Bài thuốc Đông y chữa bệnh sỏi thận
Chữa bệnh sỏi thận bằng quả thơm rất tốt
Cây thuốc hay trị bệnh đường tiết niệu
1. Kim tiền thảo
Kim tiền thảo còn gọi là vẩy rồng, mắt trâu, đồng tiên lông, tên khoa học Desmodium styracifolium (Osb.) Merr., thuộc họ đậu.
Cây nhỏ cao 40-80cm, mọc bò. Thân rạp xuống, đâm rễ ở gốc rồi mọc đứng. Cành non hình trụ, khía vằn và có lông nhung màu rỉ sắt. Lá mọc so le gồm một hoặc ba lá chét, dài 2,5 - 4,5cm, rộng 2 - 4cm; lá chét giữa hình mắt chim, các lá chét bên có hình bầu dục – mắt chim, mặt trên lá có màu lục, nhẵn, mặt dưới lá có lông trắng bạc và mềm. Cụm hoa chùm hay chùy ở nách lá hay ở ngọn, có lông mềm, thường có lá ở gốc các hoa. Hoa màu hồng, xếp 2 - 3 cái một. Quả thõng, hơi cong hình cung, có 3 đốt. Mùa hoa tháng 6 - 9, quả tháng 9 - 10.
|
Kim tiền thảo trị các bệnh đường tiết niệu hiệu quả. Ảnh: thuocnam |
Kim tiền thảo mọc hoang ở các đồi vùng trung du hoặc vùng núi. Thường gặp ở chỗ sáng, trên đất cát pha. Người ta thu hái toàn cây vào mùa hè-thu, dùng tươi hay phơi khô để dùng dần.
Theo Đông y, kim tiền thảo có vị ngọt nhạt, tính mát, tác dụng thanh nhiệt, tán thấp, lợi niệu, thông đàm.
Thường dùng chữa sỏi niệu đạo, sỏi bàng quang, sỏi túi mật, nhiễm khuẩn đường tiết niệu, viêm thận phù thũng, viêm gan vàng da. Ngày dùng 15-60g, dạng thuốc sắc uống. Phụ nữ có thai không nên dùng.
Một số bài thuốc dùng kim tiền thảo
- Sỏi đường tiết niệu: dùng kim tiền thảo 60g, nấu với 500ml nước, sắc còn 150ml, chia 2-3 uống trong ngày.
Hoặc dùng bài thuốc: Kim tiền thảo 30g, cây râu mèo 20g, rễ cỏ tranh 12g, mã đề 10g. Nấu với 750ml nước, sắc còn 200ml, chia 2 lần uống trước bữa ăn. Liệu trình uống 30 ngày.
- Nhiễm trùng đường tiết niệu: Kim tiền thảo 30g, mã đề 16g, kim ngân hoa 16g, bồ công anh 16g, thổ phụ linh 16g. Nấu với 750ml nước, sắc còn 300ml, chia 2 lần uống llúc đói bụng.
- Phù thũng do viêm thận cấp, viêm gan vàng da, viêm mật: Kim tiền thảo 60g, mộc thông 20g, cỏ xước 20g (hoặc ngưu tất 20g), chi tử 10g, rễ tranh 10g, mã đề 10g. Sắc uống như trên.
2. Mã đề
Cây mã đề còn gọi là xa tiền thảo, su ma (Tày), nhả én dứt (Thái), nằng chấy mía (Dao), tên khoa học Plantago major L., thuộc họ Mã đề - Plantaginaceae.
Cây thảo sống lâu năm, cao 15-20cm, thân ngắn. Lá mọc thành cụm ở gốc, có cuống rộng, ngắn hơn phiến; phiến lá hình thìa hay hình trứng, có 2-3 gân lá hình cung. Hoa nhỏ màu trắng, xếp thành bông dài, mọc đứng. Quả hộp nhỏ hình cầu, chứa 6-18 hạt. Hạt nhỏ tròn hay bầu dục, to 1-1,5mm, màu đen bóng. Mùa hoa quả tháng 5-8.
|
Mã đề có tính hàn, vị ngọt, không độc, tác dụng lợi tiểu. Ảnh: thuocnam. |
Mã đề mọc hoang và được trồng khắp nơi để làm thuốc. Người ta cho rằng lọai cây này thường mọc ở những vết chân của ngựa nên trước kia gọi là mã đề (mã: ngựa, đề: móng chân). Vào khoảng tháng 7-8, lúc quả đã chín, thu hái toàn cây về, cắt bỏ rễ, rửa sạch đất cát, cắt từng đoạn ngắn 3-5cm, phơi khô. Muốn lấy hạt thì đập và giữ lấy hạt, rây qua rây rồi phơi khô, bảo quản nơi khô ráo để dùng.
