Cách chăm sóc trẻ chậm phát triển trí tuệ đúng cách nhất
Cách chăm sóc trẻ bị hở hàm ếch đúng cách nhất
Quạt sưởi cho bé sơ sinh và cẩm nang chăm sóc trẻ ngày lạnh
Cách chăm sóc trẻ khi bị tay chân miệng tại nhà, đúng cách
Cách chăm sóc trẻ khi bị tay chân miệng: không được chủ quan
Trẻ em bị còi xương là do cơ thể bị thiếu hụt vitamin D làm ảnh hưởng đến quá trình hấp thu và chuyển hóa canxi và phospho.
Bệnh thường gặp ở trẻ dưới 3 tuổi, nguyên nhân chủ yếu là do thiếu ánh sáng mặt trời, do kiêng khem quá mức và chế độ ăn nghèo canxi - phospho; những trẻ không được bú mẹ dễ bị còi xương hơn trẻ bú mẹ.
Nguyên nhân còi xương ở trẻ em
Thiếu ánh nắng mặt trời: đây là nguyên nhân hay gặp nhất do thói quen kiêng cữ, sợ trẻ tiếp xúc nắng sớm sẽ hay bị ốm. Điều này rất đáng buồn vì nước ta là nước nhiệt đới, hầu như quanh năm ánh sáng thừa thãi vậy mà tỷ lệ còi xương vẫn cao chỉ vì thiếu hiểu biết không cho con trẻ phơi nắng.
Nguyên nhân còi xương ở trẻ em
Các bà mẹ cần lưu ý trẻ 2 tuần tuổi đã cần được tắm nắng: tốt nhất là vào buổi sáng sớm (trước 8 giờ) nếu không có thời gian thì buổi chiều muộn. Trung bình yêu cầu 2 tiếng/tuần hay 10-15 phút/ngày tùy vào khả năng của trẻ và mức độ phát triển xương vận động (nếu trẻ ít ốm hoặc trẻ có biểu hiện của chớm còi xương có thể tắm nắng lâu hơn).
Sai lầm trong chế độ ăn dặm của trẻ: ăn sữa bò ở trẻ dưới 1 tuổi: là lứa tuổi nhu cầu vitamin D đang rất cao và nguồn dự trữ canxi hay thiếu hụt ở trẻ đẻ nhẹ cân, đẻ non, vì vậy ở những trẻ này rất thiếu vitamin D dẫn đến còi xương. Hoặc những trẻ ăn quá nhiều chất bột, đạm (thịt) gây tình trạng toan chuyển hóa – tăng đào thải canxi ra nước tiểu. Hoặc do trong chế độ ăn dặm hằng ngày không cho hoặc cho quá ít dầu/mỡ dẫn đến không có dung môi hòa tan để hấp thu được vitamin D.
Các yếu tố thuận lợi khác: tuổi (càng nhỏ càng dễ bị còi xương), đẻ non, suy dinh dưỡng bào thai, bệnh nhiễm khuẩn, trẻ rối loạn tiêu hóa kéo dài.
Những dấu hiệu chứng tỏ trẻ bị còi xương
Nếu mẹ bị thiếu canxi hoặc thiếu vitamin D, trẻ có thể bị còi xương ngay từ trong bụng mẹ. Các triệu trứng của bệnh này biểu hiện rất rõ rệt trong 2 năm đầu sau khi sinh.
Ngủ kém
Giấc ngủ ngắn, không ngon giấc, hay giật mình, dễ bị kích thích quấy khóc, hay khóc đêm…
Ngoài ra, bé còn hay ra mồ hôi trộm khi ăn, khi bú, nhất là khi ngủ.
Táo bón
Dễ bị táo bón hoặc đi ngoài phân sống cũng là một trong những triệu chứng của bệnh còi xương. Ở lứa tuổi lớn hơn, trẻ hay bị đau bụng nhưng chỉ đau một lúc rồi hết.
Trẻ hay kêu đau nhức xương vào chiều tối hoặc ban đêm. Tình trạng nhức xương hay gặp ở những xương dài, điển hình là xương cẳng chân.
