Video Clip: Xạ trị ung thư ở Thanh Hóa
Tác dụng chữa bệnh của củ nghệ vàng: chống ung thư, khử trùng
Khi một phụ nữ tìm thấy một khối u ở vú thì bác sĩ sử dụng nhiều kỹ thuật thăm dò và kỹ năng để đạt đến một chẩn đoán càng chuyên biệt càng tốt. Đợt xét nghiệm ban đầu phụ thuộc vào việc liệu có phải chính người phụ nữ đó phát hiện ra khối u không, hay do trong quá trình chụp nhũ ảnh thường quy mà cục u được phat hiện. Trong trường hợp sau thì đó là cục u quá nhỏ không thể cảm nhận.
Tuy nhiên, trong tất cả các trường hợp, phải kiểm tra dưới kính hiển vi mẫu của tế bào hay của mô để xác định xem có ác tính không; nếu là ác tính thì sẽ thực hiện các xét nghiệm khác thêm nữa để đánh giá nguồn gốc chính xác của khối u cũng như mức độ và giai đoạn phát triển của nó.
Chẩn đoán lâm sàng: Bác sĩ sẽ bắt đầu kiểm tra bằng cách quan sát kỹ bộ ngực của bạn trong khi bạn ngồi và để hai tay thẳng xuống hai bên sườn, rồi sau đó là giơ tay lên cao qua đầu, nhờ đó bác sí có thể quan sát được bất cứ một sự không đối xứng nào giữa hai vú, sự thụt vào của núm vú (núm vú quay vào bên trong), sự khác biệt về vì trí giữa hai núm vú hay các dấu hiệu của sự lún da. Nếu bạn tự kiểm tra vú thường xuyên thì bạn sẽ có khả năng xác định được trong số những đặc điểm này thì đặc điểm nào là mới xuất hiện và đặc điểm nào đã có từ trước.
Sau đó bạn sẽ được yêu câu nằm ngửa, tay giơ cao qua đầu, đồng thời bác sĩ sẽ kiểm tra vú của bạn một cách cẩn thận, cảm nhận mỗi phần của vú bằng tay. Mục đích là xác định liệu có cục u nào riêng biệt và thấy rõ không hay nói chung hai vú chỉ có nhiều cục u như bình thường. Sau đó bác sĩ sẽ kiểm tra vùng dưới nách ở cả hai bên để xem có cục u nào được tạo ra do các hạch bạch huyết bị sưng lên không; và kiểm tra vùng trên xương đòn (cũng là kiểm tra các hạch bạch huyết bị sưng ở đây); và vùng bụng cùng vùng ngực. Nếu các triệu chứng của bạn là có nhiều cục u ở vú hoặc đau vú, hay cả hai, nhưng rõ ràng không có cục u nào mới, nhỏ, được phát hiện khi bác sĩ khám cho bạn thì sự xử lý về sau tuỳ thuộc vào độ tuổi của bạn. Nếu bạn dưới 40 tuổi thì có thể không có ung thư và bạn sẽ được yêu cầu tái khám trong vòng 6 tuần. Nếu bạn vẫn thấy đau ở vú và vú có nhiều khối u cứng thì bạn nên điều trị. Nếu bạn trên 40 tuổi, bạn nên chụp nhũ ảnh để đảm bảo không bỏ sót bất kỳ khối u ung thư nào đang tồn tại. Nếu ảnh chụp không cho thấy điều gì chứng tỏ đây là u ác tính thì bạn có thể yên tâm và bạn sẽ được điều trị triệu chứng nếu cần thiết. Nếu có bất cứ nghi ngờ nào về một dạng ung thư trên ảnh chụp bằng tia X thì phải chọc hút tế bào và có lẽ cũng cần phải thực hiện một số xét nghiệm khác nữa, tuỳ theo kết quả đó.
Nếu có dịch từ núm vú thì phải kiểm tra dịch để xem có máu lẫn trong đó không (điều này không phải lúc nào cũng thấy rõ được bằng mắt thường) và bác sĩ sẽ để ý kỹ xem có phải dịch chảy ra từ một ống dẫn riêng lẻ hay từ nhiều ống dẫn sữa. Núm vú tiết dịch thường liên quan tới một tình trạng lành tính, nhưng trong một vài trường hợp hiếm hoi, sự chảy dịch mặc dù là không có máu từ một hay nhiều ống dẫn có thể đòi hỏi phải kiểm tra thêm để loại trừ ung thư. Các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm của loại dịch này không đủ độ chính xác để tin cậy, do đó bác sĩ của bạn sẽ cần phải thực hiện sinh thiết.
Nếu có một khối u rõ ràng mà bác sĩ có thể cảm nhận được thì bước tiếp theo là làm sinh thiết nó, thường là bằng cách hút khối u. Mẫu của mô vú sẽ được gửi tới phòng xét nghiệm để xem xét bằng kính hiển vi.
