Dinh dưỡng đầu đời cho trẻ

Trẻ em luôn cần một chế độ dinh dưỡng cân bằng để đáp ứng nhu cầu đang phát triển của cơ thể. Trong những năm đầu tiên, sữa mẹ và sữa Formula(*) chính là nguồn dinh dưỡng chủ yếu đối với trẻ. Đến giai đoạn ăn dặm, bữa ăn của trẻ nên có đủ năm nhóm dưỡng chất chính yếu: carbohydrate, chất đạm, chất béo, vitamin và chất khoáng. Các bà mẹ cần lưu ý rằng nhu cầu dinh dưỡng của trẻ em khác hẳn với người lớn. Trẻ dưới 5 tuổi cần được cung cấp nhiều chất béo, các nguồn nhiệt lượng tăng cường và dưỡng chất ở mức cao hơn hẳn người lớn nhằm đáp ứng nhu cầu tăng trưởng về thể chất và trí não.

“Trong sáu tháng đầu tiên, sữa mẹ và sữa Formula là nguồn dinh dưỡng chủ yếu của trẻ”

Sữa dành cho trẻ

Trong sáu tháng đầu tiên, nguồn dinh dưỡng dành cho trẻ chủ yếu là sữa mẹ hay sữa formula. Mặc dù, khi trẻ được khoảng 4 – 5 tháng tuổi bạn có thể tập cho trẻ chuyển sang chế độ ăn dặm, nhưng chúng ta cũng không nên giảm lượng sữa cho trẻ bú vì giai đoạn này cơ thể trẻ chưa thể hấp thu tất cả những loại thức ăn mà chỉ mới có thể làm quen với các hương vị mà thôi. Đối với trẻ từ sáu tháng đến một tuổi, bạn có thể dùng sữa bò nguyên kem để pha chế bột ngũ cốc thành món ăn dặm cho trẻ nhưng không nên dùng làm thức ăn chính tránh trường hợp trẻ bị thiếu sắt và vitamin C. Đến khi trẻ được một tuổi, bạn có thể bắt đầu cho trẻ uống sữa bò đều đặn hàng ngày, nhưng trong giai đoạn này, cơ thể trẻ vẫn cần được bổ sung thêm sắt và các loại vitamin – có trong sữa mẹ hay sữa formula dành cho trẻ từ 6 đến 12 tháng tuổi.

Không nên cho trẻ dưới 5 tuổi dùng sữa không béo vì loại sữa này cung cấp rất ít năng lượng. Tuy nhiên, bạn cũng có thể cho trẻ dùng loại sữa ít béo từ khi lên hai tuổi nếu trẻ chịu ăn.

Ích lợi của việc cho trẻ bú sữa mẹ

Theo những khuyến cáo mới đây của tổ chức Y Tế Thế Giới (WHO) thì việc cho trẻ bú sữa mẹ trong sáu tháng đầu tiên là điều cần thiết nhằm đảm bảo trẻ được cung cấp đầy đủ dưỡng chất. Tuy nhiên, nếu các bà mẹ không có điều kiện nuôi con bằng sữa mẹ hoặc cho con bú đầy đủ các giờ trong ngày thì vẫn có thể cho trẻ dùng sữa bột dành cho trẻ sơ sinh (infant formu-la). Khi được 4- 6 tháng tuổi, trẻ cần bú từ 600-800 ml sữa mỗi ngày và ít nhất 4 lần/1 ngày cho đến khi trẻ được 8 tháng tuổi.

Có nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng cho trẻ em bú sữa mẹ đem lại nhiều lợi ích về sức khoẻ không chỉ cho trẻ mà cho các bà mẹ:

Sữa mẹ giúp trẻ củng cố và tăng cường hệ miễn dịch, ít bị nhiễm trùng đường hô hấp, đường tai, đường ruột và dạ dày.

Nếu được bú sữa mẹ trong 6 tháng đầu tiên, các trẻ sinh trưởng trong gia đình có tiền sử bệnh hen suyễn, cảm cúm, chàm da hoặc dị ứng thực phẩm sẽ ít có nguy cơ mắc bệnh hơn. Nếu có thì tình trạng bệnh cũng sẽ nhẹ hơn.

