Tác dụng chữa bệnh của cây sâm đất
Công dụng chữa bệnh của cây xạ đen: hỗ trợ điều trị ung thư
Bấm huyệt chữa bệnh đau nửa đầu hiệu quả nhanh
cách chữa bệnh thủy đậu cho trẻ em nhanh khỏi, hiệu quả, không lo sẹo
Cách chữa bệnh hồi hộp để bệnh nhanh khỏi. Rất nhiều người tự hỏi: tại sao lại có hiện tượng hồi hộp và đánh trống ngực? Ngay cả một số thầy thuốc không phải chuyên khoa tim mạch thật sự cũng không biết nữa.
CÁCH CHỮA BỆNH HỒI HỘP
Hồi hộp là cảm giác chủ quan của người bệnh. Khi gặp điều kinh sợ thì tim đập hồi hộp, cảm giác lo âu, Đông y gọi là "kinh quý". Trường hợp không gặp chuyện gì kinh hãi mà tim cũng đập hồi hộp, cảm giác bất an gọi là "chính xung". Tim đập hồi hộp là chứng bệnh của tâm nên Đông y thường gọi là chứng "tâm quý". Y học hiện đại gọi là rối loạn thần kinh thực vật, thần kinh tim, rối loạn nhịp tim, suy nhược, cơ thể thiếu máu...
Theo Đông y, chứng tâm quý do nhiều nguyên nhân gây ra như tâm thần bất an, tâm huyết bất túc, âm hư hoả vượng, phong thấp tý nhập tâm. Để điều trị, tuỳ theo từng thể bệnh, Đông y có các cách chữa sau:
- Tâm thần bất an: Do sợ hãi trực tiếp ảnh hưởng đến tâm thần không yên, gây ra hồi hộp mất ngủ hoặc kinh sợ tổn thương thận, thận thuỷ không ức chế được tâm hoả cũng sinh bồn chồn hồi hộp. Biểu hiện hay kinh sợ, đứng ngồi không yên, ngủ ít hay mơ, mạch nhanh chậm thất thường. Phép điều trị: an thần trấn kinh.
Bài thuốc: nhân sâm 10g, phục linh 12g, phục thần 12g, viễn chí 8g, thạch xương bồ 12g, long xỉ 12g, thạch quyết minh 12g, táo nhân sao 8g, mẫu lệ 12g, bá tử nhân 8g.
- Tâm huyết bất túc: Do bệnh lâu ngày, khí huyết hư suy, huyết mất nhiều do chấn thương hoặc do lo lắng, suy nghĩ nhiều làm tổn thương tỳ, tỳ không sinh đủ huyết để dưỡng tâm sinh ra hồi hộp bất an. Biểu hiện hồi hộp, váng đầu, hoa mắt, da mặt xanh xám, môi lưỡi nhạt, chân tay yếu, mạch trầm tế. Phép điều trị: ích khí, bổ huyết, dưỡng tâm, an thần.
Bài thuốc: bạch truật 12g, phục thần 12g, hoàng kỳ 12g, long nhãn 12g, toan táo nhân 12g, nhân trần 8g, mộc hương 6g, cam thảo 8g, đương quy 10g, viễn chí 8g.
- Âm hư hoả vượng: Bệnh nhiệt lâu ngày làm tổn thương chân âm gây nên âm hư hoả vượng quấy nhiễu tâm thần sinh ra hồi hộp mất ngủ. Biểu hiện hồi hộp không yên, bứt rứt khó ngủ, người nóng, da khô, mồ hôi trộm, hoa mắt, ù tai, lưng đau, gối mỏi, lưỡi đỏ ít rêu, mạch tế sác. Phép điều trị: Tư âm, giáng hoả, định tâm, an thần.
Bài thuốc: sinh địa 12g, đan bì 8g, trạch tả 10g, mạch môn 12g, ngũ vị tử 10g, hoàng tinh 12g, thạch cao 16g, tri mẫu 8g, thạch quyết minh 12g, long nhãn 12g, táo nhân 8g.
- Phong thấp tý: Gây tắc trở lạc mạch khí trệ huyết ứ, tâm mất dinh dưỡng sinh ra chứng tâm quý. Biểu hiện hồi hộp, khó thở, có lúc ngực đau tức, hai má đỏ tía, có lúc môi tím thâm, móng chân tay tím nhạt hoặc ho khó thở, ho có máu, lưỡi có điểm ứ huyết, mạch sáp hoặc mạch kết, đại. Phép điều trị: hoạt huyết, hoá ứ, trợ dương, thông mạch.