Rụng tóc
Cha mẹ thường không để ý khi chỉ thấy vài sợi tóc vương trên gối. Nhưng sau đó một thời gian, tóc rụng nhiều thành mảng, có thể tròn nhẵn thín sau gáy hoặc tạo thành hình vành khăn nối từ bên tai này sang tai kia.
Đầu có bướu
Nếu bé bị còi xương ngay từ trong bụng mẹ thì biểu hiện dễ thấy nhất trong 3 tháng đầu sau sinh là có bướu đỉnh đầu, bướu trán (trán dô).
Xương biến dạng
Từ tháng 6 đến tháng 12 xuất hiện các nốt ở đầu xương sườn hoặc xương sườn bị cong gây biến dạng lồng ngực (ngực dô ức gà)
Sau 1 tuổi, quá trình biến dạng sẽ ảnh hưởng lên chi khi trẻ em tập đi như cong xương chi dưới (chân vòng kiếng), đầu gối vẹo ra ngoài, gù vẹo cột sống, khung chậu hẹp, chậm phát triển chiều cao.
Trẻ chậm mọc răng. Thông thường sẽ mọc răng ở tháng thứ 6 với bé gái và 8 tháng với bé trai).
Còi xương là một dạng bệnh lý không quá khó chữa nhưng cần được phát hiện kịp thời bởi nếu không, di chứng của nó sẽ rất nặng nề, theo trẻ đến hết cuộc đời.
- Trẻ hay quấy khóc, ngủ không yên giấc, hay giật mình, ra nhiều mồ hôi khi ngủ.
- Xuất hiện rụng tóc vùng sau gáy tạo thành hình vành khăn.
- Các biểu hiện ở xương: thóp rộng, bờ thóp mềm, thóp lâu kín, có các bướu đỉnh, bướu trán (trán dô), đầu bẹp cá trê.
- Các trường hợp còi xương nặng có di chứng: chuỗi hạt sườn, dô ức gà, vòng cổ chân, cổ tay, chân cong hình chữ X, chữ O.
- Răng mọc chậm, trương lực cơ nhẽo, táo bón.
- Chậm phát triển vận động: chậm biết lẫy, biết bò, đi, đứng…
- Trong trường hợp còi xương cấp tính: trẻ có thể bị co giật do hạ can xi máu.
Còi xương hay gặp ở trẻ nhỏ dưới 3 tuổi, vì lứa tuổi này hệ xương đang phát triển nhanh. Hậu quả của bệnh còi xương thường ảnh hưởng xấu đến phát triển thể chất, tinh thần và vận động của trẻ.
Bệnh còi xương còn có thể gây biến dạng xương và tử vong do các bệnh nhiễm khuẩn nhất là viêm phổi. Tuy nhiên, không phải bà mẹ nào cũng hiểu cặn kẽ, nhiều bà mẹ thường cho rằng trẻ suy dinh dưỡng thì mới bị còi xương, còn trẻ bụ bẫm như “ con mình” thì không thể còi xương được . Điều này không đúng, vì nhiều trẻ bụ bẫm vẫn bị còi xương. Nguyên nhân còi xương ở trẻ là do thiếu vitamin D.
Vai trò của vitamin D:
Vitamin D là vitamin tan trong chất béo và có trong thức ăn động vật như gan, cá, trứng, sữa…Vitamin D là một nhóm gồm từ D2 đến D7, trong đó 2 chất có hoạt tính mạnh nhất là D2 và D3, trong đó D3 được tổng hợp ở các tế bào da nhờ ánh sáng tử ngoại, nếu được tiếp xúc với ánh sáng mặt trời thì lượng D3 tạo ra đủ cho nhu cầu của cơ thể.Vitamin D có vai trò rất quan trọng trong quá trình tạo xương nhờ tác dụng chuyển hoá các chất vô cơ, chủ yếu là can-xi và photpho, Vitamin D làm tăng hấp thu can xi và photpho ở ruột, tăng tái hấp thu can xi ở thận, tham gia vào quá trình can xi hoá sụn tăng trưởng. Do đó vai trò của nó rất quan trọng trong sự phát triển bình thường hệ xương ở trẻ em. Ngoài ra vitamin D còn có vai trò điều hoà nồng độ can xi trong máu luôn hằng định, khi thiếu vitamin D, ruột không hấp thu đủ can xi và phot pho, làm can-xi máu giảm, khi đó can-xi bị huy động từ xương ra để ổn định nồng độ can-xi máu, nên gây hậu quả còi xương ở trẻ em, làm trẻ chậm lớn, chậm biết đi, chân vòng kiềng…, ở người lớn sẽ bị loãng xương, xương dễ gẫy.
