Công dụng của vỏ cây quế: ổn định dường huyết

Quế giúp ổn định đường huyết trong bệnh đái tháo đường


Nhục quế

Quế là một vị thuốc quen thuộc trong cả Đông lẫn Tây y.  Quế cũng là một gia vị, một hương liệu thông dụng trong nghệ thuật ẩm thực cũng như trong công nghiệp thực phẩm.  Đặc biệt trong những năm gần đây, nhiều nhà khoa học phương Tây đang quan tâm đến giá trị hữu ích của quế trong việc điều trị các hội chứng chuyển hoá, nhất là tác dụng ổn định đường huyết trong những bệnh nhân đái tháo đường type 2.

Quế là một loại cây to thuộc chi Cinnamomum C., họ Long não (Lauracae).  Trên thị trường, tuỳ theo nguồn gốc, người ta thường phân quế làm ba loại.  Quế Thanh Hoá hoặc quế Thanh của Việt Nam (C.  Loureirii Nees), quế Srilanka (C.  Zeylanicum Nees), và Nhục quế của Trung Quốc (C.  Cassia Blume).  Ở nước ta, quế Thanh được trồng hoặc mọc hoang ở khắp các vùng rừng núi miền Bắc và miền Trung.  Quế Thanh của Việt nam được đánh giá rất cao và đã được xuất khẩu đi nhiều nước trên thế giới.  Quế làm thuốc là vỏ phơi khô của những thân cây quế.  Vỏ quế được bóc tách trên thân những cây quế to, lâu năm vào những tháng 4, 5 hoặc tháng 9, 10 để dễ thu hoạch và vỏ quế có nhiều tinh dầu, nhiều hoạt chất.

Dược tính và công dụng

Theo y học cổ truyền, quế có vị cay, ngọt, tính đại nhiệt, vào hai kinh Can, Thận.  Quế có tác dụng bổ Mệnh môn hoả, trị tay chân co quắp, đau lưng mỏi gối, các chứng thủy thủng, đi tiêu lỏng, kinh bế do hàn, các chứng viêm thận mãn tính, suy nhược sinh dục do Tỳ, Thận Dương hư.  Ngoài ra, cành nhỏ của quế thường gọi là quế chi còn được dùng để phát tán phong hàn hoặc trị đau nhức ở chân tay.  Đối với Tây y, quế hoặc tinh dầu quế có tác dụng kích thích tiêu hoá, kích thích hô hấp và cả tuần hoàn huyết.  Quế còn làm co mạch, làm tăng sự bài tiết và tăng nhu động ruột.  Tinh dầu quế còn có tính sát trùng.  Đặc biệt trong những năm gần đây, nhiều nhà khoa học phương Tây đang quan tâm đến giá trị hữu ích của quế trong việc điều trị những hội chứng về chuyển hoá.

Nếu dùng độc vị, quế thường dược dùng dưới hình thức tán bột, liều dùng mỗi ngày từ 0,5g đến 5g.  Ngoài ra, quế cũng có thể dùng dưới hình thức rượu quế, si-rô quế hoặc dùng vỏ quế mài với nước hoặc hãm quế trong nước đun sôi.

Quế giúp ổn định đường huyết

Mới đây, một cuộc nghiên cứu ở Bệnh viện trường Đại học Malmo ở Thuỵ Điển đã cho biết chỉ cần dùng một lượng nhỏ quế trong bữa tráng miệng là có thể làm ngăn chặn tình trạng tăng vọt lượng đường trong máu sau bữa ăn.  Tiến sĩ Joana Hlebowicz và các cộng sự đã tiến hành thí nghiệm với 14 người tình nguyện.  Những người này được ăn tráng miệng trong các bữa ăn bằng các loại bánh ngọt với nhiều chất bột đường.  Kết quả kiểm tra độ đường trong máu được làm trước và sau khi ăn và cả mỗi hai giờ sau đó cho thấy những người ăn bánh ngọt có kèm một muỗng cà phê quế đã giảm đáng kể độ đường trong máu so với những người không dùng quế.  Những nhà khoa học này cho rằng có thể quế đã có tác dụng làm chậm quá trình chuyển thức ăn từ dạ dày vào ruột.  Cuộc thí nghiệm kéo dài 40 ngày trên những người bệnh đái tháo đường type 2 đã cho thấy cả lượng đường và độ cholesterol trong máu đều ổn định.

Vào đầu tháng 01/2007, những nhà khoa học thuộc trường Đại học Công Nghệ Malaysia cũng đã công bố báo cáo về một cuộc nghiên cứu kéo dài ba năm, cho thấy quế có kết quả tốt trong việc điều trị bệnh đái tháo đường type 2.  Tiến sĩ Mohammad Rojo cho biết ở những người đái tháo đường, tế bào đã mất đi khả năng đáp ứng với insulin và quế có tác dụng điều hoà khả năng của cơ thể trong việc sử dụng đường trong máu.