Bài thuốc: đào nhân 6g, hồng hoa 6g, đan sâm 12g, diên hồ sách 8g, xuyên khung 12g, hương phụ 8g, quế chi 6g, cam thảo 6g, long cốt 12g, mẫu lệ 12g.
Các bài thuốc trên sắc uống ngày 1 thang. Cho 1 lít nước vào thang thuốc sắc kỹ chắt lấy 300ml nước thuốc, chia uống 3 lần trong ngày sau khi ăn 30 phút.
riệu chứng run tay gặp ở khá nhiều người (cả già lẫn trẻ) và là biểu hiện chung của khá nhiều bệnh về thần kinh - tinh thần hoặc nội tiết.
Cần phân biệt các loại run tay:
1/ Run tay với biên độ lớn. Tốc độ run không cao, có thể kèm theo các động tác giật cục: Thường gặp trong các tổn thương của não bộ như bệnh Parkinson, tổn thương của tiểu não, hoặc di chứng của viêm não... rất khó điều trị, đòi hỏi phải đến bác sĩ chuyên khoa về thần kinh để được xác định chẩn đoán và điều trị lâu dài.
Parkinson là một chứng bệnh hay gặp ở người cao tuổi, do tổn thương thoái hóa một số tổ chức trong não (thể vân, liềm đen...). Run là biểu hiện thường gặp của bệnh, run không cố ý, thấy rõ ở ngón tay, môi, lưỡi nên cầm nắm, ăn uống khó khăn. Người bệnh giảm hoặc mất các động tác tự nhiên của nét mặt, không còn biểu lộ tình cảm, khi đi không vung vẩy tay như bình thường, lưng cúi lom khom. Run khi tập trung chú ý làm việc thường là do tiểu não còn run tự nhiên phần nhiều là do bệnh Parkinson. Người bệnh cần đến các bác sĩ chuyên khoa thần kinh để xác định đang bị bệnh Parkinson hay hội chứng Parkinson (biểu hiện của u não, rối loạn mạch não...) để có hướng điều trị đúng và kịp thời.
2/ Run tay với biên độ nhỏ, tốc độ run nhanh và đều. Thường gặp trong bệnh Basedow, hội chứng cường giáp có kèm theo bướu cổ, tiểu đường và một số trường hợp rối loạn thần kinh thực vật. Các tình trạng stress, thức đêm nhiều, mất ngủ hoặc uống nhiều rượu cũng có thể dẫn đến run tay. Chứng run tay do rối loạn thần kinh thực vật thường không rõ nguyên nhân và rất khó điều trị khỏi hẳn. Ngoài ra, run tay còn có thể do bị cường chức năng tuyến giáp (Bệnh Basedow - biểu hiện bằng lồi mắt, bướu cổ, da nóng, run tay, nhịp tim nhanh, rối loạn tinh thần, nói nhiều, khó ngủ, gầy sút, rối loạn về nội tiết...) hoặc có khối u nào đó gần vùng tiểu não, não bộ... Tùy theo nguyên nhân mà ta có những phương pháp điều trị thích hợp. Việc đầu tiên là cần phải điều trị tận gốc các bệnh đã gây nên triệu chứng run tay như bệnh Basedow, hội chứng cường giáp, tiểu đường, rối loạn thần kinh thực vật...
3/ Run tay kèm với tê rần và cảm giác bì bì ở các ngón tay giữa thì phải lưu ý đến hội chứng ống cổ tay do dây thần kinh giữa trong ống cổ tay bị chèn ép. Để xác định chẩn đoán hội chứng ống cổ tay, ngoài việc khám lâm sàng, bác sĩ còn phải thực hiện xét nghiệm máu, chụp X-quang cắt lớp cột sống cổ hoặc đo điện thế hoạt động của cơ.
Ngoài ra, còn có các nguyên nhân khác như chấn thương, thấp khớp, suy tuần hoàn tĩnh mạch hay động mạch (do giảm lượng máu đi và đến các động mạch nhỏ ở ngón tay), có sự chèn ép rễ thần kinh từ trên cột sống cổ, tạo các cơn tê chạy từ cổ hay từ vai xuống bàn tay. Các chứng bệnh viêm thần kinh ngoại biên, thiếu vitamin B1, B6, B12, tiểu đường, di chứng tai biến mạch máu não... cũng có thể gây tê và yếu bàn tay, nhưng thường sẽ kèm thêm nhiều dấu hiệu khác nữa.