Cách phát hiện trẻ bị còi xương:
Biểu hiện sớm của bệnh còi xương là trẻ hay khuấy khóc, nôn trớ, ngủ không yên giấc, ra mồ hôi trộm, rụng tóc phía sau đầu (vành khăn ). Nếu không điều trị, sau vài 3 tuần dần dần sẽ xuất hiện các triệu chứng ở xương. Tuỳ theo từng lứa tuổi mà biến đỏi ở xương khác nhau:
- Ở trẻ nhỏ có thể sờ thấy xương sọ mềm, do tư thế nằm đầu dễ bị méo mó, đầu bẹt phía sau, hoặc một bên. Thóp rộng chậm liền, bờ thóp mềm, đầu to có bướu, răng mọc chậm, men răng xấu.
- Ở trẻ lớn hơn thường có biến đổi xương lồng ngực, có chuỗi hạt sườn. Các xương chi xuất hiện vòng cổ tay, cổ chân. Các cơ nhẽo làm cho trẻ chậm biết lẫy, bò, ngồi, đứng, đi. Nếu không điều trị kịp thời sẽ để lại di chứng như : lồng ngực biến dạng, ngực nhô ra phía trước như ngực gà, gù, vẹo cột sống, chân tay cong, chân vòng kiềng, chân chữ bát, khung chậu hẹp.
- Các biến chứng của xương làm giảm chiều cao, hạn chế chức năng hô hấp, thay đổi dáng đi và ảnh hưởng xấu đến sinh đẻ ở trẻ gái. Ngoài ra trẻ còn bị xanh xao, thiếu máu và hay bị viêm phổi tái đi tái lại.
Phòng và điều trị còi xương:
Còi xương là một bệnh có thể phòng tránh được và ít tốn kém, vì nước ta quanh năm đều có ánh nắng mặt trời.
Để phòng còi xương cho con, thì ngay từ khi mang thai, người mẹ nên thường xuyên đi dạo ngoài trời để tiếp nhận vitamin D. Trong chế độ ăn nên ăn các loại thực phẩm có nhiều can-xi và vitamin D như cá, cua, trứng, gan, sữa… Trẻ sau khi sinh cần được bú ngay, bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Khi trẻ ăn bổ sung nên cho trẻ đủ chất, thường xuyên cho trẻ ăn cua, cá, trứng, sữa, gan, pho mai, các loại rau xanh. Chú ý bữa ăn luôn có dầu ăn hoặc mỡ để tăng hấp thu vitamin D . Trẻ luôn được sống trong môi trường trong sạch, thoáng mát, có nhiều ánh sáng. Ngay từ tháng đầu sau đẻ, cả hai mẹ con cần được tắm nắng (chỉ cần để hở hai cẳng chân cho da của trẻ tiếp xúc với ánh nắng mặt trời). Trẻ lớn hơn cho tắm nắng vào buổi sáng , tuỳ thuộc vào mùa, thời gian tăng dần 5 – 20 phút. Ở những trẻ ít được tiếp xúc với ánh nắng mặt trời (sinh vào mùa đông), trẻ đẻ thấp cân (dưới 2500 g) thì từ tuần thứ hai nên cho uống vitamin D với liều 400 đơn vị/ ngày, uống liên tục trong năm đầu. Trẻ bị còi xương do thiếu vitamin D thường thiếu cả can-xi cần cho trẻ uống thêm cả can-xi. Liều lượng và thời gian theo chỉ định của bác sỹ, vì uống không đúng có thể gây ngộ độc vitamin D. Trong một số trường hợp uống quá liều và kéo dài sẽ làm tăng can-xi máu và vôi hoá mạch máu gây sỏi thận. Với các thực phẩm chức năng có bổ sung can-xi theo hàm lượng thường thiếu hụt cần bổ sung thêm hàng ngày thì không cần dùng theo đơn của bác sĩ nhưng liều dùng cần theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
Những trẻ dễ có nguy cơ bị còi xương
- Trẻ sinh non, đẻ sinh đôi.
