Trang phục truyền thống của người Mường
Hướng dẫn học thủ ngữ khi tiếp xúc với người khiếm thính
Cách giao tiếp của người Malaysia
Người Huế ăn uống gắn liền với ba tiêu chí là: rẻ, ngon và nhất là phải đẹp. Một món ăn không đẹp, không phải là một món ăn. Và với những tiêu chí đã nêu, người Huế đã chia ăn uống thành ba bậc: khẩu thực, nhãn thực và tâm thực.
VÀI ĐẶC ĐIỂM VỀ KHẨU VỊ CỦA NGƯỜI HUẾ “Khẩu vị của người Huế” có những đặc điểm và những liên hệ sau đây: Do thói quen:
Người Huế cầu kỳ và tỉ mỉ. Ở họ tính “kinh kì” dường như vẫn còn trong nếp sống. Sự cầu kì và tỉ mỉ ấy đã mang đến cho ẩm thực Huế những đặc điểm rất riêng. Không chỉ vậy với tư duy sống thuận tự nhiên người Huế chuộng việc ăn uống theo thời. Mùa nào thức ấy, và cầu kì hơn là chọn đúng sản vật của vùng đất ấy mới cảm thụ của tinh khí của đất trời tụ hội nuôi dưỡng. Một thức uống có lẽ khá tiêu biểu cho vùng đất này là rượu làng Chuồn (tên Nôm của An Truyền – một khu làng có lịch sử 600 năm- cách trung tâm thành phố khoảng 10 km về phía Đông Bắc gần phá Tam Giang...). Những người Huế sành hay dùng rượu này đãi khách hoặc uống một chung vào buổi sáng. Đây còn gọi là rượu Ngự, vì là ruợu để tiến vua, còn được mệnh danh là đệ nhất danh tửu của đất Kinh kì. Rượu được nấu theo phương thức cổ truyền với chất gạo truyền thống của vùng An Truyền và nước sông vùng này. Rượu có vị cay nồng nhưng đằm không sốc, không lẫn những tạp vị khác. Rượu càng ngon tăm càng nhỏ và nước càng thanh. Uống ruợu này một lần chắc hẳn khó quên. Ấn tượng thanh khiết trong hương và đậm đà mà sâu trong vị sẽ khiến cho những người sành rượu khó tính cũng xao xuyến. Uống đôi ba li thưởng thức có thể cảm nhận được sự tĩnh và sáng trong tâm trí của người thưởng rượu. Cùng với rượu người Huế còn có thói quen uống trà. Trà Việt khác trà đạo của Nhật Bản, Nhật Bản chuộng cầu kì, chuộng sự thanh tĩnh đến tỉ mỉ như một thứ mỹ cảm rất đặc biệt, thì người Việt lại chuộng sự giản dị, linh hoạt. Nét tư duy ấy thể hiện rõ trong cách uống trà của người Huế. Đến Huế uống trà, bạn có thể đến trà đình Vũ Di – gần đồi Thiên An, nhâm nhi những vị trà từ nhiều nơi, và cách pha trà cũng khá cầu kì, pha trộn kiểu trà đạo của Nhật Bản và có cả những vị trà riêng của xứ Huế với các loại trà cung đình, trà sen hoặc các loại trà mang tính giải nhiệt. Đồng thời bạn cũng có thể “bụi bặm” một chút, giã từ những cầu kì, đến ga Huế uống trà vào ban đêm. Ga Huế có một khoảng không gian nhìn ra một ngã ba rất rộng, nhất vào những ngày mưa, cây đèn vàng phủ xuống không gian một màu rất cổ độ. Ban đêm thắp đèn dầu uống trà, ăn kẹo lạc hay hút thuốc lào ngắm phố xá cũng là một thú vui bình dân mà cũng đầy cảm giác. Uống trà trong gia đình người Huế lại tạo được một xúc cảm thanh tĩnh. Uống trà trong một