Y học gần đây còn phát hiện ra chứng nói lắp và run ngày càng tăng do viêm nhiễm dài ngày hệ thần kinh bởi vi khuẩn Helicobacter pylori (loại thường gây ra viêm loét dạ dày tá tràng).
Việc đầu tiên đối với người
bị run tay là nên đến khám tại khoa Nội thần kinh của các bệnh viện lớn và chụp cộng hưởng từ (MRI) để loại trừ khối u ở não. Trường hợp không tìm thấy khối u nào gây ra chứng run tay thì đó là điều đáng mừng. Người bệnh nên rèn luyện tính tự chủ, khắc phục hoàn cảnh, tập trung vào một môn thể thao hoặc thú vui nào đó thì dần dần bệnh sẽ hết. Đôi khi run tay còn là những biểu hiện của rượu. Khi lượng cồn trong máu ở mức 50-150 mg/100 ml thì có sự rối loạn trong suy nghĩ và phối hợp động tác. Nếu bỏ rượu mà vẫn tiếp tục run rẩy thì phải đi khám vì có thể là do một bệnh khác.
Điều chỉnh lại lối sống và cách làm việc để giảm stress, ngủ đầy đủ, luyện tập thể thao, không sử dụng cà phê, trà và thuốc lá là những chất kích thích hệ thần kinh. Trong một số trường hợp có thể sử dụng các loại thực phẩm giàu chất canxi như sữa bò, dùng thuốc ức chế cường giao cảm như Propranolol liều nhỏ và theo chỉ định của bác sĩ điều trị, nếu không có các chống chỉ định như suy tim, hen phế quản, rối loạn dẫn truyền trong tim.
Nếu bệnh nhẹ thì còn đỡ chứ bệnh nặng rồi sẽ nguy hiểm lắm .
Hồi hộp còn gọi là đánh trống ngực là một triệu chứng hay gặp ở rất nhiều người bị bệnh tim và cả những người không bị bệnh tim nữa. Nó không phải là một triệu chứng đặc trưng cho một nhóm bệnh tim nào.
Triệu chứng này khi chẩn đoán là dấu hiệu của một bệnh về tim mạch cần phải kết hợp với những triệu chứng khác như hay mệt, khó thở, phù chân… Việc quá lo âu với khả năng bị bệnh tim khi có cảm giác hồi hộp đánh trống ngực thường làm tăng tiết chất Epinephrine trong máu cộng với sự gia tăng hoạt động của hệ thần kinh thực vật làm gia tăng nhịp tim và sự co bóp của cơ tim càng làm nặng thêm cảm giác hồi hộp của bệnh nhân và có thể đưa đến cảm giác khó thở, tức nghẹn vùng ngực nữa. Cảm giác này rất hay xảy ra vào ban đêm hoặc khi bệnh nhân lo lắng.
Trong các điều kiện bình thường với những người khỏe mạnh có týp thần kinh trung gian trầm tĩnh và cả một số người khác cũng không cảm giác thấy tiếng đập nhịp nhàng của trái tim. Họ chỉ có thể cảm thấy đánh trống ngực và hồi hộp khi đang ở tình trạng căng thẳng vì hoạt động gắng sức, hoặc do xúc động hay hoạt động tình dục. Kiểu hồi hộp và đánh trống ngực này mang tính chất sinh lý bình thường mà nguyên nhân của nó là sự hoạt động quá mức của tim làm tim đập nhhnh và tăng co bóp. Cảm giác này có thể xuất hiện do một số bệnh đi kèm như: sốt, thiếu máu nặng hay hội chứng cường giáp. Ngoài ra, nếu cảm giác hồi hộp đánh trống ngực xuất hiện trong bất kỳ trường hợp nào cũng phải nghĩ đến bệnh tim và cần phải đến khám thầy thuốc chuyên khoa tim mạch để có một chẩn đoán chính xác nhất.