Cây mã đề cho các vị thuốc có tên sau:
- Mã đề thảo (Herba Plantaginis) là toàn cây đã bỏ rễ, phơi hay sấy khô.
- Mã đề diệp, lá mã đề (Folium Plataginis) là lá tươi hay đã phơi hoặc sấy khô.
- Xa tiền tử (Semen Plantaginis) là hạt mã đề đã phơi hoặc sấy khô.
Toàn cây mã đề có chứa một glucosid là aucubin hay rinantin. Lá có chất nhày, chất đắng, caroten, saponin, vitamin A, C và K, acid citric. Trong hạt có nhiều chất nhày, acid plantenolic, adenin và cholin.
Theo Đông y, mã đề có tính hàn, vị ngọt, không độc, tác dụng lợi tiểu, tiêu viêm, thấm bàng quang thấp khí, thanh phế nhiệt, thanh can phong nhiệt, làm long đàm.
Toàn cây hoặc hạt mã đề dùng chữa phù thũng, bí tiểu tiện, tiểu tiện ra máu, sỏi thận, ho lâu ngày, viêm phế quản, đau mắt đỏ, kiết lỵ, tiêu chảy, cao huyết áp, phụ nữ đẻ khó. Ngày dùng 8-16g, dạng thuốc sắc uống hoặc nấu cao để uống; đắp cao chữa bỏng, mụn nhọt. Lá tươi rửa thật sạch với nước muối loãng, giã nát đắp mụn nhọt giúp mụn nhọt chóng vỡ và mau lành. Dùng ngoài không kể liều lượng.
Lưu ý, những người bị tình trạng thận dương hư yếu, đi tiểu quá nhiều, tiểu đêm nhiều lần, hoặc dương khí bị hạ giáng, tinh khí không vững thì không nên dùng mã đề.
Một vài bài thuốc có dùng mã đề
- Chữa phù thũng và nhiệt tả: Hạt mã đề, hạt ý dĩ, mỗi thứ khoảng 300-500g, trộn đều, sao chín, tán thành bột. Ngày uống 3 lần, mỗi lần khoảng 10-12g, trước bữa ăn.
- Người cao tuổi đi tiểu ra máu do nhiệt: Hạt mã đề 30-50g, nấu với 600ml nước, sắc còn 300ml, bỏ bã lấy nước. Dùng nước này nấu với 100g hạt kê thành cháo kê. Ăn vào lúc đói bụng.
- Người cao tuổi bí tiểu: Toàn cây mã đề tước bỏ rễ, rửa thật sạch, giã nát, vắt lấy nước khoảng 1 chén. Hòa với 1 ít mật ong, uống vào là đi tiểu thông ngay (Nam dược thần hiệu).
- Chữa đi tiểu ra máu: Mã đề tươi 100g, cỏ mực (cỏ nhọ nồi) tươi 100g. Hai thứ rửa thật sạch, giã nát, vắt lấy nước cốt (khoảng 1 chén), uống vào lúc đói bụng.
Theo sách Nam dược thần hiệu của Tuệ Tĩnh, hạt mã đề có vị ngọt, tính hàn, tác dụng lợi tiểu tiện, ngừng tiêu chảy, thông tiêu gắt, trừ tê thấp, ích tinh khí, giúp dễ sinh đẻ. Khi dùng thì bỏ màng ngoài, dùng lửa nhỏ sao đến khi hạt phồng lên, chuyển màu đen nâu là được. Dùng trong các trường hợp tiểu vàng đỏ, tiểu buốt, tiểu ra máu khi bị viêm nhiễm đường tiết niệu và sỏi tiết niệu.
3. Trạch tả
Cây trạch tả còn gọi là mã đề nước, tên khoa học Alisma plantago - aquatica L., thuộc họ Trạch tả - Alistaceae.