khoảng không nhìn ra một bờ sông lặng lẽ, và những cây lá lấp loáng trong vườn Huế, lúc đó trà không còn một loại thức uống quá đặc biệt, không phải cầu kì như trà đạo mà đơn giản hơn đó là nơi để con người và thiên nhiên gặp nhau. Cảm nhận trà trong không gian nhà vườn với đôi người bạn tâm giao mới thấu hiểu được cái lẽ giản dị mà uyên nguyên của trà Việt. Huế còn thú vị với những món nước giải nhiệt trong mùa hè như nước củ sen, nước tim sen, chè xanh, nước đậu ván, nước đậu nành, nước đậu xanh, nước các loại lá như lá Mùng năm....do những mẹ những chị nấu uống trong gia đình. Đến Huế mùa hè, bạn được gặp rất nhiều nước giải khát đó trong các quán ăn nhỏ, nhưng nếu có dịp nên thưởng thức một ly nước ép thanh trà, loại thanh trà được trồng rất nhiều từ các vườn ở Kim Long, Nguyệt Biều, trái nhỏ, vị ngọt thanh lại thơm ngon có tác dụng giải nhiệt rất tốt. Những quán cà phê ở Huế như Vĩ Dạ Xưa...tận dụng được không gian sông nước yên tĩnh và cây lá xanh mướt của vùng đất này. Bạn thả lòng một chút, dành thời gian một chút. Ngồi nhìn dòng sông chảy, lắng nghe vị ngọt của thức uống xứ Huế mà nhận ra lẩn quất đâu đó trong ẩm thực là một loại tư duy sống gần gũi với thiên nhiên, nhận ra vũ trụ thật gần qua cây lá vườn nhà. Phong cách ẩm thực của người Huế Một trong những đặc trưng nổi bật của văn hóa Huế là văn hóa ẩm thực. Món ngon xứ Huế là món ngon Chăm xưa kết hợp với món ngon Việt, món ngon dân gian Huế và món ngon cả nước do giao lưu, hòa quyện với linh khí đất Thuận Hóa mà thành. Văn hóa ẩm thực Huế có một cội nguồn triết lý riêng để mãi trường tồn với thời gian. Đối với người Huế ẩm thực là một nghệ thuật đã trở thành nét văn hóa cổ truyền, sâu sắc. Nhiều người đã bàn đến các món ăn Huế và cũng như món ăn Huế, cách uống của người Huế đã trở nên nổi tiếng đến mức định hình như một chuẩn mực, một phong cách. Tôi thấy cách ăn của người Huế có rất nhiều điểm khác với Hà Nội và Sài Gòn. Con người là nhân vật trung tâm trong bữa ăn của người Huế. Con người sáng tạo ra các món ăn để phục vụ cuộc sống của mình, làm cho đời sống ngày càng văn hóa hơn. Ngược lại văn hóa ẩm thực phải phục vụ con người, làm cho con người càng văn minh, mạnh khỏe cả về tâm hồn và thể chất. Cho nên ăn uống là thưởng thức nghệ thuật. Ngay từ "ăn" các mệ Huế ngày xưa gọi là "thời". "Mời mệ thời cơm". Chữ "thời" nghe rất sang trọng, lại gần gũi hơn chữ "xơi" ở miền Bắc. Người Huế ăn là ăn bằng ngũ quan. Mâm cơm được bày ra, hay món ăn được chế biến bày lên đĩa, dù là bữa cơm cung đình mà ta hay gọi là "cơm vua", hay bữa cơm bình dân trong mỗi gia đình, phải đảm bảo một đặc tính nổi bật là tính hài hòa". Món ngon Huế không chỉ ăn bằng miệng, mà trước hết phải thích nhìn bằng mắt, mũi ngửi thấy thơm, cảm giác thấy thèm, tai nghe những âm thanh