Nguyên nhân về tim mạch hay gặp nhất với những bệnh nhân bị bệnh tim mạch là tình trạng rối loạn nhịp tim bao gồm tình trạng ngoại tâm thu, cơn nhịp nhanh kịch phát, rối loạn thần kinh tim… Những bệnh này có thể là nguyên phát nhưng cũng có thể là hậu quả của bệnh van tim, bệnh động mạch vành hay bệnh viêm cơ tim. Việc chẩn đoán những rối loạn nhịp gây ra triệu chứng hồi hộp đánh trống ngực thật ra không khó, chỉ cần đến khám bác sĩ chuyên khoa tim mạch nghe tiếng tim, bắt mạch và đo điện tâm đồ. Tìm nguyên nhân gây ra tình trạng rối loạn nhịp tim có thể được xác định bằng việc siêu âm tim.
Tuy nhiên, có một số trường hợp không phải lúc nào bệnh nhân cũng có cảm giác hồi hộp đánh trống ngực thường xuyên mà chỉ xảy ra vào một vài thời điểm trong ngày nhất là vào ban đêm thì khi khám bệnh thông thường người thầy thuốc cũng không phát hiện ra. Khi đó, nghiệm pháp đo điện tim 24 giờ sẽ cho kết quả chẩn đoán chính xác nhất. Bệnh nhân được đeo một máy điện tim nhỏ, gắn các điện cực vào vùng trước tim và sinh hoạt bình thường. Tất cả các hoạt động điện của tim sẽ được máy điện tim ghi nhận và lưu trữ trong đĩa cứng của máy. Ngày hôm sau, những kết quả này sẽ được truyền qua máy tính và nhờ một chương trình đặc hiệu những rối loạn nhịp tim sẽ được ghi nhận.
Việc điều trị chứng hồi hộp đánh trống ngực không phải là dễ dàng. Việc đầu tiên là phải giải tỏa tình trạng lo âu quá đáng của bệnh nhân bằng liệu pháp tâm lý để cắt đứt bớt một phần vòng luẩn quẩn bệnh lý của chứng hồi hộp. Sau đó là sử dụng các loại thuốc chống loạn nhịp và thuốc ức chế việc tăng tiết quá đáng chất Adrenaline va Epinephrine của bệnh nhân. Tất nhiên là phải điều trị các bệnh khác gây ra tình trạng này như sốt cao, hội chứng cường giáp, thiếu máu nặng và các bệnh tim như suy tim, viêm cơ tim, thiếu máu cơ tim… Một số trường hợp phải can thiệp bằng thủ thuật cắt đốt hệ thần kinh tự chủ của tim.
Hệ thống thần kinh điều khiển hoạt động của tim rất phức tạp. Khi có các thay đổi trong dẫn truyền điện tim sẽ gây thay đổi nhịp tim: nhanh, chậm hoặc rối loạn nhịp. Trạng thái hồi hộp tim thường do nhịp tim tăng nhanh hơn bình thường, xuất hiện khi cơ thể có những cảm xúc mạnh, đột ngột, hay do tác dụng của các hóa chất, các chất kích thích hoặc bệnh tật. Ảnh minh họa (nguồn Internet) Ở người khỏe mạnh, không có bệnh tim, nguyên nhân gây hồi hộp thường gặp là: rối loạn các chất điện giải trong cơ thể như kali, magiê, calci; thiếu máu, bệnh cường tuyến giáp; do các chất kích thích: caffein trong cà phê và nước trà đặc, nicotin trong thuốc lá, thuốc lào, alcol trong rượu bia, thuốc cảm có chứa chất pseudoephedrine, thảo dược như ma hoàng, các loại ma túy: cocaine, amphetamine, PCP (phencyclidine), cần sa; thuốc trị hen suyễn như albuterol hít, theophylline, thuốc nội tiết tố tuyến giáp...; do stress gây tăng tiết chất adrenalin trong cơ thể làm tim hồi hộp; tập luyện thể lực với cường độ mạnh; các cảm xúc mạnh như vui, giận dữ, lo lắng, hẹn gặp người yêu... Ở người bệnh tim, ngoài các nguyên nhân kể trên còn có các nguyên nhân do bệnh tim mạch như: hẹp động mạch vành làm thiếu máu cơ tim, tăng tính kích thích gây ngoại tâm thu thất, nhịp nhanh thất, hoặc rung thất; bất thường về dẫn truyền gây cơn nhịp