Công dụng trị bệnh ung thư của trà xanh
Công dụng chữa bệnh tuyệt vời của chim câu
Cây quế mà chúng ta vẫn từng biết đến hàng ngày có rất nhiều công dụng tốt cho sức khỏe.
Lợi ich về sức khoẻ của quế
|
Tên khoa học là Cinnamomum loureirii Nees. Họ long não (Lauraceae).
Cây to, cao 10-20m, vỏ ngoài nứt nẻ, thân phân nhiều nhánh. Cây mọc hoang trong rừng, hoặc trồng bằng hạt, hay chiết cành, sau 5 năm có thể thu hoạch, nhưng vỏ quế bóc sau 20-30 năm thì tốt nhất. Vỏ quế bóc vào tháng 4-5 hay 9-10 sẽ dễ hơn vì đây là giai đoạn quế làm nhựa. Vỏ quế đem về ngâm nước 1 ngày, rửa sạch rồi xếp vào sọt tre kín, ủ lá chuối chung quanh khoảng 3-7 ngày rồi lấy ra để chỗ mát cho khô.
Quế cành thì thu hái vào mùa hè, phơi khô. Lá và vỏ dùng cất tinh dầu. Cành quế đầu nhỏ vót thì gọi là quế tiêm, cành nhỏ vừa là quế chi. Vỏ quế gọi là quế thông. Quế thông gọt bỏ vỏ thô bên ngoài, lấy lớp trong gọi là quế tâm. Quế bóc ở thân, cành to, dày là quế nhục.
Quế dùng làm bánh , gia vị , muốn nấu phở thì không thễ thiếu quế được. Quế cũng có công dụng trong y học dân gian -Quế chi: vị cay ngọt, tính ấm, chữa cảm lạnh không có mồ hôi và tê thấp chân tay đau buốt: dùng 5-10g với các vị khác.
-Quế tâm: chữa đaau tim với liều 4-8g phối hợp với các vị khác.
-Quế thông: chữa chungg các chứng lạnh trong nội tạng...
-Quế nhục: Vị nggọt cay, tính nóng, thong huyết mạch, làm mạnh tim, tăng sức nóng, chữa các chứng trúng hàn, trúng phong, hôn mê, tim yếu và bệnh dịch tả nguy cấp
Dưới đây là lược kê các lợi ích y dược của quế
1. Giảm cholesterol
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng chỉ cần dùng nửa thìa quế trong bữa ăn hàng ngày có thể giúp giảm lượng cholesterol . Quế cũng giúp giảm lượng cholesterol LDL xấu và triglycerids (acid béo trong máu)
2. Giảm lượng đường máu và trị bệnh tiểu đường loại 2
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng dùng nửa thìa quế mỗi ngày giúp cải thiện mức độ nhạy cảm insulin và điều chỉnh lượng glucose trong máu.. Khi mức insulin được cải thiện, cân nặng và bệnh tim mạch sẽ được kiểm soát.
3. Củng cố hệ tim mạch
Quế giúp củng cố sức khỏe hệ tim mạch vì thế tránh cho cơ thể khỏi các rắc rối liên quan tới tim mạch.. Cho 1 lượng quế nhỏ khi chế biến đồ ăn rất tốt cho những người mắc bệnh động mạch vành và bệnh cao huyết áp
4. Chống ung thư
Nghiên cứu được công bố bởi Bộ Nông Nghiệp Mỹ cho thấy quế có tác dụng khống chế sự sinh sôi của các tế bào ung thư bạch cầu. Ngoài ra, chất xơ và canxi trong quế giúp loại bỏ các dịch mật thừa, ngăn ngừa những ảnh hưởng không tốt với tế bào ruột, từ đó giảm nguy cơ ung thư ruột kết
5. Ngừa sâu răng và sạch miệng
Quế từ lâu đã được biết đến là một trong những thảo dược có tác dụng điều trị sâu răng và hơi thở có mùi. Chỉ cần nhai một mẩu quế nhỏ hay súc miệng với nước quế cũng giúp sạch miệng và mang lại hơi thở thơm tho.