quyết rũ, tức là ăn bằng ngũ quan! Hài hòa về màu sắc, hương vị, hài hòa về âm-dương, nóng-lạnh, hài hòa trong bố cục chén, đũa, bát, dĩa. Vâng, hài hòa như tự nhiên, thiên nhiên. Một đĩa rau sống Huế chứa đựng cả một thế giới chan hòa màu sắc như một bức tranh thiên nhiên miền nhiệt đới. Có học giả ví von rằng, trong cái nền xanh đơm đầy sự sống ấy, nổi lên những ngôi sao vàng màu khế, miếng cà chua như mặt trời rực rỡ, màu ngà vàng của lát vả thái hình nửa vành trăng khuyết, điểm những lát chuối sứ màu trắng nõn, tròn xoe... Bạn có thể gắp trăng sao rực rỡ ấy cùng với thịt (heo) ba chỉ luộc kẹp với tôm chua nổi tiếng-một miếng ngon ấy thôi cũng có đủ chua, cay, mặn, ngọt, chát, béo, bùi hòa quyện thành sự thích thú khoái cảm nhớ đời. Đối với người Huế, trong một mâm cơm, hay theo từng mùa, các món ăn phải đảm bảo đủ yếu tố âm (mát), dương (nóng). Mùa nóng thì tăng cường các món ăn tính âm, mùa lạnh thì ngược lại cho cân bằng hàn nhiệt cơ thể. Ăn theo mùa là nguyên tắc lớn trong triết lý ẩm thực Huế. Xuân, hạ, thu, đông mùa nào cũng có thực đơn riêng, ngon mà rẻ. Ví dụ thịt vịt mát nên ăn vào mùa hè khí hậu nóng, thịt gà ấm, thịt heo nóng thì thường ăn vào mùa đông. Cá tràu, lươn... hàn nên phải dùng ném để chế ngự, vịt, ốc, hến... mát nên phải dùng gừng. Vị cay là cực dương nên phải điều hòa bằng vị chua là cực âm... ngay uống trà cũng vậy. Người Huế thường thưởng thức trà cùng với các loại mứt gừng, mứt sen, mè xửng, mạch nha v.v.. Sau vị chát của chè là vị ngọt của mứt, kẹo, tạo cho chén trà có hậu hơn, đậm đà hơn! Các loại bánh Huế thường được làm nhỏ và mỏng. Dọn ra mâm người ăn bao giờ cũng có cảm giác sẽ ăn hết, tức là món ăn không áp đảo, chế ngự con người. Đó là nghệ thuật, là triết lý hài hòa của ẩm thực Huế. Ngay đến việc sử dụng bát, đĩa đơm bày các món ăn, hay đũa, bát để ăn cơm người Huế cũng sử dụng nguyên tắc hài hòa. Bát đựng thức ăn, đĩa đựng món ăn dù sang, đẹp cũng không to quá, không "lấn" thức ăn. Bát ăn cơm cho khách không được to hơn bát bày trong mâm. Người Huế thường dọn cơm tiệc hay tiếp khách bằng loại chén kiểu (chén xưa, nhỏ). Món ăn như thế, bát đĩa như thế nên người ngồi ăn cũng thật tự nhiên. Không cảm thấy bị cách bức gò bó - ăn uống tự nhiên là lịch sự, từ tốn. Trong cách ăn, người Huế thường ăn nhẩn nha, nhấp nháp. Ăn bún, ăn phở người Huế chỉ dùng đũa, không dùng vừa đũa, vừa thìa. Vừa khều vừa múc như người Sài Gòn, Hà Nội. Khi ăn họ thường hồn nhiên bưng bát bún lên để húp, lấy đũa và rất tự nhiên, hồn nhiên. Ở Huế có nhiều quán bún sang trọng có bàn ăn, ghế ngồi, nhưng những quán đó đa phần chỉ dành cho khách du lịch. Còn người Huế, kể cả người giàu lẫn người nghèo đều thích ăn bún ở những gánh hàng rong bên đường. Ngôi đòn, ngay bên nồi nước xáo sôi sùng sục, tay