Sữa mẹ dễ tiêu hoá hơn và giúp trẻ giảm nguy cơ mắc bệnh táo bón.

Trẻ bú sữa mẹ ít có nguy cơ bị béo phí sau này.

Sữa mẹ đảm bảo cung cấp đầy đủ các acid béo- vốn đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển của não bộ.

Các bà mẹ cho con bú thường nhanh lấy lại hình dáng trư���c lúc mang thai.

Các bà mẹ cho con bú càng lâu thì càng giảm được nguy cơ ung thư vú khi bước vào giai đoạn tiền mãn kinh.

Nước

Đừng bao giờ để trẻ thiếu nước. Nếu trẻ được cho bú sữa mẹ thì bạn không cần phải lo lắng vì sữa mẹ đã cung cấp đầy đủ các chất cần thiết, kể cả nước. Còn đối với các trẻ bú bình, bạn cần cho trẻ uống thêm một ít nước đun sôi để nguội.

Khi trẻ đã chuyển sang chế độ ăn dặm, bạn chú ý cho trẻ uống thêm nhiều nước. Nên khuyến khích trẻ uống nước ngay từ khi còn nhỏ, tuy nhiên cũng cần hạn chế những loại nước ngọt có ga hay nước hoa quả bán sẵn trên thị trường, bởi vì hầu hết những loại nước này đều có chứa đường và gây ảnh hưởng không tốt cho hàm răng đang mọc của trẻ. Một nguyên nhân khác là thói quen uống nước ngọt khiến trẻ dễ bị béo phì.

Ngoài ra, bạn không nên cho trẻ uống nước khoáng hay dùng nước khoáng để chế biến thức ăn cho trẻ. Bởi vì nước khoáng chưa đun sôi không đảm bảo an toàn vệ sinh và trong nước khoáng thường chứa một lượng kim loại natri khá lớn gây bất lợi cho cơ thể non yếu của trẻ.

Carbohydrate

Carbohydrate là từ chỉ chung các thành phần dễ tiêu hoá và chuyển hoá trong thực phẩm như đường và tinh bột. Đây là nguồn năng lượng chủ yếu cho cơ thể (cứ 1 gram thì cung cấp 4 kcal cho cơ thể con người). Cơ thể sẽ tự phân huỷ các carbohydrate để phóng xuất glucoz và cung cấp năng lượng cho chính bản thân mình.

Có hai loại carbohydrate: loại cháy chậm và loại cháy nhanh. Những carbohydrate phức tạp có trong các loại rau củ, lúa mì thì phóng xuất glucoz rất chậm nhằm cung cấp năng lượng lâu bền; còn những carbohydrate đơn giản có trong chuối hoặc gạo trắng thí phóng xuất glucoz rất nhanh chóng nhằm cung cấp từng đợt năng lượng ngắn. Dù là nhiều khi rất hữu ích nhưng các loại carbohydrate cháy nhanh thường làm cho lượng đường trong máu tăng nhanh khiến cho cơ thể phải tìm cách bù đắp quá mức. Điếu này khiến cho đường trong máu giảm đột ngột, kéo theo năng lượng cũng giảm.

Cả hai loại carbohydrate này đều chứa các sinh tố, chất khoáng và chất sơ rất có ích cho cơ thể. Vì thế, tuỳ thuộc vào từng độ tuổi, bạn phải chuẩn bị chế độ dinh dưỡng hợp lý, trong đó các khẩu phần thức ăn phải cung cấp từ 40 đến 50% hai loại carbohydrate này. Lưu ý, trong quá trình chế biến, các loại carbohydrate thường mất nhiều chất xơ tự nhiên và dưỡng chất giá trị cần thiết khác.

Các loại bánh ngọt, ngũ cốc có đường đều thuộc vào loại carbohydrate cháy nhanh, nghĩa là nhanh chóng chuyển thành glucoz giải phóng nguồn năng lượng lớn trong thời gian rất ngắn, nhưng không lâu dài. Do đó, bạn cần hạn chế cho trẻ dùng các loại thực phẩm dạng này.