Cây thảo, cao 40-50cm, có thân rễ hình cầu hay hình con quay, màu trắng. Lá dai, phiến lá hình trái xoan – mũi mác, giống lá mã đề, cuống lá dài bằng phiến, có bẹ to mọc ốp vào nhau thành hình hoa thị. Cụm hoa chùy to, cao 30-120 cm, lưỡng tính, có 3 lá đài màu lục, 3 cánh hoa trắng hoặc hơi hồng, nhị 6, lá noãn 20-30 đính theo một vòng. Quả bế dẹp. Mùa hoa quả tháng 10-11.
Trạch tả mọc hoang ở những nơi ẩm ướt (đầm ao, ruộng…) và cũng được trồng để lấy thân rễ làm thuốc. Người ta thu hái thân rễ vào mua thu, rửa sạch, cạo hết rễ nhỏ, phơi hoặc sấy khô, bảo quản nơi khô ráo để dùng. Khi dùng, có thể sao vàng hoặc tẩm rượu hay tẩm muối, sao vàng.
|
Trạch tả mọc hoang ở những nơi ẩm ướt. Ảnh: vnthihuu. |
Vị thuốc trạch tả có tác dụng thông tiểu rất mạnh nên được đặt tên với ý nghĩa "tát cạn nước trong đầm". Phân tích trong thân rễ trạch tả có chứa: tinh dầu có asiol A, B, C và epiasiol A, chất nhựa, protid và tinh bột 23%.
Theo Đông y, trạch tả có vị mặn, ngọt, tính hàn, tác dụng lợi thủy trừ thấp, tả hỏa chỉ lỵ, tiêu khát, tiêu bĩ mãn. Ngoài ra còn có tác dụng kích thích, nhuận trường, lợi sữa, long đàm, chống nôn.
Thường dùng chữa một số bệnh đường tiết niệu như: tiểu tiện không thông, bí tiểu, tiểu dắt, tiểu buốt, tiểu ra máu, thủy thũng, viêm thận, bụng đầy trướng. Ngoài ra còn dùng chữa tiểu chảy, kiết lỵ, viêm gan vàng da, mắt đỏ, bạch đới, di tinh… làm thuốc lợi sữa cho phụ nữ sau khi sinh, chữa chứng hoa mắt chóng mặt (huyễn vựng).
Ngày dùng 8-16g dạng thuốc sắc hoặc tán bột làm viên (dùng với một số dược liệu khác).
Để tả thấp hỏa, người ta sao trạch tả cháy thành than, gọi là trạch tả thán. Lá trạch tả (trạch tả diệp) có tính bình, vị mặn, không độc. Thường được dùng chữa bệnh ngoài da (phong độc), giúp lợi sữa, giúp dễ sinh nở. Hạt trạch tả cũng có tác dụng lợi tiểu như hạt mã đề (xa tiền tử). Tuy nhiên cần lưu ý không uống nhiều trạch tả quá, có thể gây ra chứng đau mắt, do lợi thủy thái quả có thể sinh hỏa thịnh.
Một số bài thuốc có dùng trạch tả
- Chữa thủy thũng: Trạch tả (sao vàng), bạch truật (sao vàng), hai thứ lượng bằng nhau 50-80g, tán nhỏ. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 8-12g. Dùng nước sắc phục linh để uống kèm, uống trước bữa ăn.
Hoặc dùng bài "Phục linh trạch tả thang"
Trạch tả 6g, phục linh 6g, bạch truật 4g, cam thảo 2g, quế chi 2g. Nấu với 600ml nước, sắc còn 200ml, chia 2-3 lần uống trước bữa ăn.
- Trường hợp thuỷ thũng có kèm đi tiểu đục, dùng bài thuốc sau:
Trạch tả 12g, ý dĩ (sao) 12g, tỳ giải 10g. Sắc uống như trên hoặc tán bột để uống trong ngày.
- Trạch tả là vị thuốc có một vai trò quan trọng trong bài thuốc "Lục vị địa hoàng hoàn". Ngoài tác dụng thanh tả thận hỏa, trạch tả còn giúp làm bớt sự nê trệ của vị thuốc thục địa (Quân). Bài thuốc Lục vị địa hoàng hoàn gồm có:
Thục địa 20-32g, sơn thù 10-16g, trạch tả 8-12g, hoài sơn 10-16g, phục linh 8-16g, đơn bì 8-12g. Nấu với 750ml nước sắc còn 300ml, chia 2-3 lần uống vào lúc đói bụng. Có thể tán bột, luyện với mật ong để làm hoàn. Ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 12-16g.