6. Điều trị các vấn đề về hô hấp
Quế rất hữu ích với người mắc bệnh cảm. Những người bị cảm lạnh, ho dai dẳng, viêm xoang nên dùng ăn hỗn hợp 1 thìa mật ong trộn với 1/4 thìa quế hằng ngày trong 3 ngày liên tục.
Quế cũng giúp điều trị cảm cúm, đau họng và chứng sung huyết
7. Bổ não
Quế kích thích hoạt động của não như một loại thuốc bổ, giúp loại trừ sự căng thẳng thần kinh cũng như suy giảm trí nhớ . Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng ngửi quế làm tăng nhận thức, trí nhớ hiệu quả, tăng khả năng tập trung và nhạy bén
8. Giảm các bệnh truyền nhiễm
Với khả năng chống khuẩn, chống nấm, chống vi rút, chống các vật ký sinh và là chất khử trùng nên quế rất hữu hiệu trong việc chống viêm nhiễm cả bên trong và ngoài. Quế được xem là rất hiệu quả trong việc chống lại bệnh nấm âm đạo, nấm vòm họng. ngừa bệnh viêm nhiễm vùng âm đạo, nhiễm trùng vòm họng, loét dạ dày và chấy trên đầu.
9. Tạo dễ chịu trong kỳ kinh nguyệt
Quế rất tốt cho phụ nữ, giúp giảm thiểu chứng chuột rút và những khó chịu khác trong thời gian kinh nguyệt
10. Tránh thai
Quế được xem là một biện pháp tránh thai tự nhiên. Thường xuyên dùng quế sau sinh con sẽ giúp làm chậm kinh vì thế tránh được mang thai trong thời gian này.
11. Lợi về sữa mẹ
Quế giúp tăng tiết lượng sữa mẹ nên rất hữu ích với những bà mẹ ít sữa
12. Giảm đau do chứng viêm khớp
Trong quế có chứa nhiều hợp chất chống viêm có tác dụng giảm đau và viêm do bệnh thấp khớp gây ra. Nghiên cứu của trường ĐH Copenhagen cho biết nếu dùng nửa thìa bột quế và 1 thìa mật ong mỗi sáng sẽ giúp giảm đau khớp đáng kể (sau 1 tuần sử dụng) và có thể đi lại không đau (sau 1 tháng dùng).
13. Tốt cho hệ tiêu hoá
Cho quế vào món ăn hàng ngày giúp tiêu hoá tốt. Quế rất hiệu quả với chứng khó tiêu, buồn nôn, rối loạn dạ dày, tiêu chảy và chứng đầy hơi. Quế có tác dụng giảm bớt lượng gas trong dạ dày và ruột vì thế rất tốt cho tiêu hoá.
14. Giảm viêm đường tiết niệu
Những người ăn quế đều thì nguy cơ bị viêm nhiễm đường tiết niệu rất thấp. Quế giúp lợi tiểu tự nhiên và hỗ trợ bài tiết nước tiểu.
15. Chỗng nghẽn mạch
Hợp chất Cinnamaldehyde trong quế rất hiệu quả trong việc ngăn ngừa máu đóng và vón cục vì thế rất tốt cho những ngườI bị bệnh tim mạch.
16. Bảo quản thực phẩm
Khi cho 1 lượng quế nhỏ vào chế biến thực phẩm giúp ngăn ngừa sự phát triển và sinh sôi vi khuẩn vì thế giúp bảo quản đồ ăn được tươi ngon hơn.
17. Giảm đau đầu và chứng đau nửa đầu
Đau đầu do đi nhiều ngoài trời gió lạnh có thể điều trị bằng cách đắp hỗn hợp mỏng bột quế trộn với nước lên vùng trán và thái dương.