Trẻ em và các loại sữa


Từ lúc mới chào đời đến một tuổi, nên cho trẻ bú sữa mẹ hoặc sữa formula.

Từ 6 tháng đến một tuổi, có thể cho trẻ tiếp tục uống sữa formula dành cho nhóm tuổi này (từ 500 tới 800 ml sữa mỗi ngày) nếu cảm thấy cơ thể trẻ vẫn chưa được cấp đủ chất dinh dưỡng từ thức ăn dặm.

Từ 6 tháng tuổi trở đi, có thể thêm sữa nguyên kem để pha chế thức ăn cho trẻ.

Từ 1 tuổi trở lên, chúng ta vẫn cần cho trẻ uống sữa nguyên kem hằng ngày. Trẻ từ 1-7 tuổi nên uống ít nhất 400 ml sữa hoặc dùng một lượng thực phẩm tương đương được chế biến từ sữa mỗi ngày.

Nguồn cung cấp carbohydrate cháy chậm:

Thực phẩm chế biến công nghiệp từ hạt ngũ cốc nguyên chất (snack hạt).

Yến mạch

Bột ngũ cốc (bột gạo, bột mì,…)

Táo, cà rốt, bắp

Mì sợi, đậu lăng…

Nguồn cung cấp carbohydrate cháy nhanh:

Trái cây nhiệt đới như quả dưa tây, dứa, kiwi, chuối

Bánh mì trắng, gạo

Đường

Thực phẩm chế biến công nghiệp từ hạt ngũ cốc, dạng ngọt (snack ngọt)

Các loại bánh ngọt

Nguồn cung cấp chất đạm:

Thịt bò, thịt heo, thịt gà…

Trứng, sữa, pho-mát (không dùng loại pho-mát có kem)

Đậu hũ

Các loại đậu

Ngũ cốc

Nguồn cung cấp chất béo bão hoà và chất béo chuyển thể:

Thịt

Bơ và bơ thực vật ở dạng cứng đặc

Mỡ lợn

Pho-mát

Dầu hay chất béo thực vật có trong thực phẩm chế biến sẵn như bánh qui, bánh nướng các loại.

Nguồn cung cấp chất béo phi- bão hoà:

Dầu ô-liu, dầu bắp, dầu mè, dầu cải, dầu hướng dương, dầu cá

Nguồn cung cấp omega- 3EEAs:

Các loại cá có dầu như cá tuna tươi sống, cá mòi, cá hồi, cá thu…

Dầu từ hạt lanh hay quả óc chó

Hạt bí ngô

Các chất bổ sung dầu cá

Nguồn cung cấp omega- 6 EFAs:

Dầu hướng dương, dầu bắp

Bơ thực vật ở dạng mềm phi- bão hoà đa thể.

Chất đạm(Protein)

Chất đạm rất cần thiết cho sự tăng trưởng và hoàn thiện các mô trong cơ thể, tạo nền tảng cho sự hình thành và phát triển của tất cả các tế bào, cơ quan, bộ phận cũng như làn da và mái tóc của trẻ. Nếu không cung cấp đầy đủ chất đạm thì sức đề kháng của cơ thể giảm đi rất nhiều.

Chất đạm được cấu thành từ các acid amino- trong số các acid amino đó, cơ thể có thể tự tổng hợp một số còn một số khác phải được cung cấp từ nguồn thực phẩm bên ngoài. Các loại đạm động vật kể cả sữa, đều có chứa tất cả những acid amino cần thiết cho cơ thể . Đậu nành là thực phẩm có nguồn gốc từ thực vật duy nhất có chứa đủ các loại acid amino ấy. Ngoài ra, một số thực phẩm khi kết hợp với nhau cũng có thể cung cấp chất đạm hoàn chỉnh, như ngũ cốc kết hợp với đậu có hạt (đậu lăng, đậu Hà Lan…) Tuy nhiên, bạn không cần thiết phải cho trẻ dùng các thực phẩm kết hợp này trong một bữa ăn, mà có thể dùng xen kẽ hoặc dùng cách quãng trong ngày.