Đây là bài thuốc chủ yếu để tư bổ can thận, dùng trong trường hợp can thận âm hư, viêm thận mãn, suy nhược cơ thể, suy nhược thần kinh, đái tháo đường, cao huyết áp, mỡ trong máu tăng… do âm hư.
Bài Lục vị thêm hai vị thuốc là nhục quế, phụ tử, gọi là Bát vị hay Thận khí hoàn, có công dụng chữa thận dương hư. Dùng trong các trường hợp bệnh mãn tính như: viêm thận mãn, liệt dương, tiểu đêm, suy nhược cơ thể, suy nhược thần kinh… do dương hư.
4. Cây dứa dại
Cây dứa dại còn gọi là dứa gai, dứa gỗ, tên khoa học Pandanus odoratissimus L.f (P.tectorius Park, ex Z.), thuộc họ Dứa dại.
Cây nhỏ, phân nhánh ở ngọn, cao 2-4m, với rất nhiều rễ phụ trong không khí thòng xuống đất. Lá ở ngọn các nhánh, hình dải dài 1-2m, trên gân chính và hai bên mép có gai nhọn. Bông mo đực ở ngọn cây, thõng xuống, với những mo màu trắng, rời nhau, hoa rất thơm; bông mo cái đơn độc, gồm rất nhiều lá noãn. Cụm quả tạo thành một khối hình trứng dài 16-22cm, có cuống, màu da cam, gồm những quả hạch có góc, phẳng và thành bướu ở đỉnh, với hạch rất cứng, nhiều cạnh, xẻ thành nhiều ô.
|
Quả dứa dại có tác dụng trị lỵ, giải nhiệt độc và trị ho. Ảnh: baokhanhhoa. |
Cây mọc hoang trên những bãi ẩm có cát, trong các rú bụi ven biển, dọc các bờ ngòi nước mặn, rừng ngập mặn. Ở Việt Nam, dứa dại còn tìm thấy dọc theo các bờ sông ở khắp các miền đất nước, từ Hòa Bình cho đến Kiên Giang.
Những bộ phận được dùng làm thuốc là rễ, quả, hạt và lá. Rễ thu hái quanh năm, thu hái các rễ chưa bám đất tốt hơn là rễ ở dưới đất, thái mỏng, phơi hoặc sấy khô để dùng dần. Quả thu hái vào mùa đông, thường quả chín rụng trôi theo dòng nước, người ta vớt lên, đem về dùng tươi hay phơi khô đều dùng được.
Theo Đông y, rễ dứa dại có vị ngọt nhạt, tính mát, tác dụng làm ra mồ hôi, giải nhiệt, giải độc, tiêu viêm, lợi tiểu. Thường dùng trị cảm mạo phát sốt, viêm thận thủy thũng, nhiễm khuẩn đường tiết niệu, viêm gan, xơ gan cổ trướng. Liều dùng 15-30g dạng thuốc sắc uống. Rễ chìm dùng trị mất ngủ.
Quả dứa dại có tác dụng trị lỵ, giải nhiệt độc và trị ho. Liều dùng 30-100g dạng thuốc sắc. Hạt dùng trị viêm tinh hoàn, trĩ, liều dùng 30-60g dạng thuốc sắc.
Lá dứa dại có vị đắng, cay, thơm, có tính kích thích, diệt khuẩn. Người ta dùng lá trị cảm mạo nhức đầu, thấp khớp, ghẻ lở do nhiệt độ. Liều dùng 20-30g, sắc uống hoặc phối hợp với các vị thuốc khác cùng công dụng.
Một số bài thuốc sử dụng dứa dại
- Tiểu tiện khó, tiểu gắt, tiểu ra sỏi: Dùng 6-12g rễ, 15-20g đọt non, 12-20g rễ cây dứa (thơm, khóm). Sắc với 500ml nước còn lại 200ml chia 2 lần uống trong ngày.
Trường hợp có viêm nhiễm tiết niệu, dùng bài thuốc sau: Rễ dứa dại 16g, ý dĩ 16g, trạch tả 12g, kim ngân hoa 16g, cam thảo nam 12g. Sắc với 750ml nước, còn 300ml chia 2 lần uống trước bữa ăn.
- Phù thũng nhiệt tính: Rễ dứa dại 16-20g, đậu đỏ (xích tiểu đậu) 16g, ý dĩ 16g, cam thảo nam 12g, hạt bìm bìm 8g. Sắc với 750ml còn 300ml chia 2 lần uống trước bữa ăn.