Trước đây, vào năm 2003, một cuộc thí nghiệm kéo dài 40 ngày đối với 60 người mắc bệnh đái tháo đường type 2 ở Pakistan cũng cho thấy dùng quế có thể giúp cải thiện việc chuyển hoá chất đường và chất mỡ trong cơ thể.  Kết quả cho biết với liều dùng 1g mỗi ngày, chia làm 2 lần, mỗi lần 0,5g, quế có tác dụng hạ thấp lượng đường trong máu đồng thời làm giảm triglycerides (một loại mỡ trong máu), LDL (cholesterol xấu) và cả cholesterol toàn phần.  Điều làm ngạc nhiên các nhà khoa học là những tác dụng hữu ích này của quế kéo dài đến ít nhất là 20 ngày sau khi người bệnh ngưng dùng quế.  Những kết quả tích cực và nhiều hứa hẹn này đã làm phấn khởi nhiều người.  Tiến sĩ Melinda Maryniuk, một chuyên gia về dinh dưỡng thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu bệnh tiểu đường Joslin ở Boston cho biết “Với liều nhỏ, quế không gây nguy hiểm gì.  Quế rất có ích cho sức khoẻ và nó giúp ngăn chặn tình trạng béo phì” .  Tuy nhiên, các nhà khoa học vẫn khuyến cáo không nên lạm dụng quế.  Với liều cao nó có thể có độc tính.  Ngoài ra, ông Richard Anderson, một nhà nghiên cứu thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Dinh Dưỡng Beltsville ở Maryland cho rằng trong loại bệnh tiểu đường type 2, insulin không làm tốt được chức năng đưa đường vào trong tế bào và quế đã tác động làm cho tế bào nhạy cảm hơn với lượng insulin đã có sẵn.  Do đó những bệnh nhân đái tháo đường type 2 cần được theo dõi độ đường trong máu trong khi dùng quế, vì gia vị này có thể làm gia tăng tác dụng của thuốc insulin.  Riêng đối với việc làm hạ cholesterol trong những bệnh tim mạch đã được điều trị ổn định với statins, Tiến sĩ Frank Sacks, Giáo sư về dinh dưỡng ở trường Đại học Harvard khuyên không nên dùng quế thay thế cho statins vì tác dụng của quế thấp hơn khi so với statins.

Vài bài thuốc có sử dụng quế

Thập toàn đại bổ

Thập toàn đại bổ là một cổ phương hợp thành bởi hai bài Tứ quân và Tứ vật, gia thêm hai vị Hoàng kỳ và Nhục quế, lại có tác dụng đại bổ cả khí lẫn huyết nên được gọi là thập toàn. Bài thuốc thường được dùng để trị các chứng hư yếu, mệt mỏi, choáng váng, khó ngủ, ăn kém.

Nhân sâm 8gr               Xuyên khung 8gr

Phục linh 8gr                 Đương quy 12gr

Bạch truật 12gr             Thục địa 20gr

Cam thảo 4gr               Bạch thược 12gr

Hoàng kỳ 12gr             Nhục quế 4gr

Thêm gừng sống 3 lát và táo 3 quả.  Đổ 3 chén nước, sắc còn khoảng non 1 chén.  Lần thứ hai đổ vào khoảng 2 chén rưỡi nước, sắc còn hơn nửa chén.  Trộn đều 2 lần thuốc, chia làm 2 lần uống trong ngày, uống lúc thuốc còn nóng.

Độc hoạt tang ký sinh

Độc hoạt tang ký sinh là một cổ phương thông dụng để điều trị các chứng viêm khớp mạn tính, các chứng đau nhức tay chân, co duỗi khó khăn, do Can-Thận hư tổn, phong hàn thấp xâm nhiễm.

Độc hoạt 12gr              Tang ký sinh 12gr         Thục địa 16gr

Tần giao 12gr               Đỗ trọng 12gr               Nhân sâm 8gr

Phòng phong 12g          Ngưu tất 8gr                 Phục linh 8gr

Cam thảo 6gr               Nhục quế 4gr               Bạch thược 12gr

Tế tân 4gr                     Xuyên khung 8gr          Đương quy 12gr

Thêm 3 lát gừng sống.  Đổ 4 chén nước, sắc còn 1 chén.  Lần thứ hai đổ 3 chén nước sắc còn non 1 chén.  Trộn đều 2 lần thuốc, chia đều làm 2 hoặc 3 lần uống trong ngày, uống lúc thuốc còn nóng.

Quế chi thang

Quế chi thang là một cổ phương thông dụng chữa cảm mạo nhằm phát tán phong hàn.

Quế chi 8gr                  Cam thảo 6gr               Đại táo 3 quả.

Sinh khương 6gr           Thược dược 6gr

Đổ 3 chén nước, sắc còn non 1 chén.  Uống lúc thuốc còn nóng.

Bài thuốc trị đau ngực

Bài thuốc này có tác dụng hành khí hoạt huyết ôn Dương, có thể dùng để điều trị các chứng đau thắt ngực ổn định và một số triệu chứng suy tim.

Nghệ khô 40gr

Nhục quế 12gr

Tán bột, trộn đều.  Mỗi lần uống 4g với nước ấm.  Uống trước khi đi ngủ hoặc khi có triệu chứng đau.

Lưu ý: Quế có tính đại nhiệt nên không dùng trong các trường hợp có thai, các chứng xuất huyết, các trường hợp viêm nhiễm hoặc đang có thực nhiệt.

Võ Hà (CTQ số 109)