Trẻ em thường phát triển rất nhanh, vì vậy cơ thể liên tục cần được cung cấp nhiều chất đạm. Tuy nhiên, bạn không nên dùng thực phẩm chứa nhiều đạm làm nguyên liệu chính của bữa ăn của trẻ vì cơ thể còn non yếu của trẻ không thể tiêu hoá hết chất đạm buộc phải bài tiết ra ngoài, dẫn đến thận phải làm việc nhiều và có nguy cơ bị tổn hại cao. Bởi chất đạm không được “lưu trú” sẵn trong cơ thể nên chế độ ăn phù hợp cho trẻ thường là mỗi ngày ăn nhiều bữa, trong đó chỉ cần ăn hai bữa có chứa nhiều chất đạm là được. Tốt nhất mỗi tuần cho trẻ ăn thịt 3- 4 lần; cá từ 2-3 lần, trong đó có một lần ăn loại cá có nhiều dầu, như cá hồi, cá tuna hoặc cá mòi.

Trong bữa ăn sáng, bạn nên cho trẻ dùng những món ăn có nhiều chất đạm như trứng, pho-mát. Ngoài ra nên cho trẻ làm quen với những món ăn có nhiều chất đạm thực vật như các loại đậu, bởi những thực phẩm này còn cung cấp nhiều khoáng chất và hoá chất có nguồn gốc thực vật rất quan trọng cho cơ thể.

Chất béo

Chất béo là nguồn cung cấp năng lưọng chủ yếu cho cơ thể con người, đặc biệt trẻ em ở giai đoạn phát triển cần nhiều chất béo hơn so với người lớn. Trẻ cần được ăn những thực phẩm có nhiều năng lượng như trứng, thịt, pho-mát. Trẻ khoảng 1 tuổi cần cung cấp từ 40-50% năng lượng từ chất béo ( trong sữa mẹ có hơn 50% chất béo); khi trẻ lớn dần, tỷ lệ này sẽ giảm dần, còn khoảng 35%. Tuy nhiên, bạn cần chú ý phân biệt các loại chất béo khác nhau sau đây để đảm bảo cung cấp đầy đủ chất béo cần thiết cho cơ thể trẻ:

- Chất béo bão hoà được cung cấp chủ yếu từ các nguồn thịt động vật. Ở nhiệt độ bình thường chất béo bão hoà tồn tại ở dạng đặc. Bơ, mỡ và phần mỡ trong thịt cùng với các sản phẩm được chế biến từ sữa phần lớn thuộc loại chất béo bão hoà. Nó có thể làm tăng lượng cholesterol trong máu. Người lớn dùng nhiều chất béo bão hoà dễ bị các bệnh về tim mạch.

Bạn cần phải giới hạn hàm lượng chất béo bão hoà trong chế độ ăn uống của trẻ bằng cách chọn các loại thịt nạc, dùng dầu thực vật thay cho bơ và mỡ khi chế biến thức ăn cho trẻ, tốt nhất nên làm món hấp, món nướng… Tuy sữa và pho-mát có chứa các chất béo bão hoà nhưng đây cũng là nguồn cung cấp rất nhiều can-xi, chất đạm và vita-min cho cơ thể.

- Chất béo phi- bão hoà đơn thể thường có dạng lỏng khi ở nhiệt độ bình thường. Dầu ô-liu, dầu cải, chất béo trong quả hạch, trái bơ… là chất béo phi- bão hoà đơn thể. Chất béo thuộc loại này có thể làm giảm lương choles-terol trong máu, dẫn đến giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch. Ngoài ra, dùng dầu cải và dầu ô-liu để chế biến thức ăn ở nhiệt độ cao được xem là an toàn nhất đối với sức khoẻ của con người.

- Chất béo chuyển thể là những loại chất béo có dạng cứng dùng trong chế biến sản xuất các thực phẩm thương mại. Chất béo chuyển thể có trong bơ thực vật, bánh qui và bánh ngọt bán trên thị trường. Theo nhiều chuyên gia, ăn những thực phẩm chế biến từ loại chất béo này có thể gây nguy hiểm cho sức khoẻ của con người còn hơn tác hại của chất béo bão hoà. Vì vậy, bạn nên hạn chế cho trẻ dùng các thực phẩm có thành phần chất béo này.