Theo kinh nghiệm dân gian Trung Quốc, người ta dùng rễ dứa dại 40-60g nấu với thịt và cật heo để ăn, trị viêm thận phù thũng.
- Sỏi thận: Hạt dứa dại 10g, hạt chuối hột 10g, kim tiền thảo (đồng tiền lông) 15g, củ cỏ ống 10g. Sắc với 750ml còn 300ml chia 2 lần uống trong ngày.
Người dân đồng bằng sông Cửu Long còn dùng rễ dứa dại chữa tiểu vàng, nóng, gắt trong bài thuốc sau: rễ dứa dại 16g, rau dừa nước (du long thái) 16g, râu bắp 12g, vỏ quýt 6g, mã đề 8g, rau má 8g, cỏ mần chầu 6g, cam thảo nam 6g. Sắc với 750ml còn 300ml chia 2 lần uống trong ngày.
5. Trái dứa (thơm, khóm)
Trái dứa là loại trái cây nhiệt đới, chứa nhiều chất bổ dưỡng. Theo Đông y, trái dứa có vị chua ngọt, tính bình, tác dụng giải khát, sinh tân dịch, trợ tiêu hóa, nhuận trường. Thường dùng trong các trường hợp: thiếu máu, thiếu khoáng chất, ăn uống khó tiêu, xơ cứng động mạch, viêm khớp, thống phong, rối loạn tiêu hóa dạ dày - ruột.
Dùng quả thật chín gọt bỏ vỏ, bỏ mắt, để tươi hoặc ép lấy nước uống. Nên ăn với một chút muối ớt để khỏi bị rát lưỡi.
Để chữa sỏi bàng quang nên dùng rễ cây dứa theo cách sau: rễ dứa 30-40g, xắt nhỏ, sắc với 650ml nước còn lại 300ml chia uống 2 lần sau khi ăn.
Người bị sỏi nên tránh hoặc hạn chế các thức ăn có nhiều oxalat như khoai lang, đậu phộng, mướp, tỏi tây, mù tạt, sơri, mận, đỏ, cam, nho…
Các thức uống cần tránh: Nước trà, cacao, rượu bia, súp cà chua…
Điều đáng lưu ý là phải uống nhiều nước để tạo ra nhiều nước tiểu, nhất là trong những ngày nắng nóng hoặc khi phải hoạt động nhiều.
Vào năm 1996, quả thận bên phải của vợ tôi có 2 viên sỏi to, về khám ở Bệnh viện đa khoa Bắc Ninh. Siêu âm có kết quả: 1 viên 1,2cm, 1 viên 0,9cm. Theo lời khuyên của bác sĩ thì nên gắp ra, không nên tán vì đã quá to.
Gia đình đã làm thủ tục vào viện để mổ. Khi chờ ở phòng để làm thủ tục có nghe một bà người nhà bệnh nhân hỏi: “Chị vào chữa bệnh gì?”. Vợ tôi trả lời: “Mổ sỏi thận”. Bà ấy nói rất tự tin: “Tưởng bệnh gì chứ sỏi thận thì uống nước lá tre cũng ra làm gì phải mổ”. Vì đã quyết định rồi, hơn nữa còn bán tin bán nghi nên chúng tôi không thay đổi ý định. Khi mổ, bác sĩ đã lấy ra 2 viên sỏi nhẵn màu nâu, tôi có mang về nhà lưu lại. Hai năm sau vợ tôi lại thấy đau, đi siêu âm lại có viên sỏi tái phát. Đúng như lời bác sĩ dặn khi về phải uống thuốc chống tái phát. Lúc này mới hồi tưởng câu nói của bà già nọ. Thế là tôi bắt đầu lấy lá tre vào các buổi sáng, đun bằng siêu nhôm cho vợ tôi uống hằng ngày. Quá trình uống thì thấy dễ chịu. Đúng một tháng 16 ngày, một cơn đau dữ dội, hội chứng nôn. Theo chẩn đoán của trạm xá xã thì đây là sự vận động của viên sỏi. Trạm xá cho uống thuốc giãn đường tiết niệu. Đến đêm, vợ tôi đi tiểu thì viên sỏi rơi xuống chậu gây ra tiếng kêu. Viên sỏi bằng hạt ngô to tôi còn giữ lại. Từ đây vợ tôi không hề bị tái phát kể cả không uống nước lá tre nữa. Đúng như lời bà cụ nọ: “Uống nước lá tre ra sỏi thận”. Các bạn ai đó thử nghiệm xem.
