Bệnh
được điều trị bằng dược phẩm, giải phẫu.. Ngoài ra, các phương thức hỗ
trợ như chăm sóc, dinh dưỡng, vật lý trị liệu, vận động cơ thể....cũng
có vai trò quan trọng.
Điều trị bệnh parkinson như thế nào?
Mục
tiêu điều trị đối với bệnh Parkinson là vừa phải kiểm soát những triệu
chứng càng lâu càng tốt vừa hạn chế tác dụng phụ. Các biện pháp điều trị
có thể kiểm soát tốt trong khoảng từ 4 đến 6 năm. Sau đó bệnh sẽ tiến
triển bất chấp các biện pháp điều trị, và có nhiều trường hợp xuất hiện
các biến chứng lâu dài như sự dao động và mất kiểm soát cơ (dyskinesia).
|
Ngoài
ra nguyên nhân của sự tàn tật trong giai đoạn muộn còn bao gồm cả mất
khả năng giữ thăng bằng và thay đổi trạng thái tâm thần. Bác sĩ sẽ chọn
cách điều trị tốt nhất tùy thuộc vào những triệu chứng nổi bật của bệnh
nhân.
Nội khoa
Sử dụng các loại thuốc bảo vệ các neuron thần kinh sản xuất ra Dopamin
- Các cuộc nghiên cứu đã cho thấy selegiline (Eldepryl) có tác dụng bảo vệ các neuron sản xuất Dopamin
- Selegiline được sử dụng trong giai đoạn sớm của bệnh với hy vọng nó sẽ làm chậm lại tốc độ thoái hóa các neuron dopamin.
Các
phương pháp điều trị triệu chứng bắt đầu khi bạn xuất hiện những dấu
hiệu thoái hóa chức năng. Lựa chọn phương phá điều trị tùy thuộc vào
nguyên nhân của sự thoái hóa.
-
Nếu nguyên nhân là do run giật, có thể sử dụng thuốc điều trị run giật,
như amantadine (Symadine, Symmetrel), vốn là một tác nhân kháng đối
giao cảm.
- Amatadine làm giảm nhẹ triệu chứng run giật trong khoảng 50% trường hợp và không gây cứng khớp và di chuyển chậm chạp.
-
Vì triệu chứng run giật chỉ đáp ứng tốt với 1 loại thuốc đối giao cảm
mà không có hiệu quả nếu sử dụng loại khác, do đó có thể bác sĩ sẽ sử
dụng thử 1 loại đối giao cảm khác nếu như loại thuốc đầu tiên không hiệu
quả.
-
Điều trị khởi đầu bằng liều thấp và tăng liều lên dần để hạn chế tác
dụng phụ bao gồm khó nhớ, lú lẫn và ảo giác. Tác dụng phụ trên tâm thần
thường gặp nhất, đặc biệt là ở những người lớn tuổi.
-
Nếu nguyên nhân là do cứng khớp, di chuyển chậm chạp, giảm sự khéo léo,
nói chậm, lê chân, đó là những triệu chứng liên quan đến Dopamin.
- Thuốc được sử dụng là Levodopa-carbidopa (Sinemet) có tác dụng tăng lượng dopamin trong não.
- Khởi đầu với liều thấp, tăng chậm cho đến khi kiểm soát được triệu chứng.
- Nhiều trường hợp cần phải điều trị như vậy đối với cứng khớp và di chuyển chậm chạp trong vòng 1 - 2 năm sau chẩn đoán.
Ngoại khoa
Ngoài
phương pháp điều trị bằng thuốc, lựa chọn điều trị bằng phẫu thuật có
thể được tính đến nếu như những triệu chứng nặng nề của bệnh xuất hiện
hoặc khi thuốc không còn tác dụng giảm nhẹ triệu chứng được nữa.
Theo dõi
Để kiểm soát được bệnh một cách tốt nhất, cần phải cân bằng giữa triệu chứng của bệnh và tác dụng phụ của thuốc.
Không
thể điều trị Parkinson đơn độc. Tốt hơn hết là phải hợp tác tốt với các
bác sĩ chuyên khoa để có thể lập ra 1 phương án điều trị tốt nhất.
Luôn luôn hỏi ý kiến bác sĩ trước khi thay đổi hoặc ngưng sử dụng thuốc.
Tại
tất cả những thời điểm của bệnh, cần phải có một cuộc trao đổi cởi mở
giữa bạn và bác sĩ về những triệu chứng mới và các triệu chứng thay đổi
trong cơ thể bạn.
|
|
Thuốc điều trị bệnh Parkinson
Parkinson là một bệnh do hậu
quả của những thương tổn thoái hóa một số nhân xám ở nền não kiểm soát
các hoạt động bán tự động và tự động. Sự thương tổn của nhân này sẽ trực
tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng tới hệ vận động và gây những triệu chứng
ngoài bó tháp như: mất các động tác cần có sự tham gia của ý muốn; giải
phóng các động tác tự động hoặc bất thường gây run; tăng trương lực cơ
gây tư thế cứng nhắc. Hiện nay, người ta nhận thấy trong bệnh Parkinson
có sự giảm sút rất rõ rệt hàm lượng dopamin - một chất trung gian hóa
học quan trọng trong chức phận của các cấu trúc ngoài bó tháp như nhân
đuôi, nhân bèo, liềm đen. Sự giảm sút hàm lượng dopamin của những nhân
xám đó dẫn tới hậu quả làm tăng trương lực hệ phó giao cảm trung ương.