nhanh kịch phát trên thất, hội chứng Wolfe-Parkinson-White, sa van 2 lá; thay đổi về nội tiết ở phụ nữ trước, trong và sau giai đoạn mãn kinh. Cũng mắc chứng thi thoảng đánh trống ngực, khó thở nhưng không đi khám, bà Trịnh Thị Huyền, 51 tuổi nhà ở Vĩnh Cửu, Đồng Nai, cũng đã phải nhập viện trong tình trạng nguy kịch. Các bác sĩ cho biết, bà Huyền mắc bệnh lý mạch vành ở giai đoạn muộn. Người nhà cho biết, từ nhiều tháng nay bà than tim hay đập mạnh và hồi hộp nhưng nghĩ do bị mất ngủ kéo dài nên không đi khám. Các bác sĩ Hội Tim mạch Việt Nam cho biết, đánh trống ngực, hồi hộp là triệu chứng xuất hiện khi có bất thường về nhịp đập của quả tim. Người bệnh chủ quan không khám có thể gặp nguy hiểm bởi những biến chứng. Các nguyên nhân có thể gây ra tình trạng hồi hộp đánh trống ngực như căng thẳng tâm lý, cường tuyến giáp, tác dụng phụ của một số loại thuốc, bệnh lý động mạch vành, bệnh lý cơ tim hoặc bệnh lý van tim. Để chẩn đoán chính xác liệu có bất thường về nhịp tim hay không, người bệnh cần được làm điện tim đồ hoặc điện tim đồ ghi trong thời gian tối thiểu là một ngày. Một số biểu hiện thường gặp của bệnh tim mạch: Khó thở là cảm giác khó khăn khi tiến hành động tác thở. Nếu bạn thấy xuất hiện khó thở không tương xướng với mức độ hoạt động thể lực, khó thở xuất hiện đột ngột, cần phải đi khám bác sĩ. Đau thắt ngực cũng là một trong những biểu hiện thường thấy. Bất kỳ cơn đau nào như bóp nghẹt ở giữa ngực kéo dài hơn hai phút đều có thể là biểu hiện của bệnh lý tim mạch. Bạn cần gọi điện cho bác sĩ và đi khám bệnh ngay lập tức. Một số rối loạn nhịp tim hoặc bệnh lý mạch cảnh có thể gây ra ngất. Cần cấp cứu người bệnh bị ngất tại chỗ trước khi chuyển tới bệnh viện. Phù là biểu hiện thường gặp phù mắt cá chân do các bệnh lý tim mạch. Cần đưa người bệnh đi khám để xác định nguyên nhân gây ra phù chân. Tím tái là hiện tượng đổi màu phớt xanh của da và niêm mạc do máu không được bão hòa oxy đầy đủ. Tím tái thường thấy ở đầu các ngón tay và quanh môi. Tương tự như phù, tím tái là một dấu hiệu hơn triệu chứng của bệnh tim mạch. Đau cách hồi cũng là một dấu hiệu khá đặc hiệu của bệnh động mạch chi dưới. Người bệnh có biểu hiện mỏi chân và đau hoặc chuột rút khi đi lại, sau khi nghỉ thì đỡ đau chân. Độ dài, quãng đường đi hoặc mức độ đau, thời gian hồi phục phản ánh mức độ nặng nhẹ của bệnh tắc động mạch chi dưới. Cần đưa người bệnh đi khám để điều trị kịp thời.
NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH HỒI HỘP
Ba yếu tố làm cho bệnh nặng thêm là :
a-Lo lắng sẽ hại chức năng chuyển hóa của tỷ vị không biến thức ăn thành chất bổ máu mà biến thành đàm.
b-Ăn chất chua hàn lạnh, làm áp huyết thấp, phá mất máu, mất hồng cầu, làm cho tỳ hư sinh ra huyết trắng, sau thành huyết vàng rồi huyết xanh có mủ đến ung thư tử cung.
c-Không ưu tiên bổ thêm máu cho cơ thể, giống như cây khô đang thiếu nước, không chịu tưới thêm nước mà cứ đi tìm nguyên nhân tại sao cây khô héo, cành khô lá rụng. Khi chưa tìm ra nguyên nhân để chữa thì cây đã chết.
Cách điều chỉnh Tinh-Khí-Thần :
Tinh :
1-Ngưng ngay việc ăn chua, nước đá lạnh, nước mát, khổ qua, đậu xanh, dưa giá, làm mất máu hạ áp huyết, nhất là dưa leo, củ cải trắng, khoai mì, khổ qua sẽ ra huyết trắng nhiều hơn.