bưng, tay gắp. Ăn như thế ai cũng cảm thấy gần gũi với thiên nhiên, nên ngon miệng hơn. Ăn trứng vịt lộn người Huế cầm tay bóc đầu vỏ trứng rồi đưa lên miệng hút nước, sau đó bóc tiếp vỏ rồi cắn ăn, không dùng cốc để đựng trứng, thìa để múc như người Hà Nội, Sài Gòn. Cách ăn của người Huế thể hiện quan niệm miếng ngon ở đời phải được tiếp xúc trực tiếp, không qua trung gian, cách biệt chăng(?!) Trong đặc sản Đồng Khánh, Châu Nhật Nam viết về món ăn và chỗ ngồi ăn của Huế xưa rất lý thú: "Bánh đúc, bánh bèo phải ngồi chõng. Cháo môn, chè nếp ngồi bàn độc. Khoai nướng phải ngồi cạnh bếp trấu hoặc dưới đụn rơm. Chè hột sen ngồi tràng kỷ, chè hột sen bọc nhãn phải ngồi sập gụ...". Một nét hài hòa cần được nhấn mạnh trong ẩm thực là ăn uống phải hài hòa với thiên nhiên, phong cảnh. Người Huế thường thích dọn bữa trong vườn. Thời bao cấp, tôi làm chuyên viên ở Sở Thương mại Bình Trị Thiên (cũ), một lần tiếp khách bạn Lào và các quan chức Bộ Thương mại, anh Phan Đình Chi, giám đốc Sở, một người Huế lịch lãm và từng trải, giao cho công ty thực phẩm "đăng cai" tiệc. Giữa chiều, anh xuống kiểm tra, thấy anh em dọn bàn tiệc trong phòng hội trường, trong lúc đó, vườn nhà Viễn Đệ, nơi công ty đóng là một vườn cảnh tuyệt với hàng trăm giống hoa quý, có hồ bán nguyệt, có lầu thưởng trăng, có cả mấy cây hoa hoàng lan đang mùa nở hoa thơm ngát. Thế là ông Chi quyết định dọn tiệc ra vườn. Sau bữa tiệc, những người khách cứ xuýt xoa khen hoài, vì họ vừa ăn vừa được ngắm hoa, ngắm bồng lai tiên cảnh. Ở Huế hiện nay, có rất nhiều nhà vườn đẹp đang được sử dụng để làm quán phục vụ ẩm thực cho người sành điệu. Tịnh Gia viên là một vườn hoa cảnh quý phải gồm hàng trăm loại xương rồng, hàng trăm loài hoa trái được trồng tỉa tót trong vườn, trong chậu kiểng rất độc đáo. Ngang mắt hoa khoe sắc, bên tai chim hót. Giữa cảnh trí như vậy, con người lại được ngồi nhâm nhi thưởng thức các món Huế thì không có gì đắc đạo bằng! Hay ở nhà vườn Ý Thảo ở 3-Thạnh Hãn-Huế, khách vừa thưởng thức món ăn Huế vừa nghe chim hót, gió xào xạc lá vườn, rồi nhìn hoa vườn khoe sắc v.v.. Ẩm thực Huế hài hòa là thế. Hài hòa là bản chất của cái đẹp vậy. Văn hoá Huế từ góc nhìn ẩm thực |
||
|
||
Không da dạng như lối ẩm thực Bắc Hà, cũng không được phồn thực như lối ẩm thực Nam Hà, ẩm thực Huế có một chiều sâu riêng, mang đậm nét bản sắc của một vùng đất từng là kẻ chợ, thanh lịch, nhẹ nhàng và tùng tiệm. Người Huế ăn uống gắn liền với ba tiêu chí là: rẻ, ngon và nhất là phải đẹp. Một món ăn không đẹp, không phải là một món ăn. Và với những tiêu chí đã nêu, người Huế đã chia ăn uống thành ba bậc: khẩu thực, nhãn thực và tâm thực. "Khẩu thực" là cách ăn không dám coi thường nhưng là cách ăn thấp nhất , vì là ăn bằng ... miệng, và ăn để tồn tại. Nó dính dáng nhiều