18. Ngừa mụn và mụn đầu đen
Quế giúp thải các tạp chất trong máu vì thế rất hữu hiệu trong việc giảm mụn. Dùng hỗn hợp bột quế và vài giọt nước cốt chanh đắp lên những vùng bị mụn và mụn đầu đen sẽ có hiệu quả.
19. Tăng cường lưu thông máu
Quế giúp làm sạch thành mạch máu và tăng cường lưu thông máu. Việc lưu thông máu dễ dàng sẽ cải thiện sức khoẻ do đảm bảo cung cấp đủ ôxy cho các tế bào trong cơ thể, tăng cường trao đổi chất, giảm nguy cơ mắc bệnh tim nếu dùng quế đều hàng ngày.
20. Tăng cường sự rắn chắc của các mô
Quế giúp tăng sự chắc khoẻ và tính đàn hồI, co giãn của các mô trong cơ thể.
21. Giảm đau cơ và đau khớp
Những người ăn quế đều hàng ngày thấy giảm đau các cơ và khớp, tăng cường sự dẻo dai của các cơ và khớp xương.
22. Cải thiện hệ miễn dịch
Hỗn hợp mật ong và quế rất tốt giúp tăng cường hệ miễn dịch, gi��m mệt mỏi, làm chậm quá trình lão hoá và kéo dài tuổi thọ.
23. Giảm ngứa
Hỗn hợp mật ong và quế giúp giảm ngứa do côn trùng đốt.
24. Là nguồn magan, chất xơ, chất sắt và canxi khoẻ mạnh.
25. Làm lành vết thương Quế giúp ngăn ngừa máu chảy vì thế có khả năng làm lành vết thương nhanh
Cây quế là loại thân gỗ, sống lâu năm. Cây trưởng thành có thể cao trên 15m, đường kính có thể đạt đến 40cm. Trong các bộ phận của cây quế như vỏ, lá, hoa, gỗ, rễ đều có chứa tinh dầu, đặc biệt trong vỏ có hàm lượng tinh dầu cao nhất, có khi đạt đến 4 – 5%. Tinh dầu quế chủ yếu là Aldehyt Cinamic chiếm khoảng 70 – 90%. Cây quế khoảng 8 đến 10 tuổi thì bắt đầu ra hoa, màu trắng hay phớt vàng. Quế ra hoa vào tháng 4, 5 và quả chín vào tháng 1,2 năm sau. Quả quế khi chưa chín có màu xanh, khi chín chuyển sang màu tím than, 1 kg hạt quế có khoảng 2500 – 3000 hạt. Tinh dầu quế có vị thơm, cay, ngọt rất ưa chuộng. Vị thuốc thường dùng trong y học cổ truyền là Nhục quế (Cortex Cinnamomi Cassiae).
Nhục quế dùng làm thuốc được ghi đầu tiên trong sách Bản kinh gọi là Ngọc thụ, Quế đơn, Quế bì, là vỏ khô của cành to cây Quế, tên thực vật là Cinnamomum cassia Presi hoặc Cinnamomum cassia Blume (Cinnamomum obtussifolium var cassia Perrot et Eberh) thuộc họ Long não (Lauraceae). Vỏ quế khô cạo sạch biểu bì gọi là Nhục quế tâm. Vỏ quế cuộn tròn thành hình ống gọi là Quan quế. Loại quế này mọc và trồng nhiều tại các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam Trung Quốc. Việt Nam cũng có loại quế này. Đây là loại quế tốt thứ hai trên thế giới sau loại Quế quan của Xililanca. Ở nước ta có nhiều loại quế khác như quế Thanh Hóa (Cinnamomum loureirii Nees) cũng là loại quế tốt, còn có tên là Trèntrèn, cây Quế rành.
Tính vị quy kinh
Quế vị cay ngọt, tính nhiệt, quy vào các kinh Thận, Tỳ, Tâm, Cam.
