nhà trai. Thường chỉ có
người thân thích, sau khi khách mời đã ra về hết.
- Lễ hợp cẩn: Đây là buổi lễ
kết thúc đám cưới tại nhà trai. Trước giường có bàn bày trầu rượu và
một đĩa bánh phu thê (sau này ta đọc thành bánh xu xê). Ông cụ già đứng
lên rót rượu vào chén rồi mời đôi vợ chồng cùng uống, phải cùng cạn
chén, cùng ăn hết cái bánh không chia cho ai, không để thừa. Sau đó mọi
người ra ngoài, để hai vợ chồng cùng tâm sự. Ở một số nhà khá giả, thiên
về hoạt động văn hoá, thì những bạn bè văn chương chữ nghĩa với chàng
rể còn mang hoa, thắp đền sáng rực trong phòng hợp cẩn. Họ cũng ca hát,
gây tiếng động, hoặc vỗ tay, đập các khúc gỗ vào nhau. Do đó mà sau có
chữ động phòng hoa chúc.
- Lễ báo hỉ: thường là tiệc
mặn hoặc ngọt tổ chức sau nghi lễ cưới chính thức tại quê quán của cô
dâu hoặc chú rể, hoặc nơi ở của bố mẹ vợ, bố mẹ chồng, trong trường hợp
quá xa ông bà, cha mẹ không thể xuống dự đám cưới với con cháu được.
- Lễ lại mặt: là lễ do chú rể mang về nhà gái sau ngày cưới từ 2 đến 4 hôm như một lời cảm ơn bên thông gia.
- Lễ cheo: lễ vật hoặc kinh
phí nộp cho làng, xóm có con gái đi lấy chồng, với dụng ý để xóm làng
tiếp thu thêm thành viên mới, tế bào mới của làng. Lễ cheo có thể tiến
hành trước nhiều ngày, hoặc sau lễ cưới một ngày. Hiện nay nhiều nơi đã
không còn giữ phong tục này.
- Tuần trăng mật: chỉ những
ngày đầu tiên sau hôn lễ. Nhiều cặp vợ chồng trẻ có điều kiện thường tổ
chức đi chơi du lịch tuần trăng mật tới những địa điểm có phong cảnh hữu
tình. Tuần trăng mật cũng là thời điểm nghỉ ngơi cho cặp vợ chồng trẻ
sau những ngày căng thẳng tiến hành hôn lễ.
Hiện nay, một số lễ nghi đã nhẹ nhàng hơn thuận tiện cả 2 bên như sau:
Hai gia đình gặp nhau để đàm phán
Ăn hỏi: gộp các thủ tục
- Lễ ăn hỏi
- Lễ đính hôn: (có thể không cần)
- Lễ vấn danh
Đám Cưới: gộp những thủ tục sau:
- Lễ nạp tài
- Lễ xin dâu
- Đón dâu
- Lễ vu quy
- Lễ thành hôn
- Lễ tơ hồng
- Lễ hợp cẩn
- Lễ báo hỉ: (có thể có)
- Lễ lại mặt: (có thể có)
- Lễ cheo: (hầu như không còn)