đến những cơ chế sinh học- như là sạc pin hay nạp xăng để vận hành một cỗ máy. Đến "nhãn thực", cách ăn đã cao hơn một bực- ăn bằng mắt. Thưởng thức cái đẹp trong sự đắn đo về màu sắc, hình khối, khả năng bày biện, xếp đặt để tạo ra một hiệu ứng thẩm mỹ cao. Lúc này, cái đói đã chịu ngồi ở chiếu dưới, nhường chỗ cho những xúc cảm đã chớm thăng hoa. Nhưng cao hơn hết thảy vẫn là "tâm thực". Nghĩa là ăn bằng cả tấm lòng mình. Chẳng vì thế mà một bát nước rau muống luộc đánh tí chanh tươi pha vào một ít nước mắm cốt, lại có thể đánh đổ biết bao sơn hào hải vị. Một trong những món ăn được rất nhiều người Huế ưa thích là rau dại nấu canh tập tàng. Khó mà diễn tả cái mùi bách thảo lan toả khi mở vung nồi canh. Cái thơm bùi ngùi của chồi bí, một chút chát ngọt của rau bồ ngót, pha với chút hăng hăng của cây bồ hôi, rồi nào là dền gai, đọt thài lài non, nõn chuối chát, lá rau diếp cá... Có cảm giác như cả thế giới rau dại đã cùng nhau dung dăng dung dẻ trong bát canh xanh ngăn ngắt và gợi lên gốc gác, rằng có một thời con người đã sống bằng hái lượm. Với tuổi trẻ, thật khó có thể hiểu rằng bát canh rau dại nhỏ đã gói gắm trong nó cả một triết lý lớn về đời sống con người. Trong ẩm thực, người Huế cũng mê gia vị đến mức cực đoan. Ngoài màu sắc đẹp, đồ gia vị mang lại cho vị giác nỗi "thống khổ" của cái ngon. Và trong bè giao hưởng hàng trăm loại gia vị, thì ớt vẫn là vị "nhạc trưởng" có chiếc mũ đỏ đầy quyến rũ. Người Nam- Bắc Hà du lịch Cố đô vẫn cay tít với Huế từ bát bún bò điểm tâm buổi sáng. Rồi bún hến, cơm hến, cho đến nước chấm các loại bánh khoái, bánh nậm, bánh lọc.. Tất thảy đều cay. Thời sinh viên, nhiều lần cùng bạn bè ăn bát cơm hến buổi sáng cay xé miệng, xé lòng, tôi nghĩ đã nên thêm vào sắc tím trong bản màu truyền thống của văn hoá Huế một màu sắc nữa, đó là màu đỏ chói chang của ớt. Và như vậy, Huế sẽ tưng bừng hơn với màu tím vốn đằm thắm của mình. Trở lại với cách ăn, người Huế xem ẩm thực gần như là một nghi lễ. Dù đơn giản hay bày biện phong phú, bữa ăn phải thanh tịnh, chén đĩa tươm tất, tư thế ngồi đằng thằng. Không lăng xăng, ồn ào trong lúc ăn. Ãưa bữa là những câu chuyện gia đình vui vẻ. Hết sức tránh những chuyện buồn, chuyện đàm tiếu, tranh luận cãi vã trong bữa ăn. Chính trong bầu không khí có vẻ như tôn giáo ấy, các thành viên trong gia đình ý thức nhiều hơn về sự bao dung và cẩn trọng trong hành xử hằng ngày. Thú vị nhất là với một món ăn không bao giờ được dọn ra một lần mà được tiếp làm nhiều lần để vừa tránh được cảm giác ối thừa thức ăn, lại vừa giữ được thức ăn nóng suốt bữa. Do không nắm được nét ẩm thực khoa học này, nhiều người lần đầu ăn cơm khách Huế đã ái ngại nhìn những chiếc dĩa con con, mà không dám "thực lòng". Văn hoá ẩm thực Huế là sự trả lời cho câu hỏi "ăn như thế