- Các acid béo tối cần thiết (EFAs) gồm có hai loại là omega-3 hoặc omega-6. Hai loại acid này rất cần thiết cho sự phát triển của não bộ và thị giác. Khác hẳn với các loại chất béo trên, cơ thể con người không tự tổng hợp được các acid béo này.

Thông thường, chất béo omega-6 có trong các món ăn nhiều gấp 10 lần so với omega-3. DHA vốn có nhiều trong các loại cá có dầu, là loại omega-3 tối cần thiết đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển và hoàn thiệncác mô não của con người. Ngoài ra, các acid béo này cũng có vai trò quan trọng trong việc điều hoà khả năng tập trung, chú ý và kiểm soát thái độ, hành vi ứng xử của con người. Theo nhiều công trình nghiên cứu y học cho biết, đối với những trẻ gặp khó khănvề vấn đề ngôn ngữ, vận động hoặc tập trung suy nghĩ, nếu được cung cấp một chế độ dinh dưỡng có nhiều acid béo tối cần thiết EFAs sẽ cải thiện được tình trạng này.

     Các loại Vitamin

Vitamin là những chất tối cần thiết để duy trì sức khoẻ của con người, bao gồm 2 nhóm: nhóm tan trong nước như vitamin B phức hợp và vitamin C; nhóm tan trong chất béo như vitamin A, D, E và K. Các loại vitamin tan trong nước sẽ bị phân huỷ ở nhiệt độ cao, do đó không nên nấu quá lâu những loại thực phẩm có chứa vitamin này. Nhóm vitamin tan trong chất béo thường được tích trữ trong cơ thể, nhưng nếu lượng tích trữ quá cao sẽ gây nguy hiểm đến sức khoẻ. Trẻ từ 6 tháng đến 2 tuổi, nếu vẫn còn bú sữa mẹ hoặc bú sữa bình thường nhưng không đến 500ml mỗi ngày, thì có thể có nguy cơ thiếu vitamin A và D. Vì vậy, bạn cần bổ sung hai loại vitamin này cho trẻ bằng nguồn thực phẩm ăn uống.

- Vitamin A bao gồm beta- carotene và retinol rất cần cho sự tăng trưởng, để kháng sự nhiễm trùng, phát triển thị lực, giúp xương cứng chắc và làn da tươi mịn.

- Vitamin B phức hợp bao gồm folate, là những chất tối cần thiết cho sự tăng trưởng của cơ thể, cung cấp nguồn năng lượng, giúp phát triển và hoàn thiện hệ thần kinh và tiêu hoá tốt.

- Vitamin C cần thiết cho sự tăng trưởng, hoàn thiện các mô, giữ cho làn da khoẻ mạnh và hỗ trợ cho sự hấp thu chất sắt của cơ thể.

- Vitamin D được cơ thể tổng hợp khi tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Loại vitamin này giúp hấp thu can-xi, phốt-pho làm chắc răng và xương.

- Vitamin E rất cần thiết để duy trì cấu trúc các tế bào trong cơ thể, giúp cơ thể tái tạo và duy trì các tế bào hồng cầu.

Lưu ý:

Thịt gà quay (còn giữ nguyên lớp da) chứa nhiều chất béo hơn thịt bò (đã loại bớt phần mỡ)

Nguồn cung cấp vitamin A:

- Cà rốt,ớt đỏ, khoai lang

- Cà chua, quả mơ

- Dưa tây, xoài, gan

- Bơ và bơ thực vật

Nguồn cung cấp vitamin B phức hợp:

- Thịt đặc biệt là gan

- Đậu hũ, cá mòi

- Trứng, các loại đậu

- Các loại rau có màu xanh đậm

- Các sản phẩm được chế biến từ sữa

- Ngũ cốc nguyên hạt

- Chiết xuất từ men bia

- Chuối, bơ

Nguồn cung cấp vitamin C:

- Trái cây có vị chua

- Dâu

- Kiwi

- Hạt tiêu

- Khoai tây

- Các loại rau có lá màu xanh đậm.