Sinh thiết mở: Dạng sinh thiết này có thể thay thế sinh thiết bằng kim. Giống như tên của nó đã hàm chứa, thủ thuật này bao gồm: da bị cắt để làm lộ ra khối u; và khối u cùng với phần rìa của mô vú khoẻ mạnh sẽ được loại bỏ. Bất cứ phụ nữ nào trên 30 tuổi hễ phát hiện ra một khối u vú rõ ràng thì cũng nên cắt bó nó để đem đi phân tích với những phương pháp cao cấp hơn, trừ phi đã có đựơc chẩn đoán chắc chắn là bị ung thư nhờ phương pháp sinh thiết bằng kim. Trong trường hợp này có thể thực hiện ngay phương pháp phẫu thuật cuối cùng. Vì vậy, về mặt thực tiễn thì thuật ngữ “sinh thiết mở” gần như luôn mang nghĩa là loại bỏ toàn bộ khối u và tiến trình này sẽ được thực hiện ở trong bệnh viện dưới tác dụng của gây mê toàn thân.
Các biến chứng của dạng sinh thiết này rất hiếm (trong 10 ca làm sinh thiết thì có chưa tới một trường hợp bị biến chứng) nhưng cũng giống như bất kỳ tiến trình phẫu thuật nào, trong tiến trình này chắc chắn tiềm ẩn nguy cơ biến chứng. Hai loại có thể xuất hiện là khối máu tụ (vết thâm tím) và loại ít gặp hơn là nhiễm trùng. Một khối máu tụ hình thành là do máu thấm vào trong mô xung quanh vị trí sinh thiết, và có thể thấy giống như vết thâm tím với một cục u lờ mờ bên dưới trong vòng một hoặc hai ngày sau khi sinh thiết được tiến hành. Cũng như với các vết thâm khác, đó chỉ là hiện tượng cơ thể hấp thụ máu và tái tạo máu cho nên vết thâm sẽ biến mất sau khoảng một tuần.
Nhiễm trùng, nếu có, sẽ xảy ra trong tuần thực hiện sinh thiết, gây đau nhức và làm tăng thân nhiệt. Nhiễm trùng thường được chữa khỏi bằng một liều thuốc kháng sinh. Rất hiếm khi một khối máu tụ trở thành nhiễm trùng và xuất hiện áp xe. Thuốc kháng sinh sẽ được kê đơn và áp xe có thể được rạch dẫn lưu.
Phân tích sinh thiết: Mẫu sinh thiết hay cục u sẽ được gửi tới phòng thí nghiệm bệnh học, ở đó nó được cắt thành các lát rất mỏng, được nhuộm màu để hiện rõ các tế bào ung thư và được kiểm tra dưới kính hiển vi ; tiến trình này gọi là nghiên cứu mô. Nếu như phát hiện mô bị nhiễm ung thư, thì bác sĩ có thể sẽ khẳng định chắc chắn chẩn đoán và xác định được luôn chủng loại ung thư. Khối u cũng được phân loại, để cho biết mức độ ác tính của nó. Ở một vài bệnh viện, các xét nghiệm đặc hiệu có thể được tiến hành trên một lát cắt của mô biếu để làm rõ các đặc điểm giúp xác định phương pháp điều trị, và cho bệnh nhân ý tưởng về những tiên lượng trong tương lai sẽ như thế nào.
Một sinh thiết mở được tiến hành đơn giản là để loại bỏ cục u và gửi nó đi phân tích. Nếu phát hiện ung thư, bác sĩ phẫu thuật sẽ đợi để bàn bạc và chọn lựa phương pháp điều trị với người bệnh và gia đình trước khi thực hiện bất kỳ một phẫu thuật nào khác nữa. Trước đây, sinh thiết được phân tích trong khi bệnh nhân vấn đang còn tác dụng của thuốc gây mê toàn thân. Nếu khối u được chứng minh là ung thư thì phẫu thuật cắt vú dự phòng được tiến hành ngay lập tức. Việc này đã cực kỳ gây sốc cho bệnh nhân cho nên giờ đây không bác sĩ nào vội vã tiến hành phẫu thuật như thế nữa.
Chẩn đoán ung thư di căn: Một chuỗi các xét nghiệm đơn giản được thực hiện một cách tổng quát trong quá trình đánh giá ban đầu của bệnh nhằm xác định xem bệnh có lây lan đến các phần khác trên cơ thể không, ngoài sự liên quan đến các hạch bạch huyết. Những xét nghiệm này bao gồm việc chụp X-quang ngực để phát hiện những khối u thứ phát trong phổi hoặc ở màng phổi và một xét nghiệm máu để kiểm tra sự thiếu máu hay những bất thường của tế bào máu, nhằm cho biết tuỷ xương đã bị ảnh hưởng hay chưa.
Bất cứ sự bất thường nào về hóa học ở máu mà có thể cho thấy sự lây lan bệnh tới các xương hoặc gan đều được quan tâm. Nếu một phụ nữ không có bằng chứng lâm sàng bị di căn (những khối u thứ phát) và các xét nghiệm máu bình thường thì có khả năng ung thư chưa di căn. Trong những trường hợp phức tạp hơn, các xét nghiệm chuyên môn được sử dụng để tìm những ung thư di căn. Các xét nghiệm gồm chụp X-quang hay chụp cắt lớp các vị trí có thể bị bệnh của xương (xương sọ, xương sống, xương chậu và xương hông) và kiểm tra bằng siêu âm để đánh giá tình trạng của gan.
ST