nàỏ" chứ không phải là "ăn cái gì?". Chính vì vậy, ngay từ trong bếp núc các món ăn đã được chăm chút nhiều lúc đến mức thái quá, để giữ riêng một vẻ đẹp đặc trưng. Dù món ăn đó là nem công, chả phụng, bào ngư hầm hay canh hoa lý, mắm cua gạch.... đều được thực hiện với một cung cách kỹ lưỡng như nhau. Theo thời gian, ẩm thực Huế đang lên ngôi và ngày càng phổ biến trong nước. Có thể ăn một bát bún riêu cua Huế ở góc đường Hai Bà Trưng (Pleiku), một tô cơm hến có hơi bị ngọt hoá tận những con phố nghèo quận 8 (TPHCM) hoặc là dĩa bánh bèo- nậm- lọc ở đường Nguyễn Thái Học (Quy nhơn)... Món ăn Huế đã theo chân người Huế làm một cuộc du hành và ở những nơi mới đến, các món ăn có thay đổi chút ít để phù hợp với khẩu vị địa phương. Như vậy, những món ăn Huế lại sống tiếp một cuộc đời thứ hai với những "tín đồ" mới, ở những vùng đất mới. Chính với cách ăn như một nghi lễ đời thường, người Huế đã xem ẩm thực là nhân cách. Qua cái ăn, con người bộc lộ những cách nghĩ, cách cảm về cuộc đời. Đưa cái ăn vốn nằm dưới tầm thấp của bản năng lên hàng ngũ của cái đẹp, đó là những gì vô ngôn nhất mà người Huế nhân hậu đã dành cho loài rau dại và chú hến nhỏ một đời vô danh dưới lớp bùn lưu cửu của Hương Giang. Người dân Huế đặc biệt nặng lòng với gia đình, có khi sống khuôn vào gia đình. Hiện tượng “kín cửa” hoặc “kín cổng cao tường” thường bắt gặp ở Huế nơi những gia đình mệnh danh là “đại gia” và “hoàng phái” khiến cho con gái trở thành cao giá và con trai thiếu thích nghi với xã hội. Tình trạng này nay đã thuyên giảm nhiều. Trong họ hàng, gọi bà con phía nội là chú (em trai của cha), bác (anh của cha), cô hoặc o (chị hoặc em gái của cha), còn phía ngoại là dì (chị hoặc em gái của mẹ), dượng (chồng của dì), cậu (anh hoặc em trai của mẹ). Ứng xử ngoài xã hội Con người ở đây có những cảm nghĩ và hành động nhiều khi đối nghịch nhau, ngay trong ăn uống, nói năng hay trong ứng xử. Huế là một trung tâm của lối ăn chay, tức là ăn lạt (nhạt), vậy mà người ở đây lại thích ăn cay. Nói năng từ tốn, điềm đạm (thiếu nữ Huế nổi tiếng dịu dàng, e lệ, rụt rè), nhưng lại quả quyết, dứt khoát. Trong ứng xử, phản ứng đầu tiên được thể hiện bằng tiếng “dạ” nghe như bằng lòng, chấp thuận, nhưng tiếp theo đó là cân nhắc, suy tính. Thanh niên Huế tưởng như Sông Hương lờ đờ, trầm mặc, vậy mà có thể hành động tiên phong, quyết liệt như đã từng chứng tỏ qua các lần nổi dậy chống lại áp bức của Thực Dân Pháp và Đế Quốc Mỹ. Dân nghèo nhưng sang (người ta bảo đó là tính “đài đệ”, tính “đế đô”), ít nói nhưng hay bắt bẻ, lý sự, còn trong lòng chất chứa nhiều mối giằng co. Đối với khách, con người Huế thường dè dặt, thận trọng trong lời nói, thái độ, có khi như thiếu cởi mở, nói chung hiếu khách nhưng vẫn tỏ ra chừng mực, có khi bảo thủ, vì e ngại ngộ nhận.