Chữa sỏi thận, sỏi mật bằng thảo dược
Chỉ uống thuốc nước chế từ thảo dược, không ít người bị sỏi thận, sỏi mật sau một thời gian dùng thuốc, sỏi đã tự bào mòn. Bác sỹ, đại tá Đỗ Đoàn Sinh - nguyên là trưởng khoa ngoại Bệnh viện 198 (Bộ Công an) là người đang giữ bài thuốc đặc biệt này.
Tìm đến số nhà 106, nằm trên con đường mà người dân quanh vùng quen gọi là “Đường Ướp Lạnh” (thuộc Tổ 14, thị trấn Cầu Diễn - Từ Liêm - Hà Nội), chúng tôi gặp bác sỹ Đỗ Đoàn Sinh, nay là ông lão râu tóc bạc trắng, đeo cặp kính trắng, với dáng vẻ nhân từ, phúc hậu. Bác sỹ Đoàn Sinh sinh năm 1935, nguyên là trưởng khoa ngoại Bệnh viện 198 (Bộ Công an). Tuổi cao, nhưng ông vẫn làm việc cần mẫn, với kinh nghiệm hàng chục năm trong nghề, nay về hưu hàng ngày ông chế thuốc từ thảo dược. Bác sỹ cho biết, chữa sỏi mật, sỏi thận bằng thảo dược là bài thuốc bí truyền mà từ đời ông nội của ông đã truyền lại cho người bác ruột (là thầy thuốc đông y Đỗ Đoàn Thiệp). Ngay từ hồi còn trẻ, ông đã được người bác ruột truyền lại bài thuốc này.
Với bài thuốc gia truyền này, người bị sỏi thận uống thuốc vào sỏi sẽ tự bào mòn, bài tiết theo đường nước tiểu. Người bị sỏi mật, uống thuốc sỏi tự bào mòn, sau đó xuống ruột, bài tiết theo đường tiêu hóa. Với người bị giun chui ống mật, uống thuốc vào sau đó giun quay trở về đường tiêu hóa. Người mắc bệnh hen phế quản uống thuốc cho đến hết hen. Bài thuốc gia truyền này chữa được ở mức độ người bị sỏi thận, sỏi mật viên nhỏ từ trên mười đến mười hai milimet trở xuống.
Theo bác sỹ Đoàn Sinh, từ ngày theo nghề y ông đã ấp ủ trong lòng một ngày nào đó sẽ dùng đến bài thuốc do cha ông truyền lại để cứu giúp người bệnh. Ngay từ năm 1980, đang là một bác sỹ Tây y nhưng ông đã cho một số bệnh nhân sỏi thận, sỏi mật dùng đến bài thuốc này. Hồi ấy, ông tham gia nhiều ca mổ cho những bệnh nhân mắc sỏi mật, sỏi thận thường thấy sau một thời gian mổ, lại tái phát. Có những bệnh nhân mổ đi mổ lại mấy lần. Ông liền cho một số bệnh nhân dùng bài thuốc của gia đình mình. Đó được coi như một giai đoạn thử nghiệm. Ông rất mừng khi biết được chính xác thuốc có hiệu quả cao. Từ đó những bệnh nhân có sỏi ở mức độ còn nhỏ ông đã chữa cho họ bằng bài thuốc này, mà không cần phải mổ.
Phương pháp chữa bệnh của ông là người bệnh đưa các kết quả xét nghiệm ở các bệnh viện đến, căn cứ vào đó để khuyên họ nên mổ, hay uống thuốc để tiêu tán sỏi. Nhiều người bệnh nghe danh ông tìm đến chữa, ông giới thiệu đến các bệnh viện làm siêu âm, xét nghiệm X-quang, sau đó mới trở lại để ông chẩn đoán xem bài thuốc của mình có thể tiêu tán sỏi hay không mới nhận lời chữa. Từng là bác sỹ chuyên khoa phẫu thuật tiêu hóa, khi nhìn vào phim X-quang nếu thấy bệnh nhân nào sỏi tán được ông khuyên uống thuốc, sỏi quá to ông khuyên đi mổ.