Thành phần chủ yếu
Thành phần dầu bay hơi trong quế có 1 – 2% trong dầu chủ yếu là Cinnamalde-hyde chiếm 75 – 90%. Cynnamyl acetatee, phenyl propyl acetate tannin.
Tác dụng dược lí
Theo Y học cổ truyền: Nhục quế có tác dụng bổ mệnh môn hỏa, tán hàn, ôn tì, chỉ thống, làm ấm khí huyết. Chủ trị các chứng: Mệnh môn hỏa suy, bụng lạnh đau, thổ tả, phụ nữ đau kinh do hàm ngưng huyết ứ, sau sanh bụng đau do huyết trệ, ung nhọt có mủ chưa vỡ hoặc loét lâu ngày, chứng khí huyết hư.
Theo kết quả nghiên cứu dược lí hiện đại
1. Trên động vật thực nghiệm, thuốc mà chủ yếu là cinnamaldehyde có tác dụng ức chế trung khu thần kinh, an thần, giảm đau và giải nhiệt. Cinnamaldehyte còn có tác dụng làm giảm co giật và tử vong đối với động vật do tiêm quá liều strychnine.
2. Dầu vỏ quế là thuốc thơm kiện vị trừ phong, có tác dụng kích thích nhẹ dạ dày và ruột. Thuốc có tác dụng tăng tiết nước bọt và dịch vị tăng cường chức năng tiêu hóa, làm giảm cơ thắt cơ trơn nội tạng, làm dịu cơn đau bụng do cơ thắt ruột. Cinnamaldehyt còn có tác dụng ức chế sự hình thành loét bao tử ở chuột do kích thích.
3. Tác dụng lên hệ tim mạch: Nước sắc Nhục quế là tăng lưu lượng máu động mạch vành tim cô lập của chuột lang, cải thiện được thiếu máu cơ tim cấp của thỏ do pituitrin gây nên.
4. Tác động kháng khuẩn: Trên ống nghiệm, Nhục quế có tác dụng ức chế mạnh đối với nhiều loại vi khuẩn gram(+), mạnh hơn đối với gram(-), ức chế đối với nấm gây bệnh.
Một vào nghiên cứu ứng dụng lâm sàng
1. Trị đau bụng tiêu chảy kéo dài do thận dương hư, tỳ vị hư hàn hoặc tỳ thận dương hư:
- Tam khí đơn: Nhục quế 3g, Lưu hoàn 3g, Hắc phụ tử 10g, Canh khương 3g, Chu sa 2g, chế thành viên, mỗi lần uống 3g ngày 2 lần với nước sôi ấm. Trị chứng nôn ỉa nhiều, quyết nghịch hư thoát.
- Quế linh hoàn: Nhục quế 3g, Mộc hương 3g, Can khương 5g, Nhục đậu khấu, Chế phụ tử đều 9g, chế thành hoàn mỗi lần uống 8g, ngày 2 – 3 lần với nước ấm. Trị đau bụng tiêu chảy do tỳ thận dương hư.
2. Trị viêm thận mạn, phù thũng do dương khí hư, chân tay lạnh, tiểu ít chân phù: Tế sinh Thận khí hoàn (Tế sinh phương): Can địa hoàn 15g, Sơn dược 12g, Sơn thù 6g, Phục linh, Đơn bì Trạch tả đều 12g, Nhục quế 4g, Phụ tử 10g, Xuyên Ngưu tất 12g, Xa tiền tử 15g, luyện mật làm hoàn. Mỗi lần uống 15g, ngày uống 2 – 3 lần.
Quế có công dụng trị chứng đau bụng ở chị em phụ nữ thời kỳ kinh nguyệt. (Ảnh minh họa)
3. Trị chứng bụng đau, phụ nữ có kinh đau bụng do hư hàm:
Nhục quế tán bột mịn, mỗi lần uống 3 – 4g với nước ấm hoặc rượu càng tốt.
Lý âm tiễn: Thục địa 16g, Đương qui 12g, Nhục quế 5g, Canh khương 5g, Cam thảo 4g, sắc uống. Trị đau bụng kinh.