2-Sáng uống thuốc bổ máu Acti-B12. Trước bữa cơm 5 phút uống 2 muổng canh lớn Đương Quy Tửu với 1 ly nước nóng. Cơm ăn phải có canh thịt bò, rau dền, củ dền, bắp cải cho gừng, rau muống xào thịt bò tỏi, cá kho gừng, thịt bò cà ri, phở, bún bò huế, cháo huyết heo gừng hành…
3-Sau khi ăn cơm, uống những loại nước trà pha chế sau đây :
a-Trà gừng mật ong và trần bì (vỏ quýt khô) làm ấm bao tử, tiêu hóa đàm.
b-Trà Đương Quy Táo đỏ bổ máu, ấm huyết.
c-Trá Táo đỏ Nhãn nhục, bổ máu, bổ tim, an thần, ngủ ngon.
Không được uống trà Hoa Cúc, trà xanh, trà Hà thủ Ô, làm mát cơ thể.
4-Tối đi ngủ uống 25 viên Phụ Tử Lý Trung Hoàn làm ấm cơ thể, tăng dưong khí cầm mồ hôi, bổ tỳ thận, ngừa ung thư tử cung, chữa bệnh huyết trắng, cơ thể suy nhược.
Những loại thức ăn, thuốc uống trên giúp tăng áp huyết, tăng máu, áp dụng cho đến khi áp huyết lên 130mmHg thì ngưng, lúc đó cơ thể ấm, người khỏe mạnh, hết huyết trắng, không lo sợ bị ung thư tử cung và ung thư máu.
Khí :
Cần nhất phải tập khí công thì thức ăn thuốc uống mới được chuyển hóa, nếu không tập khí công thì những thuốc chữa đúng bệnh cũng trở nên vô dụng.
1-Tập 7 bài đầu khí công.
2-Đứng Hát Kéo Gối Lên Ngực 200 lần sau đó ngậm miệng giữ khí làm mạnh tâm phế, làm ấm nóng người.
3-Tập Cúi Ngửa 4 Nhịp 20 lần cung cấp máu nuôi não để ngừa chóng mặt, nhức đầu, rụng tóc, hay quên, giảm đau, an thần..
4-Nằm tập bài Nạp Khí Trung Tiêu 5 lần để trục hàn lạnh trong tử cung, hàn lạnh trong cơ thể, sau đó tập tiếp bài Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng 200 lần để thông khí huyết toàn thân, thông lục phủ ngũ tạng, kích thích chức năng hoạt động của tạng phủ hoạt động mạnh hơn. Sau khi tập xong, ngâm miệng thở bằng mũi để giữ khí, giữ thân nhiệt.
Mỗi ngày tập 3-5 lần.
Nếu có máy đo đường trong máu, cần phải thử đường trước khi tập, nếu thấy đường trong máu thấp dưới 6.0mmol/l thì nên uống 1 ly nước nóng gừng pha mật ong, cho ấm người và cho tăng đường trong máu, rồi mới tập, sau khi tập xong đo lại đường trong máu, sẽ thấy xuống dưới 6.0mmol/l. Nếu không uống chất ngọt trước, thì sau khi tập đường trong máu sẽ xuống dưới 4mmol/l, sẽ làm hạ áp huyết, gân tay chân co rút, khó thở mệt mỏi.
Thần :
Trước khi đi ngủ, xông cửa mình bằng 1 củ Nghệ giã với 1 muổng phèn chua giã thành bột, nấu với 1 lít nước. xông 30 phút, chữa viêm, rát, ngứa, nhiễm trùng bộ sinh dục. Trước khi đi ngủ đắp cao khoai sọ với gừng, chữa bệnh sa tử cung và huyết trắng, ngừa ung thư tử cung, dùng nylon và khăn quấn chặt lại ngủ qua đêm, sáng gỡ ra. Nằm thiền thở Đan Điền Thần, giúp giảm đau ngứa, an thần, ngủ ngon.
Chữa bệnh hôi nách bằng phương pháp dân gian
Cách chữa bệnh ra mồ hôi tay chân nhanh
Tác dụng chữa bệnh của quả đu đủ xanh
Hòa Hãn Linh điều trị bệnh ra nhiều mồ hôi
Bệnh Pakinson và cách chữa trị
Dấu hiệu nhận biết và cách chữa trị bệnh cương giáp
Rối loạn thần kinh thực vật và cách điều trị -
Cách chữa hôi miệng hiệu quả bạn nên biết
(ST)