Thuốc chữa sỏi mật, sỏi thận của bác sỹ Đoàn Sinh thuộc dạng thuốc nước, có màu nâu sẫm, trông gần giống như mật gấu. Mỗi ngày người bệnh chỉ cần uống hai mililit, bằng cách dùng xilanh hút từ lọ thuốc ra chén để uống đúng liều lượng. Một ca mổ sỏi thận, hay sỏi mật có khi tốn kém tới chục triệu bạc, chưa kể gây đau đớn cho bệnh nhân. Vậy nhưng, có bệnh nhân hợp thuốc chỉ cần uống một lọ thuốc của bác sỹ Đoàn Sinh, đã không còn thấy sỏi. Theo ông, thời gian chữa theo bài thuốc gia truyền của ông là không định được, do tính chất sỏi mỗi người một khác.
Năm bài thuốc đơn giản, rẻ tiền chữa bệnh sỏi thận và mật
Năm nay tôi 77 tuổi, bị bệnh sỏi thận tái phát đi, tái phát lại phải chạy chữa tốn kém. Thật may, ông anh cho một quyển sách chữa bệnh bằng cây nhà lá vườn.
Tác giả là một cha cố ở Mỹ viết về quả đu đủ chữa được 8 bệnh, trong đó quả đu đủ xanh làm tan sỏi thận, sỏi mật. Tôi thực hiện ngay ăn 7 quả đu đủ trong 7 ngày, đi siêu âm sỏi đã tan hết. Từ đó tôi phổ biến cho 7 người ăn đu đủ xanh thì 6 người khỏi. Bài thuốc đơn giản mà hiệu quả nên tôi viết bài báo "Đu đủ xanh có thể làm tan sỏi thận, sỏi mật" cho Báo Người cao tuổi (đăng ở Đặc san tháng 4-2010). Ban đầu tôi viết chưa tỉ mỉ, chi tiết nên độc giả khắp cả nước gọi điện thoại về hỏi thêm, nhất là sau số báo tháng 6-2010 ra thì hằng ngày có tới hơn chục cuộc điện thoại hỏi về cách ăn đu đủ chữa sỏi thận. Tôi đã hướng dẫn chi tiết cách sử dụng cho rất nhiều người. Qua 6 tháng, tôi tiếp nhận gần 500 cuộc điện thoại, gọi về nhờ hướng dẫn ăn đu đủ chữa sỏi thận.
Đến tháng 5 - 2011, hồi âm đã có trên 80 người cho biết đã khỏi bệnh. Điển hình là ông Nguyễn Ngọc Hoàng Anh, xã Hương Sơn, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc (ĐT: 0978.502.069) sỏi 0,8 mm tiêu tan. Theo thống kê của ông Nguyễn Hữu Chung, Hội Người cao tuổi xã Phượng Sơn, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang (ĐT: 0976.166.970) có ông Lê Công Hội, 65 tuổi sỏi 0,70 mm-0,8 mm ăn đu đủ tiêu tan sỏi và bà con trong xóm làm theo đã có 6 người khỏi là các ông, bà: Trần Thị Xướng, Trần Thị Nhận, Đỗ Bá Ngoan, Nguyễn Viết Vui, Lý Văn Tiến, Nguyễn Kim Chinh. Ngay ở làng tôi, thôn Hội Động, xã Đức Lý, huyện Lý Nhân cũng 6 người khỏi là ông Minh, ông Sáu, ông Huyến, ông Thau, bà Phương, anh Thiết. Ông Nguyễn Văn Xướng, đường Quy Lưu, phường Minh Khai, TP Phủ Lý bị sỏi mật, vợ là bà Nguyễn Thị Thịnh bị sỏi thận 3 viên to. Hai ông bà thực hiện ăn đu đủ xanh đều khỏi bệnh. ông Nguyễn Văn Đấu người cùng làng tôi là cán bộ về hưu ở số nhà 12 tổ 17 - phường Phan Đình Phùng, TP Thái Nguyên bị sỏi thận chạy chữa nhiều tiền mà không khỏi. Ông chỉ ăn 7 quả đu đủ là khỏi. Ông nói: "Người nghèo được bài thuốc này là thần tiên". Còn nhiều người nữa không kể hết được. Cũng có một số người ăn đu đủ xanh không khỏi bệnh là do ăn chưa đúng cách, chưa đủ liều hoặc do cơ địa không phù hợp, còn loại sỏi san hô không tiêu tan được.