4. Trị đau thắt lưng: Châu Quảng Minh dùng bột Nhục quế trị đau lưng do thận dương hư 102 ca, gồm có viêm cột sống do phong thấp, viêm cột sống dạng thấp, đau do chấn thương và đau lưng chưa rõ nguyên nhân. Mỗi lần uống 5g ngày 2 lần, liệu trình 3 tuần.Tỷ lệ có kết quả 98%. Những ca có xương tăng sinh chụp lại X quang đều không thay đổi nhưng đau giảm hoặc hết. Uống thuốc có tác dụng phụ là khô mồm, táo bón(Tạp chí Trung tây y kết hợp 1984, 2:115).
5. Trị vẩy nến, mề đay: Truyền thế Trân dùng chất xuất của Nhục quế trị 19 ca vẩy nến và 23 ca mề đay, mỗi lần uống 25 – 50mg (1 – 2 viên) ngày uống 3 lần, đối với vẩy nến uống liên tục 4 -8 tuần, mề đay sau khi hết uống tiếp 5 – 14 ngày. Kết quả: Vảy nến 19 ca, khỏi 7 ca, kết quả tốt 2 ca, tiến bộ 7 ca, không kết quả 3 ca, tỷ lệ kết quả 84,1%.
Mề đay 23 ca, khỏi 11 ca, tốt 9 ca, tiến bộ 1 ca, không kết quả 2 ca, tỷ lệ kết quả 91,2%(Học báo y học viện Hà Nam 1981, 2:385).
6. Trị nhiễm độc phụ tử: Theo kinh nghiệm dân gian, tác giả đã dùng Nhục quế trị nhiễm độc Phụ tử cấp. Dùng Nhục quế 5 – 10g ngâm nước uống, sau khi uống 5 -15 phút, bệnh nhân nôn, sau 15 – 30 phút các triệu chứng giảm. Nếu không giảm tiếp tục uống 3 – 5g cách uống như trên.Theo báo cáo của bệnh nhân, sau khi uống thuốc 15 – 30 phút, có cảm giác tim đập mạnh hơn, chân tay ấm lại, cảm giác tê ở môi lưỡi và chân tay giảm dần (Báo Tân Trung y 1987, 5:53).
Liều dùng và chú ý:
Liều thường dùng cho thuốc thang : 2 – 5g, cho sau, không nên sắc lâu, hoặc hòa bột uống mỗi lần 1 – 2g. Có thể dùng bột Nhục quế với các dạng : Bột quế 0,05 – 5g/ngày, rượu quế 5 -15g/ngày, Xirô quế 30 – 60g/ngày là liều dùng đối với Quan quế (Quế Xirilanca) do tác dụng nhẹ hơn, yếu hơn.
Không nên sắc chung Quế với Xích thạch chỉ, vì sắc chung: Xích thạch chỉ làm cho thành phần hữu hiệu của Nhục quế trong nước sắc giảm (các tác giả Trung Quốc đã chứng minh). Do vậy không nên sắc chung, mà hoặc sắc trước Xích thạch chỉ bỏ xác xong cho quế vào hoặc sắc riêng quế rồi trộn uống hoặc bột quế hòa thuốc uống.
Đây là loại thảo dược có rất nhiều công dụng chữa bệnh như giúp điều chỉnh mức độ đường trong máu, làm giảm nguy cơ mắc tiểu đường và tim mạch.
Thành phần trong quế đặc biệt là thyhydroxychalcone polymer giúp tăng khả năng trao đổi chất đường trong tế bào gấp 20 lần. Hãy thêm gia vị này vào cà phê, trà hay thực đơn ăn kiêng của bạn.
Ngoài ra cây quế còn có tác dụng làm giảm mức độ cholestrol xấu và đặc biệt tốt cho những người thường phải đi ăn ngoài, ăn thức ăn nhanh hoặc không có điều kiện để chăm sóc bữa ăn của mình.