Nguồn cung cấp vitamin D:

- Cá mòi, cá hồi

- Cá tuna

- Trứng, sữa

- Pho-mát

Nguồn cung cấp vitamin E:

- Bơ

- Các loại đậu

- Dầu thực vật

- Mầm lúa mì

“ Một bữa ăn chay có thể là nguồn dinh dưỡng đầy đủ cho trẻ nếu các dưỡng chất được cân đối và thức ăn không chứa quá nhiều chất xơ”.

Can- xi


Can- xi đóng vai trò rất quan trọng trong việc hình thành và bảo vệ xương, răng. Trẻ em từ 1- 5 tuổi mỗi ngày cần uống 400ml sữa để bổ sung lượng can- xi cần thiết cho cơ thể.

Sắt


Sắt rất cần thiết cho sự phát triển về thể chất lẫn trí não. Cơ thể trẻ sơ sinh luôn tích trữ sẵn một lượng sắt tiêu thụ trong vòng 6 tháng đầu tiên. Sau thời gian đó, trẻ cần được cung cấp bổ sung lượng chất sắt cần thiết, nếu không trẻ sẽ bị thiếu máu, mệt mỏi và dễ bị nhiễm trùng. Trẻ sinh thiếu tháng rất dễ bị thiếu chất sắt, vì lượng sắt dự trữ trong cơ thể của trẻ chỉ đủ để tiêu thụ trong khoảng sáu tuần, thay vì sáu tháng như trẻ sinh đủ tháng. Tuy nhiên, bạn không nên tuỳ tiện bổ sung chất sắt cho trẻ, mà tốt nhất cần phải tham khảo ý kiến của bác sĩ.

Trẻ từ 6 tháng đến 2 tuổi cần luợng chất sắt rất cao vì đây là giai đoạn rất quan trọng để phát triển và hoàn thiện não bộ của trẻ. Nếu trẻ chán ăn, bạn cần phải cho trẻ dùng loại sữa bột chuyên dành cho từng nhóm tuổi khác nhau để bổ sung thêm chất sắt và đảm bảo cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết khác.

Nhận biết những trường hợp thiếu sắt


Tình trạng thiếu sắt ở trẻ khá phổ biến, chiếm khoảng 25%. Tuy nhiên rất khó nhận biết những dấu hiệucủa tình trạng thiếu sắt, ngay cả khi trẻ bị nhiễm trùng hay đau ốm. Vì vậy, khi thấy trẻ xanh xao, phờ phạc, mệt mỏi, biếng ăn, bạn phải nghĩ ngay đến trường hợp thiếu sắt và tìm mọi cách bổ sung bằng những thực phẩm giàu chất sắt cho trẻ và đồng thời tham khảo thêm ý kiến của bác sĩ.


Nguồn thực phẩm cung cấp chất sắt


Chất sắt cung cấp từ nguồn động vật như các loại thịt có màu đỏ (thịt bò, thịt heo…), gan; các loại cá có dầu như cá ngừ, cá thu, cá hồi dễ được cơ thể hấp thu hơn so với chất sắt cung cấp từ nguồn thực vật như các loại đậu, rau có màu xanh sậm và các thực phẩm được chế biến từ ngũ cốc.

Để cải thiện khả năng hấp thu chất sắt cung cấp từ các nguồn thực vật, trong bữa ăn của trẻ, chúng ta có thể bổ sung thêm các thực phẩm giàu vitamin C như quả kiwi, trái cây có vị chua, dâu, nước ép trái cây, ớt ngọt… hay các thực phẩm giàu chất đạm như cá, thịt động vật (loại không có mỡ).

Các bậc cha mẹ có chế độ ăn chay trường với thực phẩm chủ yếu là rau quả thường lo ngại vấn đề dinh dưỡng của trẻ con. Thật ra, một bữa ăn chay cân đối các dưỡng chất và không có quá nhiều chất xơ có thể là nguồn dinh dưỡng đầy đủ cho trẻ. Chế độ ăn chay sẽ trở nên bất lợi nếu thực phảm ăn chay chứa nhiều chất xơ, cung cấp quá ít nhiệt lượng và các chất béo cần thiết ngăn cản cơ thể hấp thu chất sắt.