- Trẻ nuôi bằng sữa bò.
- Trẻ quá bụ bẫm.
- Trẻ sinh vào mùa đông.
Phân biệt còi xương và bệnh còi cọc
Trẻ còi cọc: trẻ bị suy dinh dưỡng, có số đo về cân nặng và chiều cao đều thấp hơn trẻ bình thường, cũng có thể kèm còi xương hoặc không.
Bệnh còi xương: có thể gặp ở cả những đứa trẻ rất bụ bẫm, do nhu cầu về canxi, phospho cao hơn trẻ bình thường.
Làm gì khi trẻ bị còi xương?
- Cho trẻ tắm nắng hàng ngày: để chân, tay, lưng, bụng trẻ lộ ra ngoài từ 10 -15 phút lúc buổi sáng (trước 9 giờ). Về mùa đông không có ánh nắng cho trẻ đi tắm điện ở khoa vật lý liệu pháp tại các bệnh viện. Dưới da có sẵn các tiền vitamin D là 7 dehydrocholesterol, dưới tác dụng của tia tử ngoại của ánh nắng mặt trời các tiền vitamin sẽ bị hoạt hóa chuyển thành vitamin D. Vitamin D có tác dụng điều hòa chuyển hóa và hấp thu canxi, phospho, ánh nắng mặt trời phải được chiếu trực tiếp trên da mới có tác dụng, nếu qua lần vải thì sẽ còn rất ít tác dụng.
- Cho trẻ uống vitamin D 4000 UI/ngày trong 4 - 8 tuần, trong trường hợp trẻ bị viêm phổi, tiêu chảy cần tăng liều 5.000 - 10.000 UI/ngày trong 1 tháng, hoặc cho trẻ tiêm vitamin D 200.000 UI/uống, 3 tháng tiêm nhắc lại một lần trong năm đầu tiên.
- Cho trẻ uống thêm các chế phẩm có canxi như: canxi B1 - B2 - B6: 1 – 2 ống/ngày, trẻ lớn có thể ăn cốm canxi 1 - 2 thìa cà phê/ngày.
- Cho trẻ bú mẹ; ăn bổ sung các loại thực phẩm có chứa nhiều canxi: sữa, cua, tôm, cá trong các bữa ăn hàng ngày (cần xóa bỏ quan niệm cho trẻ ăn xương ống, xương chân gà sẽ chống được còi xương); cho dầu mỡ vào bữa ăn hàng ngày của trẻ: vì vitamin D là loại tan trong dầu, nếu chế độ ăn thiếu dầu mỡ thì dù có được uống vitamin D trẻ cũng không hấp thu được nên vẫn bị còi xương.
Phòng bệnh còi xương cho trẻ
- Khi có thai các bà mẹ phải làm việc nghỉ ngơi hợp lý để tránh bị đẻ non, có thể uống vitamin D khi thai được 7 tháng: 600.000UI/3 tuần, mỗi tuần 200.000UI.
- Sau khi sinh cả mẹ và con không nên ở trong phòng tối và kín, phòng ở thoáng mát và đầy đủ ánh sáng.
- Sau khi sinh 2 tuần cho trẻ ra tắm nắng 15 - 20 phút/ngày vào buổi sáng (trước 9 giờ).
- Cho trẻ uống vitamin D 400UI/ ngày trong suốt năm đầu tiên nhất là về mùa đông.
- Khi trẻ ăn bổ sung: cho trẻ ăn các loại thực phẩm có chứa nhiều canxi như: sữa, trứng, tôm, cua, cá, rau xanh và dầu mỡ
Đông y trị bệnh còi xương ở trẻ em
Từ các vị đơn giản như mật ong, vỏ trứng gà, xương động vật hay vỏ quýt, đông y đã kết hợp để trở thành những vị thuốc hiệu quả chữa bệnh còi xương, suy dinh dưỡng ở trẻ em.