Dưới đây là một số bài thuốc cổ có dùng quế
Trị thận khí hư hạ nguyên lạnh đêm đi tiểu nhiều, chân tay đầu gối yếu, mặt sạn đen, không thiết ăn uống, eo lưng đau, nặng nề nhức mỏi, bụng dưới lục bục, tiểu tiện không thông: Thục địa 32g, Đơn bì 12g, Hoài sơn 16g, Phụ tử (nướng) 8g, Nhục quế 8g. Tất cả tán nhỏ, luyện mật ong làm viên bằng hạt ngô. Mỗi lần uống 15 – 20 viên với rượu ấm, lúc đói, trước bữa ăn, ngày 2 lần.
Trị nguyên dương không đủ mệnh môn hỏa suy, tỳ vị hư lạnh, bụng đau, rốn lạnh, ăn uống kém, ăn vào nôn ra: Thục địa 320g, Hoài sơn (sao) 160g, Sơn thù (sao qua) 120g, Câu kỷ tử (sao qua) 160g, Đỗ trọng (sao nước gừng) 160g, Nhục quế 120g, Chế phụ tử 80g, Đường quy 120g. Đem Thục địa nấu thành cao, các vị kia tán nhỏ rồi trộn chung, giã nhuyễn viên bằng quả táo ta. Mỗi lần uống 2 quả với nước sôi.
Trị khí lạnh phạm tâm, bụng đau, nôn nhiều không muốn ăn uống: Quế tâm 40g, Cao hương khương (giềng) 40g, Đương quy 40g,Thảo đậu khấu (bỏ vỏ) 60g, Hậu phác 80g (bỏ vỏ thô, tẩm nước gừng sao) Nhân sâm 40g. Tất cả nghiền nhỏ cùng với nước cháo, làm viên mỗi viên bằng hạt ngô đồng (3/10g) mỗi lần uống 20 viên với nước cháo hoặc nước cơm trước bữa ăn.
Trị đau vùng tim, buồn bực, phiền não: Nhục quế 20g nghiền nhỏ, dùng rượu 100ml sắc còn 50m uống nóng.
Trị hàn lạnh, eo lưng đau, miệng lưỡi xanh, âm nang co, mình rét run, mạch huyền khẩn: Nhục quế 12g, Phụ tử 1g, Đỗ trọng 8g, Sắc uống nóng.
Trị sau đẻ trong bụng kết cục, đau: Bột quế uống với rượu ấm 1 – 2g, uống ngày 3 lần.
Trị trẻ con đi lỵ đỏ trắng, đau bụng không ăn được: Nhục quế, Hoàng liên lượng bằng nhau, tán nhỏ, hồ trộn làm hoàn bằng hạt đậu xanh. Mỗi lần uống 5 – 10 với nước cơm.
Trẻ con đái dầm: Nhục quế nghiền nhỏ, gan gà trống 1 bộ, hai vị lượng bằng nhau, giã nhừ, viên như hạt đậu xanh. Uống ngày 3 lần, mỗi lần 5 – 10g với nước ấm.
Trị viên khớp gối (không sưng nóng đỏ, rất đau) và các loại âm thư (mụn sưng không đỏ - rất đau): Thục địa 40g, Nhục quế 4g, Ma hoàng 2g, Bạch giới tử 8g, Lộc giác giáo (cao ban long) 12g, Sinh cam thảo 4g, Gừng nướng đen 2g, Sắc uống.
Trị bị ngã, bị đánh, bị thương trong bụng có máu ứ: Nhục quế 80g, Đương quy 80g, Bồ hoàng (cỏ nến) 100g. Tán nhỏ uống ngày ba lần, đêm 1 lần với rượu, mỗi lần 1 thìa cà phê.