Vì vậy trong điều trị bệnh Parkinson, người ta hay dùng hai loại thuốc
chính là các thuốc cường hệ dopaminergic và các thuốc hủy hệ phó giao
cảm trung ương.
Các thuốc cường hệ dopaminergic
Levodopa (l-dopa, dihydroxyphenyl, alanin, DOPA)
Vì dopamin không qua được hàng rào máu não nên trong điều trị phải
dùng chất tiền thân của nó là l-dopa có khả năng thấm vào được thần kinh
trung ương. Tại đó, l-dopa bị khử carboxyl để thành dopamin.
Levodopa có tác dụng lên tất cả các triệu chứng của bệnh: tăng trương
lực, mất vận động, run, rối loạn đi lại. Hiện được coi là thuốc có tác
dụng tốt nhất. Tuy nhiên, kết quả không giống nhau giữa các người bệnh
và ngay trên cùng một bệnh nhân thì kết quả cũng có thể khác nhau theo
từng thời gian.
Do phần lớn levodopa không qua được hàng rào máu não nên lượng dopa
và cả noradrenalin ở ngoại biên tăng cao, là nguyên nhân gây ra các tai
biến. Có thể gặp trên 90% người dùng thuốc bao gồm: rối loạn tiêu hóa
(nôn, chán ăn); động tác bất thường xuất hiện ở miệng - lưỡi - mặt, các
chi, cổ, gáy (người nhiều tuổi ít gặp hơn); rối loạn tâm thần (trầm cảm,
lú lẫn, hoang tưởng); rối loạn tim mạch (tụt huyết áp khi đứng, loạn
nhịp tim, suy mạch vành, suy tim).
Levodopa được chỉ định nghiêm ngặt và có sự theo dõi tại bệnh viện,
uống liều tăng dần, chia làm nhiều lần trong ngày và uống sau bữa ăn.
Não bình thường. - Não của người bệnh Parkinson.
|
Amantadin
Amantadin là dẫn xuất tổng hợp, lúc đầu dùng để chữa cúm (A2 -
influenza), tình cờ lại thấy có tác dụng tốt với bệnh Parkinson. Thuốc
làm giải phóng dopamin từ ngọn các dây thần kinh hệ dopaminergic cả ở
ngoại biên và cả ở trung ương. Nồng độ dopamin trong các nhân xám trung
ương tăng cao.
Trên bệnh Parkinson, amantadin làm giảm nhanh chứng mất vận động
nhưng ít làm thay đổi chứng run và tăng trương lực cơ; Tác dụng kém
levodopa nhưng tốt hơn thuốc hủy cholinergic. Tác dụng tối đa xuất hiện
sau vài ngày, nhưng giảm dần sau khoảng 6 - 8 tháng dùng liên tục; Có
tác dụng hiệp đồng với levodopa.
Tác dụng không mong muốn thường gặp khi dùng thuốc là rối loạn tiêu
hóa, mất ngủ, giật cơ, phù chi dưới kháng với thuốc lợi tiểu. Dùng lâu
có thể thấy xuất hiện những mảng tím ở chi dưới do catecholamine được
giải phóng tại chỗ gây co mạch.
Các thuốc hủy phó giao cảm trung ương
Một số triệu chứng của bệnh Parkinson như run, tăng tiết nước bọt là
thể hiện sự cường phó giao cảm. Vì vậy từ lâu, các thuốc hủy phó giao
cảm hấp thu qua đường tiêu hóa và thâm nhập được vào hệ thần kinh trung
ương đã được dùng điều trị. Nhưng từ khi có levodopa, các thuốc này chỉ
được dùng với các thể khởi đầu của Parkinson hoặc phối hợp với levodopa,
đặc biệt khi triệu chứng run chiếm ưu thế.
Nhược điểm của nhóm này là tác dụng kháng cholinergic ngoại biên:
giãn đồng tử, khô miệng, táo bón. Vì vậy không được dùng cho người có
tăng nhãn áp, phì đại tiền liệt tuyến. Các thuốc thường dùng:
hyoscyamin, atropin sulfat, scopolamin, trihexyphenidyl, dietazin...
Lưu ý trong điều trị bệnh Parkinson
Bệnh
Parkinson đang được các nhà nghiên cứu dành rất nhiều công sức, tiền
tài để tìm ra các phương thức điều trị, vì liệt run gây nhiều khó khăn,
trở ngại cho đời sống người bệnh.