Khách tham quan đến Huế, ngoài lời ngợi ca vẻ đẹp của sông núi, di tích và con người nơi đây, còn thích thú với giọng nói nhỏ nhẹ của người Huế, đặc biệt là con gái Huế. Một nhà thơ đã viết một cách hình tượng "Em ơi giọng Huế có chi. Mà trong hoa nắng thềm thì cơn mưa". Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người nên nói đến bản sắc văn hóa của một dân tộc, một vùng đất không thể không nói đến ngôn ngữ. Cũng như nhiều ngôn ngữ khác, tiếng Việt có các phương ngữ của nhiều những vùng đất khác nhau và trong mỗi phương ngữ chung lại có những phương ngữ nhỏ hơn. Các nhà Việt ngữ học tương đối thống nhất về việc phân chia phương ngữ tiếng Việt thành ba phương ngữ chính là phương ngữ Bắc (Bắc Bộ và Thanh Hóa), phương ngữ Trung (từ Nghệ An đến Thừa Thiên Huế) và phương ngữ Nam (từ Đà Nẵng trở vào). Người Huế được xem là nói năng nhỏ nhẹ, khác với giọng nói phóng khoáng của cư dân Nam Bộ, giọng nói sắc ngọt của người miền Bắc, giọng nói dõng dạc của đất Quảng Nam. Huế thuộc phương ngữ Trung nhưng nói năng nhỏ nhẹ hơn ngay chính những vùng khác thuộc phương ngữ Trung như Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Đặc trưng nhỏ nhẹ từ yếu tố thiên nhiên. Huế là một vùng sông nước hữu tình, người Huế có tâm hồn đa cảm gần với thi ca nên được ví von người Huế như được "mớm" thơ từ trong sữa mẹ. Vì vậy, nhỏ nhẹ trong lời nói, ứng xử là một phong thái của người dân sống ở xứ Đẹp và Thơ. Không thể không xét đến các yếu tố lịch sử, địa lý, hoàn cảnh xã hội nhưng cái quan trọng là phải căn cứ vào các đặc điểm của ngôn ngữ. Giọng Huế nghe đều đều, nhỏ nhẹ là do một số đặc điểm về ngữ âm. Khác với các vùng khác của phương ngữ Trung chỉ có 4 thanh điệu trong 6 thanh điệu tiếng Việt (thanh hỏi, thanh ngã lẫn vào thanh nặng), phương ngữ Huế có 5 thanh điệu (thanh ngã lẫn vào thanh hỏi) giống với phương ngữ Nam. Tuy nhiên, qua phân tích sơ đồ âm phổ, khoảng cách về cao độ trong tiếng Huế nhỏ hơn so với tiếng Sài Gòn và càng nhỏ hơn nhiều so với tiếng Hà Nội. Khoảng cách thấp về cao độ của các thanh điệu tức là cao độ thì không bổng quá mà cũng không trầm quá dẫn đến âm vực của lời nói dao động không lớn, ngữ điệu cứ đều đều. nhỏ nhẹ. Theo Phó Giáo sư Vương Hữu Lễ trong bài Các đặc điểm ngữ âm của tiếng Huế (Thông tin Khoa học và Công nghệ, số 1, năm 1992) đặc trưng nhỏ nhẹ của tiếng Huế bên cạnh yếu tố thanh điệu còn do sự chi phối của các nguyên âm, phụ âm. Về nguyên âm, đó là sự chuyển hóa nguyên âm có xu hướng thu hẹp độ mở, làm giảm đi âm lượng khiến cho độ vang sút kém. Về phụ âm, sự chuyển hóa phụ âm đầu tắc qua xát làm cho cường độ của âm tiết bì yếu đi, các phụ âm cuối lợi được thay bằng các âm mạc làm cho giọng nói không bí dằn mạnh. Đặc trưng về ngữ âm làm hạn chế khả năng diễn đạt của tiếng Huế bởi giọng nói nhỏ nhẹ trong đời thường đi vào lòng người nhưng không phù hợp với cách thể hiện trên các phương tiện truyền thông như phát thanh, truyền hình và các loại hình cần có sự diễn xuất uyển chuyển như kịch nói, điện ảnh. Đặc trưng về ngữ âm còn ít nhiều tác động đến năng lực ứng xử tình huống của người Huế bởi năng lực ứng xử cần thể hiện bằng lời nói tức là chuỗi phát ngôn có ngữ điệu uyển chuyển. Tuy nhiên, giọng nói nhỏ nhẹ lại phù hợp với loại hình diễn xướng ngâm thơ bụi ngâm thơ Việt Nam thiên về sắc thái trầm buồn. Vì vậy đã hình thành một lối ngâm thơ theo giọng Huế rất riêng làm xúc động người nghe. Và giọng nói nhỏ nhẹ. đều đều đó cũng phù hợp với kinh Phật trầm buồn trong tiếng mõ nhà chùa và sự tĩnh tâm thiền định của con người. Cùng với sự nhỏ nhẹ trong lời ăn tiếng nói của người Huế, nhất là cô gái Huế tạo một nét văn hóa riêng của vùng đất này, tiếng Huế cũng không gừng hướng đến tiếng Việt hiện đại và tác động tích cực lên các phương ngữ chung quanh trong quá trình phát triển của ngôn ngữ. Tiếng Huế đã góp phần tạo nên Huế, một trung tâm văn hóa của miền Trung và cả nước. |