Đôi điều cần biết khi dùng quế
Y học phương Đông xem quế là 1 trong 4 vị thuốc quý: sâm, nhung, quế, phụ. Còn y học phương Tây trước đây chỉ quan tâm đến tinh dầu quế và dùng quế làm hương liệu. Gần đây, người ta đã phát hiện trong bột quế còn có một chất có tác dụng hạ đường huyết - là một chứng minh kinh nghiệm của y học phương Đông dùng quế chữa tiêu khát.
Việt Nam là một trong những nước trồng rất nhiều quế, hàng năm xuất khẩu đến hàng trăm tấn quế vỏ và hàng chục tấn tinh dầu quế (cả cành quế nhỏ cắt phiến). Thời phong kiến, quế tốt nhất là ở vùng Thanh Hóa, gọi là “Ngọc quan” dành để tiến vua và triều cống các vương triều Trung Hoa.
Đều thuộc chi Cinnamomum. Họ Long não (Lauraceae). Có 3 loài được trồng từ lâu đời là:
C. loureirii Nees: gọi là quế Thanh, mọc hoang và được trồng ở nhiều địa phương như Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Quảng Ngãi. Nổi tiếng nhất là quế khai thác từ cây 30-50 tuổi ở Thường Xuân - Thanh Hóa, Quỳ Châu - Nghệ An, Trà My - Quảng Nam.
C. cassia Nees et Bl: Gọi là quế Quảng (1). Được trồng nhiều ở Lào Cai, Yên Bái, Quảng Ninh, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Thừa Thiên - Huế. Là nguồn quế xuất khẩu chủ lực, có nơi gọi là quế Trung Quốc.
C. zeylanicum Nees gọi là quế Xây-lan (Xrilanca) hay quế Quảng được trồng rải rác ở nhiều nơi như Bái Thượng - Thanh Hóa, Cổ Bạ - Nghệ An, các tỉnh Nam Trung bộ, miền Nam như Bà Rịa, Tây Ninh.
Ngoài ra có nhiều loài mọc hoang, được khai thác tinh dầu và vỏ để bán quế giả.
Sơ bộ định tên khoa học được 3 loài:
C. tetragonum A Cheva gọi là quế đỏ, quế nâu. Vỏ của loài quế này thường thấy bán ở các chợ tỉnh Hòa Bình, có vị chát, cay, mùi thơm nhẹ.
C. miobtusifobru Nees gọi là quế lợn, cây to thẳng, còn được trồng để lấy gỗ ở Nghĩa Lộ, Yên Bái. Bóc vỏ để bán giả quế, đặc biệt có nhiều chất nhầy, mùi hắc; vị cay nhẹ, hơi ngọt.
C. caryophyllus Moore: Mọc hoang rải rác ở các khu rừng nước ta. Dùng khai thác gỗ là chính. Vỏ được đem bán giả quế, gọi là quế re.
Tinh dầu 3 loại quế trên có hàm lượng aldehyd cinamic thấp (dưới 60%), để lâu mau hóa nhựa, mùi vị kém thơm.
Vỏ: Thân, cành (quế nhục); Cành nhỏ (quế chi).
Cành con: (quế chi); Ngọn cành con (quế chi tiên).
Quế nhục cạo bỏ lớp bần, còn lớp dầu gọi là quế tâm (chỉ làm khi dùng).
Cất tinh dầu: vỏ quế vụn, cành con, lá quế.
Tốt nhất là tháng 4, 5 dương lịch vì bóc vỏ cây dễ, hàm lượng tinh dầu cao cả trong vỏ và trong lá. Các loại thứ phẩm (như vỏ vụn, cành con, lá) đem cất tinh dầu đều có chất lượng tốt. Kinh tế nhất là khai thác ở cây 15 tuổi (hàm lượng tinh dầu đạt 95% so với cây 30 tuổi).
Cách sơ chế quế nhục: Quế Thanh có cách sơ chế riêng (ủ rồi mới phơi khô). Các loại quế khác đều phơi khô (tránh nắng gắt).
Để nơi khô, mát, nhiệt độ không quá 250C.