Bệnh
được điều trị bằng dược phẩm, giải phẫu.. Ngoài ra, các phương thức hỗ
trợ như chăm sóc, dinh dưỡng, vật lý trị liệu, vận động cơ thể....cũng
có vai trò quan trọng.
|
|
Dược phẩm
Mặc
dù chưa có cách trị dứt, một số dược phẩm có thể làm dịu bớt các dấu
hiệu của bệnh Parkinson, giúp người bệnh duy trì được sinh hoạt hàng
ngày. Tuy nhiên thuốc cũng có thể gây ra một vài trở ngại:
- Thuốc có nhiều tác dụng phụ rất khó chịu cho bệnh nhân
- Bệnh nhân có thể trở nên quen với thuốc, cần gia tăng liều lượng hoặc dùng phối hợp nhiều dược phẩm với nhau.
- Thời gian tác dụng của thuốc rất ngắn, nên bệnh nhân phải uống nhiều lần trong ngày
Ngoài
ra, thuốc không giải quyết vấn nạn chính của bệnh là sự hủy hoại các tế
bào tạo ra chất dopamine của bệnh, cho nên tương lai bệnh khó mà ước
đoán.
Các thuốc thường dùng
-
Thuốc để bổ sung dopamine không được sản xuất ở não, loại levodopa. Vào
tới não, Levodopa sẽ chuyển hóa thành dopamine. Levodopa thường được
dùng phối hợp với môt loại thuốc khác (carbidopa) để giảm thiểu tác dụng
phụ của levodopa và tăng cường hiệu năng của thuốc này. Tác dụng phụ
của levodopa gồm có ngây ngất, giảm huyết áp khi đứng lên, ác mộng, rối
loạn vận động, buồn nôn, đau bụng, hồi hộp, đôi khi hoang tưởng ..
-
Thuốc chống sản xuất chất acetylcholine (anticholinergic drugs như
benzotropine, diphenhy -dramine...) Acetylcholine là chất kích thích cơ
cứng và rung nhiều hơn khi dopamine vắng mặt. Tác dụng phụ thường thấy
là: khô miệng, táo bón, mờ mắt, mất định hướng, mê sảng...
-
Thuốc nhái tác dụng của dopamine (bromocriptine, perglolide...), giúp
dẫn truyền tín hiệu thần kinh mà không cần tới dopamine.
-
Thuốc
ngăn men monoamine oxidase (MAO) chuyển hóa dopamine thành chất vô
hiệu. Ðó là loại monoamine idase inhibitor-B (MAO B) như thuốc
selegiline, Azilect (rasagiline)
Giải phẫu
Giải phẫu được áp dụng cho một số bệnh nhân không đáp ứng với dược phẩm, như là:
- Cắt bỏ mô bào não gây ra các cử động hoặc tiết ra các hóa chất bất thường.
-
Giải phẫu cầu nhạt (pallidum): cầu nhạt là một trong nhiều tập hợp đặc
của chất sám, nằm sâu trong mỗi bán cầu não, và có thể gây ra một số cử
động bất thường cho bệnh nhân sau nhiều năm dùng thuốc. Phẫu thuật gia
sẽ tìm đúng vị trí mô bào này và đốt một cái lỗ nhỏ li ti lên tế bào đó,
chặn không cho tế bào gây ra cử động bất thường.
-
Kích thích não (deep brain stimulation -DBS) với luồng điện rất nhỏ
phát ra từ một vi thiết bị đặt trong não, để giảm thiểu cơn rung và các
cử động bất thường. Phương pháp này rất hữu hiệu trong một số trường hợp
và được dùng khi dược trị liệu thất bại hoặc gây ra nhiều tác dụng
ngoại ý.
-
Gene trị liệu đang được thử nghiệm và có nhiều triển vọng tốt. Mục tiêu
của trị liệu này là thay gene bệnh bằng gene khỏe mạnh, qua trung gian
của một vật thể nào đó. Hiện nay các nhà khoa học đang thử dùng một loại
virus để làm công việc mang gene lành mạnh này vào não.
Hỗ trợ, chăm sóc
Bệnh
Parkinson đưa đến nhiều trở ngại, khó khăn cho nếp sống của người bệnh.
Họ có khó khăn trong việc ăn uống, tắm rửa, vệ sinh. Họ đi lại khó
khăn, không diễn tả được ý nghĩ lời nói. Tính tình thay đổi bất thường,
đôi khi bướng bỉnh đập phá. Họ không tự sử dụng thuốc men vì uống nhiều
loại khác nhau và nhiều lần trong ngày...Họ cần sự chăm sóc giúp đỡ.
Người
chăm sóc hầu như có vai trò của nhiều nhà chuyên môn: hướng dẫn chế độ
ăn uống, hướng dẫn dùng thuốc, hướng dẫn cách nói, vận động cơ thể, vệ
sinh cá nhân....Ðây là việc làm cần sự hy sinh của người chăm sóc.
Ngoài
ra, bệnh nhân cần giữ hẹn với bác sĩ để theo dõi bệnh tình, thay đổi
thuốc; tham dự các chương trình vật lý trị liệu, duy trì các sinh hoạt
xã hội...
|
|
(St)
|
|