Nay tôi hướng dẫn thêm bài chữa bằng đu đủ và sưu tầm thêm 4 bài nữa chữa sỏi thận để bạn đọc tham khảo, nếu áp dụng mà không khỏi, không phù hợp thì chữa sang bài kia. Nếu hợp, may mắn là khỏi, không tốn tiền, không phải mổ.
Bài 1: Dùng quả đu đủ xanh
Chọn quả đu đủ độ 400 - 600 gam không già, không non, loại quả bánh tẻ, vỏ còn xanh, còn nhiều nhựa trắng, tác dụng chính là nhựa (quả già ít nhựa, non ăn thì đắng, quả bé không đủ sức bào mòn sỏi). Khi ngắt quả rửa sạch cắt đầu, cắt đuôi moi hết hột bỏ đi, cho thêm ít muối vào quả đu đủ cho vừa ăn để nguyên cả vỏ xanh và nhựa đặt vào cái nồi con, hay cặp lồng, đổ nước đun cách thủy độ 30 phút quả chín, ăn mỗi ngày một quả. Sau bữa ăn an toàn dạ dày. Tùy theo sỏi to nhỏ mà dùng, sỏi dưới 10 mm thì ăn 7 quả, nếu trên 10 mm phải ăn nhiều hơn, ăn liên tục, không kiêng kị gì, người khó ăn có thể chấm đường cho dễ.
Bài 2: Dầu ô liu và quả chanh
Tỉ lệ một thìa dầu ô liu một quả chanh vừa phải, căn cứ vào lượng sỏi to nhỏ mà dùng như sau:
Sỏi trung bình trên dưới 10 mm ngày 6-7 quả chanh vắt lấy nước hòa với 6 đến 7 thìa dầu ô liu, quấy đều, đổ thêm 3 - 4 bát nước lã đun sôi để nguội hòa đều rồi uống. Uống sau 3 - 4 giờ đi tiểu liên tục hứng vào bô để lắng, xem dưới đáy bô có cặn trắng là tốt. Sỏi nhỏ có thể làm một lần, nếu sỏi to có thể làm 2 đến 3 ngày.
Bài 3: Rau om nước dừa
Rau om ở miền Nam thường dùng nấu canh chua (ở miền Bắc gọi là rau ngổ) thường mọc ở các bờ ao, các mương máng. Có loại trắng thường làm rau thơm ăn với thịt chó. Loại đỏ dùng cũng được. Lấy độ 1 kg đem giã nát vắt lấy nước cốt hòa với nước dừa uống ngày 2 - 3 lần nếu là khô dùng 5 - 6 lạng sắc uống ngày 2 -3 lần. Thời gian dùng 5 - 7 ngày tùy lượng sỏi. Đây là bài thuốc của Hòa Thượng Thích Giác Nhiên.
Bài 4: Hoa cây đu đủ đực
Hoa cây đu đủ đực ngắt xuống giã nát, hòa với nước lã đun sôi để nguội trộn đều vắt lấy nước uống ngày ba lần. Tùy loại sỏi, hợp là tiêu tan (bài của Hòa Thượng Thích Giác Nhiên).
Bài 5: Mề gà, mật vịt
Gà vịt thường ăn lẫn đá, sỏi, cua ốc, chất rắn nhiều can-xi thế mà vẫn tiêu tan được nhờ nó có chất gì đó. Cách làm, bóc màng trong mề của con gà, con vịt đem phơi khô, tán nhỏ. Còn mật vịt lấy về ngâm rượu sau 15 ngày là dùng được. Mỗi ngày dùng ít bột của màng gà, vịt đã tán nhỏ với 2 mật con vịt ăn liên tục từ l0 -15 ngày. Nếu tìm được rễ cây cỏ xước, rễ cây xấu hổ, rễ cây dứa dại, rễ cây đỗ ván đem băm phơi khô, sắc uống thì càng tốt, chóng khỏi hơn (bài này trên ti-vi đã phổ biến)
Lương y Lương Phúc Huyên
(Xóm 7, Hội Động, xã Đức Lý,
huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.
ĐT: 0351.6298.295)
Đông Y chữa sỏi thận
Là một trong 5 bệnh Lâm của Đông y.Đặc điểm của bệnh là sự kết hợp những cục sạn (to nhỏ tùy trường hợp) trong Thận và đường tiểu, tạo nên sự ngăn trở trong việc bài tiết.Bệnh thường gặp ở phái nam nhiều hơn ở nữ. |
||||
|