Quế vỏ: thân, cành to phải đựng trong túi PE (mỗi túi 5kg).
Quế loại I phải bôi sáp trong lòng thanh quế, bọc sáp ong 2 đầu thanh quế, đựng trong túi PE (mỗi túi 1kg) đặt trong hòm kín.
Loại đặc biệt có cách bảo quản riêng từng thanh quế trong hộp kín.
Thị trường thế giới: Đánh giá chất lượng quế vỏ căn cứ chủ yếu vào hàm lượng tinh dầu trong vỏ quế và hàm lượng aldehyd cinamic trong tinh dầu.
Kinh nghiệm của Đông y: Muốn xác định được giá trị của quế cao hay thấp phải căn cứ vào nhiều yếu tố như: Địa phương cây mọc, loài quế, tuổi cây khi thu hoạch, vị trí vỏ trên cây, độ dày của vỏ.
Địa phương cây mọc: Xã Trịnh Vạn, huyện Thường Xuân, Thanh hóa; Kế đến là Quỳ Châu, còn gọi là Phủ Quỳ, Nghệ An; Trà My, Quảng Nam.
Loài quế: C.loureirii Nees rồi đến C. zeylanicum Nees.
Tuổi cây khi thu hoạch: trên 15 năm là quế tốt, trên 30 năm là đặc biệt.
Vị trí vỏ trên cây: vỏ thân từ vị trí 1,2m đến cành đầu tiên (gọi là quế Thượng châu) là tốt nhất, hướng đông là đặc biệt; Cách mặt đất 20cm đến 1,2 mét gọi là quế Hạ căn (kém Thượng Châu).
Vỏ cành to gọi là quế Thượng biểu; Vỏ cành nhỏ gọi là quế chi.
Độ dày của vỏ: Nhục quế (vỏ thân, vỏ cành to), có 4 loại:
- Loại đặc biệt: dày trên 6mm, có khi tới 10mm, có 2 lớp dầu gọi là lưỡng chỉ phân du, màu nâu đen, dày trên 2mm.
- Loại 1: dày 4,5-6mm, có lớp dầu dày trên 1,5-2mm, màu nâu đen.
- Loại 2: dày 3 đến dưới 4,5mm. Lớp dầu dày trên 1 - 1,5mm, màu nâu đen.
- Loại 3: dày 2 đến dưới 3mm. Lớp dầu dày 1mm màu nâu đen.
Lê Tùng Châu và cộng sự đã định lượng tinh dầu trong lá và cành con của quế trồng ở Yên Bái vào các tháng thu hoạch vỏ quế trong năm ở các cây có độ tuổi từ 8-30 năm (C. Cassia Nees et Bl). Kết quả cho thấy: Cây 30 năm cho tỷ lệ tinh dầu cao nhất. Tinh dầu ở lá cây 30 năm tới 2,1%, vỏ cành con 2,47%; trong khi cây 8 năm là 0,8% ở lá và 2,37% ở vỏ cành con. Tuổi cây khai thác kinh tế nhất với loài C. Cassia Nees et Bl là 14 năm. Tỷ lệ tinh dầu ở vỏ cành con đạt 99% so với cây 30 năm. Tinh dầu ở lá đạt 71% (tính theo nguyên liệu khô kiệt).
Lâm trường Thường Xuân - Thanh Hóa định lượng tinh dầu trong vỏ quế tươi có độ tuổi từ 2-12 năm: Cây 12 năm đạt tỷ lệ 4,5% tinh dầu, trong khi cây 5 năm chỉ đạt 3,35% (= 74%). Quế ở đây thuộc loại C. loureirii Nees (không rõ độ ẩm của vỏ bằng bao nhiêu %).
Công dụng của cây húng quế
Công dụng của hoa nguyệt quế
Tác dụng của cây đinh lăng
Tác dụng của cây trầm hương
Thăm dò tác dụng bổ huyết của nhung hươu
Cách làm tinh dầu gừng tuyệt đối an toàn
(st)