Tăng cường chất đạm

Chất đạm cung cấp từ thịt động vật, trứng, sữa và các sản phẩm từ sữa có chất lượng rất cao, và chứa đầy đủ các loại acid amino cần thiết cho cơ thể. Còn chất đạm cung cấp từ nguồn thực vật thường thấy trong các loại hạt mầm, các loại đậu có chất lượng thấp hơn- ngoại trừ đậu nành là thực phẩm có nguồn gốc thực vật duy nhất có chứa tất cả các acid amino cần thiết.

Vì vậy, đối với trường hợp trẻ ăn chay, bạn nên cho trẻ ăn những thực phẩm giàu chất đạm có từ thực vật như ngũ cốc, cơm, bánh mì, đậu lăng, trứng và các thực phẩm chế biến từ bơ, sữa. Để đảm bảo khẩu phần ăn đầy đủ cho trẻ, bạn cũng có thể lựa chọn hai trong ba nhóm cung cấp nhiều chất đạm từ thực vật như: nhóm các loại đậu có hạt (đậu Hà Lan, đậu lăng…); nhóm ngũ cốc (lúa mì, gạo, yến mạch, bánh mì, mì sợi…); nhóm các loại đậu và hạt có mầm.

Hoặc bạn có thể chế biến một loại nước xốt từ pho- mát rồi đem đông lạnh, sau đó cho trẻ ăn kèm với trái cây nghiền nhuyễn.

Cải thiện sự hấp thu chất sắt

Những trẻ ăn chay thường có nguy cơ bị thiếu chất sắt vì không được cung cấp các thực phẩm có nguồn gốc từ động vật vốn chứa nhiều chất sắt và rất dễ hấp thu vào cơ thể. Chất sắt cung cấp từ nguồn thực vật khó hấp thu hơn, vì vậy điều quan trọng mà bạn cần phải nhớ là nên bổ sung vào thực đơn của trẻ các thực phẩm có chứa nhiều vitamin C nhằm tăng cường khả năng hấp thu chất sắt từ nguồn thực vật.

Tuy nhiên, đối với trường hợp trẻ ăn chay hoàn toàn (không ăn thịt, trứng và các sản phẩm từ sữa…), bạn nên tham khảo ý kiến của các bác sĩ chuyên khoa về dinh dưỡng trẻ em để xây dựng thực đơn hàng ngày cho trẻ nhằm đảm bảo cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển của trẻ.

Kẽm


Kẽm rất cần thiết cho sự tăng trưởng bình thường, cũng như tăng cường hiệu quả hoạt động của hệ miễn dịch. Kẽm có nhiều trong thịt nạc, ngũ cốc, đậu khô và hải sản.

Nguồn cung cấp can- xi:

- Sữa

- Pho- mát

- Sữa chua

- Rau xanh có nhiều lá

- Đậu hũ

- Các loại hạt

- Cá mòi

- Bột mè

Nguồn cung cấp chất sắt:

- Gan và các loại thịt có màu đỏ (thịt bò, thịt heo…)

- Lòng đỏ trứng

- Các loại cá có nhiều dầu (tươi hoặc đóng hộp)

- Các loại đậu có hạt (đậu lăng…)

- Thực phẩm chế biến công nghiệp từ ngũ cốc

- Rau có lá màu xanh đậm

- Trái cây sấy khô như quả mơ…

Nguồn cung cấp chất sắt cho những người ăn chay:

- Thực phẩm chế biến công nghiệp từ ngũ cốc

- Bột mì

- Các loại đậu có hạt

- Rau có lá màu xanh đậm

- Trái cây sấy khô như quả mơ

Nguồn cung cấp kẽm:

- Các loại động vật có vỏ (tôm, cua, nghêu, sò…)

- Các loại thịt có màu đỏ (thịt bò, thịt heo…)

- Đậu phộng

- Hạt hướng dương

- Thực phẩm chế biến công nghiệp từ ngũ cốc


(St)