Còi xương ở trẻ em là do thiếu vitamin D. Khi trẻ bị thiếu vitamin thần kinh của trẻ bị kích thích, ngủ không yên giấc, hay giật mình, quấy khóc, trẻ đổ mồ hôi không phụ thuộc vào thời tiết. Khi sốt cao có thể bị co giật, khó thở.Chữa bệnh còi xương
Bị còi xương nặng trẻ sẽ bị yếu cơ, biến dạng xương đầu, lồng ngực, tay chân và cột sống. Ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất của trẻ. Giới thiệu cùng bạn đọc vài bài thuốc của Đông y trị bệnh còi xương ở trẻ. Nếu kiên trì thực hiện sẽ cho kết quả tốt.
Trẻ em chậm lớn, thấp bé, nhẹ cân: lấy 50g hoàng tinh, 100g mật ong. Ngâm hoàng tinh vào nước sạch cho mềm, rửa sạch, cho vào nồi luộc chín để nguội. Lại cho hoàng tinh đã nguội vào đun cùng mật ong đến khi mật ong ngấm hết vào hoàng tinh, dùng bình sứ để đựng, cho trẻ ăn dần có tác dụng bổ gan, thận.
Trẻ em thiếu canxi, chiều cao không đạt chuẩn, dậy thì muộn: dùng các loại xương lợn, gà, bò, dê, chó mỗi loại 100g. Mang tất cả các loại xương trên rửa sạch, đập nát, cho vào nồi đun kỹ lấy nước, bỏ bã. Thêm gạo vào nấu thành cháo, cho gia vị đủ dùng cho trẻ ăn. Món này có tác dụng làm mạnh gân cốt, thêm canxi cho trẻ.
Dùng 30g ngũ gia bì, táo tầu 5 quả, 15g nhân hạnh đào. Đem sắc kỹ, cho trẻ uống nước và ăn táo tầu, hạnh nhân.
Dùng 6g hạt sen, 10 cái vỏ trứng gà, 12g sơn tra. Đem sắc kỹ cho trẻ uống ngày 2 lần.
Chữa trẻ bị suy dinh dưỡng
Trẻ em dễ bị suy dinh dưỡng nhất ở lúc tuổi từ 6 đến 24 tháng. Trẻ bị suy dinh dưỡng thường ăn ít, môi xanh, niêm mạc mắt nhợt nhạt, hay quấy khóc, it hoạt động, bụng to dần, bắp thịt tay chân mềm nhão, chậm biết lẫy, ngồi, bò, đi…
Các trẻ không hoặc ít được bú sữa mẹ, trẻ sinh thiếu tháng nhẹ cân, trẻ mắc các bệnh nhiễm khuẩn đều dễ bị suy dinh dưỡng nếu thiếu điều kiện chăm sóc chu đáo. Đông y giới thiệu một số bài thuốc trị suy dinh dưỡng ở trẻ:
Lấy 2g sa nhân, cam thảo nam 4g, thạch môn 4g, sinh địa 6g, bạch truật 6g, hoài sơn 12g. Sắc uống ngày 1 thang, có tác dụng chữa sinh dưỡng do tiêu chảy kéo dài.
Lấy 5g vỏ quýt, 5g chỉ thực, 5g hoàng liên, 6g kê kim nội, 6g lạ bặc tử (sao), 10g sơn tra, 10g thần khúc, 10g mạch nha. Đổ 600ml nước sắc còn 150ml chia uống 3 lần trong ngày sau các bữa ăn hoặc lúc đói bụng (sáng, trưa, chiều). Ngày 1 thang.
Lấy 1 cái gan gà thái nhỏ, 10g ý dĩ tán bột, 15g hoài sơn. Hấp chín ngày ăn 2 lần.
Lấy 50g trần bì, 80g hạt quân tử, 100g hoài sơn, 100g hạt keo giậu, 100g thần khúc, 100g hạt sen, 100g ý dĩ. Tất cả đem phơi khô, sao vàn
Cách bổ sung vitamin D cho trẻ để hấp thụ Canxi
Bệnh loãng xương ở trẻ em nguyên nhân và cách điều trị
Tắm nắng cho trẻ.
Cách bổ sung Canxi cho trẻ để bé thêm cao lớn
Khóc dạ đề ở trẻ sơ sinh
Khóc đêm ở trẻ
(st)